Thứ Hai, 22 tháng 4, 2013

Hồ sơ hành chính số 08 - bảo vệ người khởi kiện bà Hồ Thị Ngoan.


BÀI THU HOẠCH DIỄN ÁN
HỒ SƠ HÀNH CHÍNH SỐ  08

I.      TÓM TẮT NỘI DUNG VỤ KIỆN:

1.  Đối tượng khởi kiện

Quyết định số 643/QĐ–UB ngày 19 tháng 5 năm 2006 của Chủ Tịch Uỷ ban nhân dân huyện Bình Chánh, thành phố H về việc cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất ở  cho ông Hồ Tấn Lực tại ấp 5, xã Phạm Văn Hai.  

2. Tư cách đương sự:

Người khởi kiện: bà Hồ Thị Ngoan, sinh năm 1959.
Địa chỉ thường trú:         89 ấp 1, thị trấn Mỏ Cày, tỉnh B.
Người được ủy quyền: bà Hồ Thị Kim Thanh sinh năm 1956.

Người bị kiện:Uỷ ban nhân dân huyện Bình Chánh.
Người được ủy quyền: Ông Phùng quốc Việt, cán bộ thanh tra huyện Bình Chánh, thành phố H.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: ông Hồ Tấn Lực, sinh năm 1975,
Địa chỉ thương trú:         5B31, ấp 5, xã Phạm Văn Hai, huyện Bình Chánh, thành phố H.

3.  Nội dung sự việc:
Ông Hồ Văn Bê sinh ngày 14/08/1920 và Lê Thị Khuê sinh năm 1919, cùng trú tại ấp 1, thị trấn Mỏ Cày, tỉnh B là vợ chồng từ trước năm 1945, có tất cả 09 người con gồm:
1.     Hồ Văn Ngộ sinh năm 1941,
2.     Hồ Thị Lệ sinh năm 1943
3.     Hồ Thị Tý sinh năm 1945
4.     Hồ Thị Dậu sinh năm 1948
5.     Hồ Văn Bánh sinh năm 1952
6.     Hồ Thị Hoàng sinh năm 1954
7.     Hồ Thị Kim Thanh sinh năm 1956
8.     Hồ Thị Ngoan sinh măm 1969
9.     Hồ Thị Kim Xuân sinh năm 1963
Năm 1981 ông Bê, bà Khuê đi kinh tế mới tại nông trường quốc doanh An Hạ, thuộc sở nông nghiệp và phát triển nông thôn thành phố H, theo lời trình bày của bà Hồ Thị Ngoan thì lúc đó Nông trường An Hạ có cấp cho ông Bê và bà Thanh ( cha mẹ của bà Ngoan) một lô đất 600m2 trên tỉnh lộ, nay là số nhà 5B31 Ấp 5, xã Phạm Văn Hai, huyện Bình Chánh, khi được cấp đất thì ông Bê, bà Khuê đã tiến hành xây dựng nhà và đăng ký hộ khẩu tại đó.
Năm 1986 ông Bê bị tai nạn trên đường về quê đã chết (06/02/1986) và bà Khuê bị thương nặng nên bà Ngoan đã đưa mẹ về quê chạy chữa thuốc men, trong thời gian đó do buồn chuyện gia đình ông Hồ Văn Ngộ có lên nhà của bà Khuê, trong hoàn cảnh đó bà Khuê đã nhờ ông Ngộ ở căn nhà đó để trông coi. Đến năm 1989 khi Nhà nước có chủ trương kê khai đăng ký nhà đất, ông Ngộ có về quê nói cho bà Khuê biết, bà Khuê đã yêu cầu anh Ngộ làm lại hồ sơ để chuyển tên căn nhà sang cho bà, bởi lúc đó ông Bê là người đứng tên trên giấy tờ nhà đất nhưng ông Bê đã chết.
Tuy nhiên, ông Ngộ không làm theo lời của bà Khuê mà sau đó đã tiến hành xin đăng ký kê khai cho ông Ngộ và được nông trường quốc doanh An Hạ cấp giấy chứng số 94/CN ngày 1/7/1989, ông Ngộ đã sử dụng ổn định mảnh đất đó từ năm 1989, cho đến năm 2002 thì bà Ngoan và bà Khuê mới phát hiện được điều đó nên đã bàn bạc thỏa thuận với ông Ngộ đề nghị ông Ngộ trả lại phần diện tích đó cho bà Khuê. Tuy nhiên vào tháng 04/2003 ông Ngộ bị bệnh nên đã qua đời.
Ngày 15/5/2003 gia đình bà Khuê có làm đơn khiếu nại gửi đến ấp 5, tuy nhiên sự việc không được giải quyết. Ngày 01/08/2003 bà Khuê có làm tờ di chúc và tờ ủy quyền với nội dung : giao căn nhà và đất thổ cư tại xã Phạm Văn Hai cho con gái là bà Hồ Thị Ngoan toàn quyền sử dụng. Từ tháng 02/2006 đến 14/6/2006  bà Ngoan nhiều lần có đơn gửi cho ấp nhưng ấp không giải quyết, đến ngày 15/06/2006 bà Ngoan nộp đơn tại UBND xã Phạm Văn Hai yêu cầu giải quyết , đến 15h cùng ngày UBND đã có có buổi làm việc, tại buổi làm việc thì bà Ngoan được biết phần diện tích nhà và đât đang tranh chấp đã được UBND huyện Bình Chánh cấp giấy chứng nhận cho ông Nguyễn Tấn Lực ( con của ông Ngộ), theo quyết định số 643/QĐ-UB, ngày 19 tháng 5 năm 2006. Nhận thấy quyền lợi của mình bị xâm phạm bà Hồ Thị Ngoan đã có đơn khiếu nại gửi UBND huyện Bình Chánh vào ngày 28 tháng 07 năm 2006. Ngày 21 tháng 02 năm 2007 chủ tịch UBND huyện Bình Chánh ban hành quyết định số 638/QĐ-UB để giải quyết đơn khiếu nại của bà Ngoan, theo đó chủ tịch UBND huyện Bình Chánh không chấp nhận đơn khiếu nại của bà Ngoan vì cho rằng việc cấp giấy chứng nhận cho ông Nguyễn Tấn Lực là đúng theo quy định của pháp luật.
Nhận thấy quyền lợi của mình bị xâm phạm ngày 05/03/2007 bà Hồ Thị Ngoan đã có đơn khởi kiện UBND huyện Binch Chánh,  tại Tòa án nhân huyện Bình Chánh yêu cầu UBND huyện Bình Chánh hủy bỏ quyết định 643/QĐ-UB ngày 19 tháng 05 năm 2006 và Quyết định số 638/QĐ-UB ngày 21/02/2007 của chủ tịch UBND huyện Bình Chánh và hủy  Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 643/2006 đã cấp cho Hồ Tấn Lực vào ngày 19 tháng 05 năm 2006.
II. DANH MỤC CÁC VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT ĐƯỢC ÁP DỤNG:
- Bộ luật dân sự 2005;
- Luật đất đai năm 2003;
- Nghị định 181/2004/NĐ–CP ngày 29 tháng 10 năm 2004 về thi hành Luật Đất đai năm 2003;
- Nghị định 84/2007/NĐ-CP 25/5/2007
- Pháp lệnh thủ tục giải giải quyết các vụ án hành chính 1996, sửa đổi bổ sung 1998  và năm 2006;
- Nghị quyết 04/2006/NQ-HĐTP ngày 04/8/2006 hướng dẫn Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính;
- Luật Kiếu nại, tố cáo năm 1998, sửa đổi bổ sung năm 2004, 2005;
- Nghị định 136/2006/NĐ-CP ngày 14/11/2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo và các Luật sửa đởi, bổ sung một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo.

III CÂU HỎI DỰ KIẾN TẠI PHIÊN TÒA:

1.     Hỏi người bị kiện: UBND huyện Bình Chánh

-         Xin ông cho biết căn cứ nào để ông phó chủ tịch UBND Bình Chánh ra quyết định 643/QĐ-UB cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng dất ở cho ông Hồ  Tấn Lực?
-         Ông cho biết thẩm quyền cấp giấy chứng nhận theo quy định của pháp luật trong trường hợp này thuộc về ai?
-         Ông cho biết khi cấp giấy chứng nhận cho ông Ngộ thì UB đã tiến hành niêm yết trong thời gian bao lâu? Cụ thể là từ thời điểm nào đến thời điểm nào?
-         Khi tiến hành cấp giấy thì ông có xác nhận tình trạng phần diện tích đất đó không?
-         Khi đọc bản tường trình quan hệ nhân thân của ông Hồ Tấn Lực thì ông có nhận thấy thiếu vợ của ông Hồ Văn Ngộ và cha mẹ của ông Ngộ hay không?


2.     Hỏi ông Hồ Tấn Lực - người có quyền và nghĩa vụ liên quan:

-         Ông cho biết nguồn gốc phần diện tích đất mà ông được cấp giấy chứng nhận? Trước khi được cấp cho ông Ngộ thì phần diện tích đất đó là của ai?
-         Xin ông cho biết ông Hồ Văn Ngộ có tất cả bao nhiêu người con?
-         Khi chết ông Ngộ có để lại di chúc hay không?
-         Bà Nguyễn Thị Nhật và ông Hồ Văn Ngộ có đăng ký kết hôn không? Họ chung sống với nhau từ thời gian nào?
-         Tại sao tại thời điểm ông Ngộ chết, bà Khuê vẫn còn sống, vợ ông Ngộ vẫn còn sống, nhưng khi làm tờ trường trinh quan hệ nhân thân thì ông lại không ghi tên hai người này vào?
-         Ông cho biết trong khoảng thời gian từ năm 2002 đến 2003 thì phía bà Ngoan có tranh chấp phần đất đó với cha ông là ông Hồ Văn Ngộ có đúng không?
-         Sau khi cha ông mất thì bà Ngoan tiếp tục tranh chấp phần diện tích đất đó với ông và các anh em của ông đúng không?
-         Vậy tại sao đất đang tranh chấp mà ông vẫn tiến hành việc khai nhận di sản thừa kế được?

3.     Hỏi người khởi kiện bà Hồ Thị Ngoan.

-         Xin bà cho biết là phần diện tích đang tranh chấp có nguồn gốc như thế nào?
-         Sau khi bà về Bến Tre thì bà có thường xuyên thăm nom mảnh đất đó hay không?
-         Trước khi mẹ bà qua đời đã có tâm nguyện thế nào đối với phần diện tích đất đó?
-         Khi phát hiện phần diện tích đó được cấp cho ông Ngộ thì gia đình bà đã thương lượng với nhau thế nào? Nguyên nhân nào làm cho việc thương lượng đó không thành?
-         Khi ông Ngộ chết đi thì bà có làm đơn khiếu nại đến phường không? Xung quanh khu vực đó có ai biết phần diện tích đất đó đang tranh chấp không?



IV. BẢN LUẬN CỨ BẢO VỆ BÀ HỒ THỊ NGOAN:

Kính thưa Hội đồng xét xử ;
Thưa Đại diện Viện Kiểm sát;
Tôi là Luật sư Nguyễn Quyết Quyền thuộc Văn phòng Luật sư QQlawyer - Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh. Tôi tham gia phiên tòa ngày hôm nay với tư cách là Luật sư bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp cho bà Hồ Thị Ngoan trong vụ kiện Quyết định số 643/QĐ–UB ngày 19 tháng 5 năm 2006 của Uỷ ban nhân dân huyện Bình Chánh, thành phố H cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất ở  cho ông Hồ Tấn Lực.
Qua việc nghiên cứu hồ sơ vụ án, thu thập các chứng cứ có liên quan và đặc biệc là qua buổi thẩm vấn công khai tại phiên toà hôm nay, tôi xin khẳng định yêu cầu khởi kiện của thân chủ tôi – bà Nguyễn Thị Ngoan là có căn cứ và cơ sở pháp lý bởi các lý do sau:
          Về thẩm quyền: Quyết định số 643/QĐ-UB ngày 19/5/2006 về việc cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở cho ông Hồ Tấn Lực là sai thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Căn cứ vào khoản 2 Điều 52 Luật đất đai 2003 thì thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho cá nhân thuộc về UBND cấp huyện, cụ thể trong trường hợp này thì thẩm quyền cấp giấy chứng nhận QSDĐ cho ông Lực thuộc về UBND huyện Bình Chánh, thế nhưng Quyết định 643/QĐ-UB lại do ông phó chủ tịch ký thay cho ông Chủ tịch UBND huyện Bình Chánh như vậy rõ ràng thẩm quyền ban hành quyết định này là trái với quy định của pháp luật. Khoản 2 Điều 52 quy định: “Điu 52. Thẩm quyn cp giy chng nhn quyn s dng đất
2. Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư, người Việt Nam định cư ở nước ngoài mua nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở.”
          Về đối tượng được cấp giấy: Quyết định 643/QĐ-UB cấp giấy chứng nhận cho ông Hồ Tấn Lực là đại diện cho những người thừa kế của ông Hồ Văn Ngộ là hoàn toàn trái với quy định của pháp luật bởi lẽ:
Ông Ngộ chết năm 2003 nhưng không để lại di chúc như vậy căn cứ vào khoản 1 Điều 679 Bộ luật Dân sự 1995 – tương ứng với khoản 1 Điều 676 Bộ luật Dân sự 2005 thì hàng thừa kế thứ 1 của ông Ngộ gồm có:  6 người con của ông Ngộ, bà Nguyễn Thị Nhật – là vợ của ông Ngộ, bà Lê Thị Khuê – là mẹ của ông Ngộ, ấy vậy mà quá trình cấp giấy cho ông Hồ Tấn Lực thì chỉ có sự đồng ý của 4 người con ông Ngộ, còn thiếu ý kiến của 02 người con, bà Nhật và Bà Khuê. Điều nay đã xâm phạm nghiêm trọng đến quyền được hưởng thừa kế của Bà Nhật, bà Khuê và 2 người con của ông Ngộ. Đồng thời vi phạm nghiêm trọng trong quá trình cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.
Về quy trình cấp giấy: Quy trình cấp giấy cho Hồ Văn Ngộ đã vi phạm nghiêm trọng hai quy định:
Thứ nhất, tại thời điểm cấp giấy chứng nhận phần diện tích đất đang tranh chấp nhưng vẫn được cấp giấy chứng nhận điều nay là vi phạm quy định tại điểm a khoản 2 Điều 135 Nghị định 181/2004/NĐ-CP của chính phủ. Điểm a khoản 2 Điều 135 quy định:
2. Việc cp giy chng nhn quyn s dng đất được quy định như sau:
a) ủy ban nhân dân xã, thị trấn có trách nhiệm thẩm tra, xác nhận vào đơn xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất về tình trạng tranh chấp đất đai đối với thửa đất; trường hợp người đang sử dụng đất không có giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai thì thẩm tra, xác nhận về nguồn gốc và thời điểm sử dụng đất, tình trạng tranh chấp đất đai đối với thửa đất, sự phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được xét duyệt; công bố công khai danh sách các trường hợp đủ điều kiện và không đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại trụ sở ủy ban nhân dân xã, thị trấn trong thời gian mười lăm (15) ngày; xem xét các ý kiến đóng góp đối với các trường hợp xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; gửi hồ sơ đến Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất thuộc Phòng Tài nguyên và Môi trường;”
Thứ hai, thời gian niêm yết công bố công khai danh sách tại UBND xã theo quy định trên là 15 ngày, tuy nhiên tại thông báo số 177/TB-UB của UBND xã Phạm Văn Hai thì trường hợp cấp giấy cho ông Hồ Tấn Lực chỉ được niêm yết công khai 7 ngày.
          Từ những phân tích nêu trên tôi xin khẳng định việc ban hành quyết định số 643/QĐ-UB ngày 19 tháng 5 năm 2006 của ông phó chủ tịch UBND huyện Bình Chánh là hoàn toàn trái quy định của pháp luật. Vì vậy tôi kính mong Hội đồng xét xử căn cứ vào : khoản 2 Điều 52 luật Đất đai 2003, điểm a, khoản 1, Điều 135 Nghị định số 181/NĐ-CP, điểm a khoản 1 Điều 676 BLDS 2005, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Hồ Thị Ngoan, tuyên hủy toàn bộ nội dung Quyết định số 643/QĐ-UB ngày 19 tháng 05 năm 2006 và tiến hành thu hồi, hủy bỏ giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất số 70139272454 cấp cho ông Hồ Tấn Lực ngày 19 tháng 05 năm 2006.
          Tôi xin trân trọng cảm ơn sự lắng nghe của Hội đồng xét xử và quý vị có mặt tại phiên Tòa ngày hôm nay.

Hồ sơ lao động 02 - Tranh chấp về xử lý kỷ luật lao động theo hình thức sa thải.


BÀI THU HOẠCH DIỄN ÁN
HỒ SƠ LAO ĐỘNG 02
TRANH CHẤP VỀ XỬ LÝ KỶ LUẬT LAO ĐỘNG THEO
 HÌNH THỨC SA THẢI
I.                  TÓM TẮT NỘI DUNG VỤ ÁN
Nguyên đơn: Ông  Trần Ngọc Thắng sinh năm 1957
Địa chỉ: 25A Yên Thế, Phường 2, , quận Tân Bình TP.Hồ Chí Minh.
Bị đơn:Công ty xăng dầu Hàng không Việt Nam
Địa chỉ: 124/1 Bạch Đằng phường 2, quận Tân Bình, TP. Hồ Chí Minh.(trụ sở chính : Sân bay Gia Lâm – TP Hà Nội)
Quan hệ pháp luật  tranh chấp: về việc xử lý kỷ luật lao động theo hình thức sa thải
Nội dung sự việc:
-         Ngày 01/7/2004 ông Trần Ngọc Thắng và công ty Hàng không Việt Nam có ký kết với nhau một hợp đồng lao động không xác định thời hạn, công việc mà ông Thắng phải làm là theo dõi công tác dự án kho cảng dầu nguồn – Nhà Bè – TP. HCM  và các công việc cụ thể do VPĐD giao. Địa điểm làm việc tại VPĐD tại TP Hồ Chí Minh.
-         Trong quá trình làm việc ngày 19 tháng 3 năm 2006 ông Thắng làm đơn xin công ty nghỉ ½  phép năm  2006  và đã được nghỉ từ ngày 26/03/2006đến 06 tháng 04 năm 2006.(12 ngày làm việc)
-         Ngày 26 tháng 4 năm 2006 ông Thắng lại tiếp tục xin nghỉ phép năm với lý do “ thăm cha mẹ vợ”  còn lại nhưng không được công ty đồng ý.
-         Ngày 15 tháng 5 năm 2006 tập thể cán bộ - công nhân viên của văn phòng đại diện đã lập biên bản về việc ông Trần Ngọc Thắng tự ý bỏ việc không đến cơ quan.
-         Ngày 17 tháng 5/2006 ông Thắng có đơn xin nghỉ không lương với lí do chăm sóc mẹ vợ ốm và mẹ đẻ bị bệnh ung thư tái phát nhưng vẫn không được công ty đồng ý.
-         Ngày21 tháng 5 năm 2006 Chánh văn phòng đại diện tại Hồ Chí Minh đã gửi thông báo triệu tập ông Thắng phải có mặt tại Văn phòng đại diện công ty để thực hiện nhiệm vụ lao động nhưng ông Thắng vẫn không đến.
-         Ngày 4/6/2006 mẹ đẻ ông Thắng mất, ông Thắng làm đơn xin vé máy bay khứ hồi từ Hà Nội vào Hồ Chí Minh( sau đó về Bình Thuận), công ty đã cho ông Thắng ứng tiền mua vé và cho phép ông thắng về lo tang cho mẹ trong 4 ngày 4,5,6,7 tháng 6 năm 2006. Tuy nhiên sau khi lo tang xong cho mẹ thì ông Thắng không trở lại làm việc mà trở lại ra Bắc để chăm sóc cha mẹ vợ.
-         Ngày 4 tháng 6 năm 2006 giám đốc Trần Minh đã Ủy quyền cho ông Nguyễn Trọng Kim chủ trì, kết hợp với BCH công đoàn cơ sở công ty tại TP Hồ Chí Minh để tiến hành lập biên bản xử  lý kỷ luật đối với ông Thắng.
-         Ngày 4/7/2006 VPDĐ có giấy mời ông Thắng vào lúc 8h ngày 11/7/2006 có mặt tại văn phòng để lập biên bản về việc tự ý bỏ việc nhưng ông Thắng không đến, ngày 11/7/2006 tập thể CB-CNV VPĐD đã lập biên bản về sự vắng mặt của ông Thắng.
-         Ngày 12 tháng 07 năm 2006 VPĐD lại có thông báo số 39/VPĐĐ để triệu tập ông Thắng đúng 14h cùng ngày phải có mặt tại văn phòng đại diện công ty để lập biên bản về viêc tự ý bỏ việc, nhưng  ông  Thắng vẫn không có mặt.
-         Ngày 14 tháng 7 năm 2006 VPĐD tiếp tục có thông báo số 41/VPĐD đúng 08h ngày 16 tháng 7 năm 2006 có mặt tại VPĐD để lập biên bản về việc tự ý bỏ việc.
-         Ngày 16 tháng 7 năm 2006 ông Thắng vẫn không có mặt tại VPĐD nên ông Nguyễn Trọng Kim cùng ông Nguyễn Trí Tuệ ủy viên thường vụ BCHCĐ cơ sở công đoàn công ty xăng Dầu Hàng không tại TP Hồ CHí Minh, ông Nguyễn Trường Tộ - chánh văn phòng VPĐD, bà Trịnh Thị Lợi – chủ tịch công đoàn bộ phận VPĐD và ông Đặng Mai Lâm – Chuyên viên đã lập biên bản xử lý vi phạm kỷ luật lao động với hình thức sa thải đối với ông Trần Ngọc Thắng.
-         Ngày 03 tháng 08 năm 2006 Giám đốc công ty Xăng Dầu Hàng không ra quyết định số 182/XDHK-TCCB  xử lý kỷ luật lao động bằng hình thức sa thải đối với ông Trần Ngọc Thắng với lý do “ tự ý bỏ việc từ ngày 07/5/2006 đến 20/7/2006 không được cấp có thẩm quyền cho phép”
-         Ngày 03 tháng 03 năm 2007 ông Thắng làm đơn khởi kiện gửi Tòa án nhân dân Quận Tân Bình, TP Hồ Chí Minh yêu cầu Tòa án phải giải quyết các vấn đề sau:
-         1. Buộc công ty xăng dầu Hàng không hủy quyết định số 182/XDHK-TCCB ngày 03 tháng 8 năm 2006 về việc sa thải ông Thắng.
-         2. Công ty xăng dầu Hàng không phải nhận ông Thắng trở lại làm việc
-         3. Yêu cầu công ty xăng dầu Hàng không bồi thường toàn bộ số tiền trong khoảng thời gian ông Thắng không được làm việc tại công ty từ tháng 01/2006 trừ đi những khoản mà ông Thắng đã nhận.
II.               Những câu hỏi dự kiến tại phiên Tòa:
Hỏi nguyên đơn:
1)    Tại sao ông xin nghỉ nửa phép năm còn lại.
2)    Tại sao ông xin nghỉ không hưởng lương vào ngày 17 tháng 5 năm 2006.
3)    Ông cho biết tại sao ông xin nghỉ, công ty chưa cho nghỉ mà ông vẫn nghỉ?
4)    Ông cho biết ông có nhận được các thông báo của Công ty gửi cho ông đến họp tại công ty vào các ngày 11/7/2006, ngày 12/7/2006 và ngày 16/7/2006 không?
5)    Khi ông làm đơn xin nghỉ ông có để lại địa chỉ trong đơn không?
6)    Đó là địa chỉ nào?
7)     Trong các ngày 11, 12, 16/12 năm 2006 ông có nhận được điện thoại từ văn phòng đại diện của công ty hay không?

8)    Theo ông địa chỉ các thông báo gửi về cho ông tại số 13B Yên Thế, P. 2, Q. Tân Bình, TP HCM có đúng với địa chỉ ông đã yêu cầu liên lạc với ông không?
9)    Tại sao ông lại không có mặt tại buổi làm việc ngày 16 tháng 7 năm 2006?
              Hỏi đại diện bị đơn
1)Cty cho biết tại sao trước đây khi ông Thắng xin nghỉ không hưởng lương thì công ty không yêu cầu NLĐ phải ý kiến của VPĐD, nhưng lần này lại yêu cầu phải có ý kiến của VPĐD?
2)VPĐD hay GĐ công ty Xăng dầu Hàng Không VN là người quản lý ông Thắng?
3)Cty cho biết tại sao công ty không gửi GM ông Thắng về địa chỉ mà ông Thắng đã ghi trong các đơn xin phép?
4)Nhưng trong báo cáo ngày 21 tháng 5 năm 2006 ông Thắng có để lại địa chỉ khác so với địa chỉ trong hợp đồng, tại sao công ty lại không gửi theo địa chỉ đó?
5)Cty cho biết tại GM lần 2 ngày gửi là ngày 12/7/2006; trong khi ấn định họp là 14 giờ cùng ngày. Theo Công ty, liệu ông Thắng có thể đến dự họp được không ?
6)Theo công ty, việc NLĐ xin nghỉ việc tại DN để chăm sóc mẹ vợ có phải là chính đáng không?
7)Ông cho biết tại thời điểm xử lý kỷ luật ông Thắng, ông Minh đang ở đâu?
8)Sau khi sa thải ông Thắng, công ty có văn bản thông báo cho sở lao động thương binh xã hội thành phố Hà Nội biết không?

III.           Bản luận cứ bảo vệ cho nguyên đơn.
-                     Kính thưa Hội đồng xét xử, thưa vị luật sư đồng nghiệp, thưa tất cả mọi người dự khán tại phiên Tòa ngày hôm nay.
-                     Tôi là luật sư Nguyễn Quyết Quyền, đến từ Văn phòng luật sư QQlawyer thuộc đoàn luật sư thành phố Hồ Chí Minh,  là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông Trần Ngọc Thắng – nguyên đơn trong vụ án tranh chấp về việc xử lý kỷ luật lao động theo hình thức sa thải.
-         Thưa Hội đồng xét xử, sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án cũng như sau khi lắng nghe kết quả hỏi công khai tại phiên Tòa ngày hôm nay tôi xin khằng định việc công ty xăng dầu Hàng không áp dụng hình thức xử lý kỷ luật bằng hình thức sa thải đối với ông Trần Ngọc Thắng là hoàn toàn không có căn cứ và trái với các quy định của pháp luật lao động hiện hành, bởi các lẻ sau:
-                    Về lý do sa thải: Lý do công ty xăng dầu Hàng không đưa ra để sa thải ông Thắng là căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 85 Bộ luật lao động : “người lao động tự ý bỏ việc năm ngày cộng dồn trong một tháng hoặc hai mươi ngày cộng dồn trong một năm mà không có lý do chính đáng”. Việc công ty căn cứ vào điều khoản này để xử lý kỷ luật ông Thắng bằng hình thức sa thải là một việc làm hoàn toàn không khách quan và không đánh giá đúng nội tình sự việc. Thưa Hội đồng xét xử, tôi thừa nhận là ông Thắng đã nghỉ việc từ ngày 7/5/2006 đến 20/7/2006 nhưng đây không thể được xem là hành vi tự ý bỏ việc và đây là trường hợp người lao động nghỉ việc có lí do chính đáng. Bởi lẻ, từ ngày 7/5/2006 đến ngày 20/7/2006 là những ngày mà thân chủ tôi phải gồng mình lên để lo cho công viêc gia đình, hết chăm lo cho vợ bị ốm phải đi bệnh viện sau đó về điều trị tại nhà rồi đến lo  cho cha mẹ vợ bị bệnh ốm ngoài Bắc, rồi thì phải lo hậu sự cho người mẹ ruột bị bệnh ung thư ở Bình Thuận, một mình thân chủ tôi trong một khoảng thời gian ngắn như vậy nhưng phải lo gánh chịu không biết bao nhiêu trọng trách nặng nề, thân chủ tôi phải nghỉ việc để làm trọn đạo hiếu của người con, làm tròn nghĩa vụ của một người chồng. Theo quy định tại điểm b khoản 3 Mục III thông tư 19 /2003/TT-BLĐTBXH hướng dẫn chi tiết một số Điều của Nghị định số 41/CP ngày 6 tháng 7 năm 1995 của Chính phủ thì lí do chính đáng theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 85 là “Do thân nhân bị ốm có xác nhận của cơ sở y tế được thành lập hợp pháp tiếp nhận khám và điều trị. Thân nhân bị ốm bao gồm: Bố, mẹ đẻ; bố, mẹ vợ hoặc chồng; vợ hoặc chồng; con”.
-                     Trong khoảng thời gian đó thân chủ tôi biết là mình không thể vừa lo việc gia đình vừa lo việc cho công ty nên thân chủ tôi đã làm đơn xin nghỉ phép năm ( vào ngày 26/4/2006), xin nghỉ không lương ngày 17/05/2006 ấy thế mà công ty lại cố tình làm khó cho thân chủ tôi, không cho thân chủ tôi thực những quyền của người lao động, công ty đã đưa ra những lí do hết sức vô lý để không chấp nhận đơn xin nghỉ của thân chủ tôi như: “ đang chờ đoàn thanh tra vào làm việc”, “đơn chưa có sự đông ý của văn phòng đại diện”, thưa Hội đồng xét xử, trước đây vào năm 2004 thân chủ tôi cũng đã từng xin nghỉ không lương, lúc đó thân chủ tôi chỉ cần có một lá đơn và nêu lí do là “có việc riêng” và nộp trực tiếp tại trụ sở công ty thì giám đốc công ty chấp nhận ngay mà không cần có sự đồng ý hay không đồng ý của VPĐD ấy vậy mà lần nay thân chủ tôi đang gặp khó khăn thực sự, công ty cũng biết rõ hoàn cảnh nhưng lại không chấp thuận đơn nghỉ không lương của thân chủ tôi, phải chăng bên trong còn có nội tình khác liên quan tới việc thân chủ tôi đi tố giác những việc làm sai trái của lãnh đạo công ty?
-                     Về trình tự thủ tục ra quyết định sa thải:
Thưa HĐXX , trình tự xử lý kỷ luật của công ty xăng dầu hàng không Việt Nam đối với thân chủ tôi là hoàn toàn trái pháp luật bởi lẻ quá trình xử lý kỷ luật không có sự tham gia của ông Thắng, không để cho ông Thắng bày tỏ lí do cũng như tự bào chữa cho mình, việc làm này là vi phạm nghiêm trọng quy định của pháp luật khi tiến hành việc kỷ luật bằng hình thức sa thải, cụ thể đã vi phạm quy định tại khoản 3 Điều 87 Bộ luật Lao động, khoản 3 Điều 87 quy định “khi xem xét xử lý kỷ luật lao động phải có mặt đương sự và phải có sự có mặt của đại diện ban chấp hành công đoàn cơ sở trong doanh nghiệp” Điều này đã được cụ thể hóa tại điểm c khoản 1 Điều 11 Nghị định 41/CP ngày 06 tháng 7 năm 1995. Điểu c khoản 1 quy định “Đương sự phải có mặt và có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư, bào chữa viên nhân dân, hoặc người khác bào chữa. Trong trường hợp đương sự là người dưới 15 tuổi thì phải có sự tham gia của cha, mẹ, hoặc người đỡ đầu hợp pháp của đương sự. Nếu người sử dụng lao động đã 3 lần thông báo bằng văn bản mà đương sự vẫn vắng mặt thì người sử dụng lao động có quyền xử lý kỷ luật và thông báo quyết định kỷ luật cho đương sự biết”.
Thưa HĐXX, trong quá trình giải quyết vụ án phía công ty đã đưa ra  03 thông báo để chứng minh cho việc công ty đã triệu tập ông Thắng, nhưng tôi xin khẳng định những thông báo mà công ty đưa chỉ là dùng để che đậy cho việc xử lý kỷ luật sai trái của mình:
1.     Thông báo ngày 4/7/2006, thông báo này được soạn thảo ngày 4/7/2006 ấy vậy mà giấy báo phát công ty cung cấp cho Tòa lại đề ngày gửi là ngày 2/7/2006, ngày phát là ngày 03/7/2006, tại phiên Tòa ngày hôm nay đại diện của công ty cũng không chứng minh được sự mâu thuẩn này? Hơn nữa, giấy báo phát đó là báo phát do chị Lan ký nhận chứ không phải là do anh Thắng ký nhận.
2.     Thông báo ngày 12/7/2006 lại càng vô lý hơn nữa là, công ty ra thông báo vào buổi sáng như đã bắt buộc ông Thắng có mặt vào lúc 14 giờ cùng ngày, thử hỏi công ty làm cách nào mà gửi thông báo này đến cho thân chủ tôi? Và liệu thân chủ tôi có thể từ ngoài Bắc để vào Hồ Chí Minh tham dự buổi làm việc này không?
3.     Thông báo ngày 16/7/2006 thì công ty lại gửi vào địa chỉ mà ông Thắng đã chuyển  đi từ trước đó mấy tháng, nên ông Thắng cũng không hề nhận được các thông báo này.
Như vậy rõ ràng là việc triệu tập ông Thắng của công ty là hoàn toàn không đảm bảo đúng quy định, điều đó chứng tỏ việc xử lý kỷ luật với hình thức sa thải của công ty là  hoàn toàn trái pháp luật về mặt trình tự thủ tục.
Về thẩm quyền xử lý kỷ luật lao động:
Thưa HĐXX, trong quá trình xử lý kỷ luật ông Thắng công ty còn phạm phải một sai phạm nghiêm trọng nữa đó là về thẩm quyền xử lý kỷ luật lao động:
Theo quy định tại khoản 4 Điều 1 Nghị định 33/2003/NĐ-CP sửa đổi Điều 10 Nghị định 41/1995 ngày 06 tháng 7 năm 1995 thì đối với trường hợp xử lý kỷ luật theo hình thức sa thải người sử dụng lao động phải trực tiếp tiến hành xử lý, người sử dụng lao động chỉ được ủy quyền trong trường hợp vắng mặt ấy vậy mà trong trường hợp này ông Trần Minh- giám đốc công ty có mặt tại công ty nhưng lại không tiến hành việc họp xử lý kỷ luật ông Thắng mà lại Ủy quyền cho ông Nguyễn Trọng Kim theo văn bản ủy quyền số 131/XDHK-TCCB. Điều này là hoàn toàn với quy định của pháp luật lao động khi tiến hành xử lý kỷ luật lao động bằng hình thức sa thải.
Ngoài rasau khi tiến hành sa thải ông Thắng, giám đốc công ty xăng dầu Hàng không không báo cho sở lao động thương binh xã hội Hà Nội biết, điều này là vi phạm quy định tại khoản 2 Điều 85 BLLĐ. Khoản 2 Điều 85 quy định “sau khi sa thải người lao động, người sử dụng lao động phải báo cho cơ quan lao động cấp tỉnh biết”.
Bởi các lý do nêu trên tôi kính đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào: điểm c khoản 3 Mục III thông tư 19/2003/TT-BLĐTBXH, khoản 3 Điều 87 Bộ Luật Lao Động, Điều 11 nghị định 41/CP, khoản 5 Điều 1 Nghị định 33/2003/NĐ-CP,Điều 41 Bộ luật lao động, Khoản 2 Điều 85 BLLĐ.
o        Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn – ông Trần Ngọc Thắng buộc công ty xăng dầu hàng không phải hủy quyết định sa thải số 182/XDHK-TCCB ngày 03 tháng 8 năm 2006.
o        Buộc công ty xăng dầu Hàng không nhận ông Thắng trở lại làm việc
o        Bồi thường cho ông Trần Ngọc Thắng 02 tháng tiền lương và phụ cấp lương.
o        Bồi thường cho ông Thắng toàn bộ số tiền lương từ ngày 03 tháng 8 năm 2007 đến ngày 10 tháng 5 năm 2007.




Chủ Nhật, 21 tháng 4, 2013

Tòa “đẻ” nhà siêu mỏng

Tòa tuyên mỗi bên được hưởng 1,4 m chiều ngang căn nhà. Địa phương khẳng định tuyên vậy thì không thể làm giấy tờ...
Nếu chị Tú lén xây lại nhà thì sẽ trở thành căn nhà siêu mỏng nhất thị trấn Sông Đốc hiện nay.
“Tôi không hiểu vì sao tòa lại có thể “đẻ” ra căn nhà siêu mỏng như vậy. Nếu chia đôi theo bản án, tôi sẽ được hưởng một nửa nhà với chiều ngang 1,4 m, dài 24 m. Tôi không thể sống trong căn nhà siêu mỏng, siêu ống như vậy” - chị Nguyễn Thị Cẩm Tú (khóm 1, thị trấn Sông Đốc, huyện Trần Văn Thời, Cà Mau) giãi bày.
Mẹ con ra tòa
Theo hồ sơ, năm 2009, chị Tú và một người em được mẹ bán cho căn nhà có chiều ngang 2,8 m chạy dài 24 m để sử dụng chung. Các bên thỏa thuận chị Tú và người em mỗi người hưởng một nửa căn nhà, chiều ngang 1,4 m.
Ít lâu sau, người em định cư ở nước ngoài nên chị Tú được giao tạm quản lý, sử dụng toàn bộ căn nhà trên. Được một thời gian, chị Tú và một người trong gia đình phát sinh mâu thuẫn. Dựa vào cớ này, năm 2011, người mẹ khởi kiện đòi lại phần nhà mà bà đã bán cho người em của chị Tú hiện đang ở nước ngoài.

Căn nhà mẹ con chị Tú đang tranh chấp. Ảnh: TV
Chia đôi nhà
Quá trình tòa xử lý, chị Tú cho rằng: “Nhà này tôi đang quản lý, sử dụng. Mẹ đã bán cho hai chị em thì người có quyền đòi phần nhà còn lại là em chứ không phải mẹ. Đề nghị tòa không chấp nhận yêu cầu của mẹ tôi”.
Người mẹ thì bảo bà có hứa bán cho hai con nhưng chỉ mới có chị Tú giao tiền, nhận phần nhà của mình. Phần giao dịch với người con kia chưa thực hiện vì con đã đi nước ngoài. Hiện nay bà vẫn đứng tên chủ quyền nhà nên bà có quyền đòi lại phần nhà chưa bán.
Xử sơ thẩm, TAND huyện Trần Văn Thời nhận định nhà đất do người mẹ đứng tên. Bà chỉ thừa nhận bán một phần nhà cho chị Tú. Phần còn lại bà đang để dành bán cho người con khác. Như vậy, có cơ sở chấp nhận yêu cầu đòi lại phần nhà chưa bán của người mẹ. Tòa tuyên chị Tú phải trả lại phần nhà ngang 1,4 m, dài 24 m mà chị đang tạm quản lý, sử dụng. Chị cũng được hưởng phần tương đương do việc giao dịch mua bán đã xong xuôi.
Xử phúc thẩm sau đó, TAND tỉnh Cà Mau cũng đã y án sơ thẩm.
Không thể tách thửa
Chị Tú cho biết: “Phán quyết của tòa đã đẩy tôi vào tình huống dở khóc dở cười. Tòa tuyên án quá máy móc…”.
Trao đổi về vụ việc, ông Nguyễn Tuấn (Chủ tịch UBND thị trấn Sông Đốc, huyện Trần Văn Thời) cho biết quy định hiện hành chỉ cho phép tách thửa và cấp phép xây dựng đối với diện tích đất có mặt tiền tối thiểu là 4 m, dài tối thiểu là 9 m. Phần đất của chị Cẩm Tú không thể tách thửa và xây dựng nhà. Nếu chị lén xây lại nhà thì sẽ trở thành căn nhà siêu mỏng nhất thị trấn Sông Đốc hiện nay.
Bản án không thể thi hành
Căn nhà là một kết cấu kiến trúc liên kết chịu lực, sao có thể cưa đôi được như bản án tuyên. Chưa nói nếu thi hành án đúng như bản án thì cả hai bên đương sự đều không thể tách thửa hay cất lại nhà được vì diện tích dưới mức tối thiểu mà pháp luật quy định. Theo quan điểm của tôi, các đương sự, cơ quan có thẩm quyền phải yêu cầu giám đốc thẩm hủy cả hai bản án để giải quyết lại theo hướng cho chị Tú được sở hữu toàn bộ căn nhà và thối lại cho người mẹ khoản tiền bằng nửa phần nhà mà người mẹ đang đòi...
Luật sư PHẠM MINH TRÍ (Văn phòng Luật sư Trí Việt

Bài đăng phổ biến