Thứ Hai, 15 tháng 7, 2013

CÔNG CHỨNG – CHỨNG THỰC, HIỂU THẾ NÀO CHO ĐÚNG?


Hiện nay hầu hết khắp các tỉnh thành đâu đâu cũng có phòng công chứng, văn phòng công chứng, tuy nhiên những hiểu biết của người dân về thẩm quyền của cơ quan này và thuật ngữ “công chứng” vẫn còn nhiều hạn chế. Trong quá trình đến làm việc tại các Văn phòng công chứng, phòng công chứng tôi cũng bắt gặp rất nhiều trường hợp người dân mang chứng minh nhân dân,sổ hộ khẩu, giấy khai sinh, bằng đại học, cao đẳng hoặc các giấy tờ tùy thân khác đến để yêu cầu “công chứng”…
Bài viết này tôi sẽ giúp quý độc giả phân biệt hai khái niệm công chứngchứng thực:
Công chứng: là việc công chứng viên chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch khác (sau đây gọi là hợp đồng, giao dịch) bằng văn bản mà theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng. ( theo quy định tại Điều 2 Luật công chứng 2006).


Chứng thực: thuật ngữ pháp lý là “chứng thực bản sao từ bản chính”  hay còn được gọi sao y bản chính đó là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền căn cứ vào bản chính để chứng thực bản sao là đúng với bản chính.
Như vậy những trường hợp nào thì công chứng, trường hợp nào là chứng thực? và khi cần công chứng thì bạn đến đâu, chứng thực thì đến đâu?
Đối với công chứng:
Khi bạn thực hiện các giao dịch dân sự như Hợp đồng mua bán xe máy, xe ô tô, tàu thủy, ca nô, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà và tài sản khác gắn liền với đất, hợp đồng ủy quyền, giấy ủy quyền, thụ ủy, lập di chúc… thì bạn có thể đến phòng công chứng hoặc Văn phòng công chứng để thực hiện.
Đối với chứng thực bản sao từ bản chính (chứng thực):
Khi bạn cần có bản sao của các loại giấy tờ như: Chứng minh nhân dân, bằng lái xe, hộ khẩu, giấy khai sinh, bản sao các hợp đồng đã được công chứng, các văn bằng, chứng chỉ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp ( bằng tốt nghiêọ Đại học, bằng tốt nghiệp  Cao đẳng, chứng chỉ hành nghề…) thì bạn hãy đến UBND xã, phường, thị trấn bất kỳ trên lãnh thổ nước Việt Nam hoặc phòng tư pháp quận huyện bất kỳ để thực hiện(đối với những giấy tờ tiếng Việt hoặc song ngữ). Trong trường hợp các bản gốc đó bằng tiếng nước ngoài thì bạn phải đến Phòng tư pháp quận, huyện để thực hiện.
QUYETQUYEN


CHUYỆN BẤT NGỜ TẠI PHIÊN PHÚC THẨM

Câu chuyện tôi thấy thú vị nhất trong gần 10 năm hành nghề luật sư có lẽ là vụ ly hôn của khách hàng ở huyện Bình Chánh mới đây.
Hai ông bà đã có với nhau hai mặt con. Hơn 20 năm, cuộc sống vợ chồng họ ở cái xóm nhỏ ngoại ô, trải qua biết bao cơ cực, cùng nhau gặt mướn, làm cỏ lúa, đắp bờ. Rồi họ mua được mấy công đất, hằng ngày hai vợ chồng cặm cụi nhổ từng gốc cỏ, cuốc từng giồng đất. Rồi dưa trổ nụ, rồi cà đơm bông, cuộc sống gia đình diễn ra đằm thắm. Đến khi con cái lần lượt ra đời, cuộc sống trở nên khó khăn hơn. Để trang trải, ông kiếm kế mưu sinh thêm bằng công việc thầu xây dựng những công trình xa nhà...


Một ngày bà tìm đến tôi, nhờ bảo vệ quyền “được ly hôn” tại các cấp tòa. Đắn đo hoài, cuối cùng bà mới kể những chuyện riêng tư, sâu kín. Bà kể cuộc sống trở nên ngột ngạt khi vợ chồng qua tuổi tứ tuần, ông sanh tật mê nhậu, về nhà lớn tiếng quát vợ rầy con. Ban đầu bà ráng chịu đựng cho qua chuyện nhưng về sau bà phản ứng bằng cách… không cho ông ngủ chung phòng, mặc cho ông la lối um sùm, phá đồ đạp cửa. Rồi ông lên cơn ghen, tưởng tượng đủ thứ chuyện…
Nguyên tắc nghề nghiệp của tôi là với án ly hôn, tôi luôn tìm cách hàn gắn vết rạn hôn nhân trước khi đương sự nhất quyết lôi nhau ra tòa. Vì vậy, dù yêu cầu của đương sự là muốn tôi, với tư cách luật sư, thúc đẩy vụ ly hôn cho nhanh (và bảo vệ quyền lợi cho họ) nhưng tôi luôn hòa giải theo cách riêng của mình.
Trong vụ này, sau khi nghe bà tâm sự xong, tôi khuyên bà hãy nói những mắc mứu trong lòng với ông nhà và “gia hạn” cho ông thời gian để thay đổi. Bà hỏi lại tôi: “Nhưng mà chờ tới chừng nào lận?”. Nghe bà hỏi, tôi cảm nhận dường như bà đã cương quyết ly hôn lắm rồi.
Tại tòa sơ thẩm, ông thì bảo: “Vợ chồng cự nự, mới dăm ba câu hàng xóm đã phiền nên họ gọi công an đến lập biên bản chớ tui có đánh bả hồi nào đâu. Tui thương bả còn hơn thương tui nữa mà. Cái tính tui thiệt thà, nóng tính vậy chớ hễ thương là thương hoài”. Nhưng rồi tòa vẫn hòa giải không thành vì bà nhất quyết ly hôn. Vì vậy, tòa xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà.
Với suy nghĩ còn nước còn tát, ông bèn làm đơn kháng cáo.
Dù mong muốn hàn gắn cuộc hôn nhân của họ nhưng ở góc độ nghề nghiệp, tôi vẫn phải làm tròn phận sự của mình: Chuẩn bị bản luận cứ với đầy đủ lý lẽ để bảo vệ quyền lợi cho bà, trong đó quan trọng nhất là thuyết phục tòa phúc thẩm cho bà được ly hôn. Những chứng cứ chứng minh việc ông say xỉn, đánh vợ chửi con, ghen tuông vô cớ… tôi đã thủ sẵn trong hồ sơ, chỉ chờ đến lượt phát biểu trước tòa. Nhưng rồi, diễn biến phiên tòa sau đó đã khiến tôi nhẹ nhõm vì không cần phải thực hiện cái “chức phận nghề nghiệp” theo bản hợp đồng với thân chủ: Bà rút lại yêu cầu ly hôn.
Trong nỗ lực hòa giải, tòa nói rằng cả hai đều có lỗi nên cần bỏ qua cho nhau và phân tích điều hơn lẽ thiệt. Khi thấy không khí dịu lại, cơ hội “chốt hạ” đã đến, tòa quay về phía bà, hỏi: “Bà có đồng ý cho ông một cơ hội để sửa đổi không?”. Thật bất ngờ, bà gật đầu rồi… im lặng. Lúc này, đứng bên cạnh, ông rưng rưng nước mắt và hứa sẽ bớt nhậu và quan tâm đến vợ nhiều hơn. Đây quả là chuyện hiếm, bởi thông thường chuyện đoàn tụ hầu như chỉ xảy ra ở giai đoạn sơ thẩm. Cho nên, khi tòa hỏi luật sư có ý kiến gì không, tôi đứng lên ngắn gọn: “Thưa tòa, không” mà lòng vui tràn ngập.
Phiên tòa kết thúc, ông không dám lại gần vợ mà luống cuống hỏi tôi: “Giờ sao, luật sư?”. Tôi cười: “Thì chạy theo bả đi chứ còn sao nữa!”. Khi cái bóng nhỏ nhắn của chồng kịp song hành với vợ, tôi chỉ còn kịp nghe họ nói với nhau: “Bà, bà biết tui thương bà nhiều mà bà làm khổ tui chi vậy!”. “Mùa mưa tới rồi, kiếm miếng ăn vất vả cho mà coi!” - tiếng bà trả lời.
Luật sư NGUYỄN VĂN HỒNG (Đoàn Luật sư TP.HCM)
theo: phapluattp.vn

NGƯỜI NƯỚC NGOÀI ĐƯỢC QUYỀN SỞ HỮU NHÀ VÀ ĐỨNG TÊN TRÊN GIẤY CHỨNG NHẬN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT TẠI VIỆT NAM.


 

Sau nhiều năm bôn ba nơi xứ người, những người Việt đang sống ở nước ngoài hầu như ai cũng có mong muốn được sở hữu môt căn nhà và được đứng tên trên giấy chứngnhận quyền sử dụng đất ở Việt Nam làm nơi an dưỡng lúc về già. Trước đây việc đứng tên trên giấy chứng nhận của người nước ngoài là vô cùng khó khăn và họ cũng phải dùng nhiều cách để có thể mua nhà, đất ở Việt Nam, cách phổ biến mà mọi người vẫn thường làm là nhờ người thân trong nước đứng tên dùm, nhưng điều này luôn tiềm ẩn những rủi ro nhất định. Không ít trường hợp chỉ vì đứng tên dùm mà những người thân trong gia đình phải xem nhau như người xa lạ, tranh chấp nhau ra Tòa, tình nghĩa anh em không còn như xưa...


Tuy nhiên, từ khi luật sửa đổi, bổ sung Điều 126 Luật nhà ở và Điều 121 Luật đất đai  có hiệu lực thì việc người nướcngoài đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà đã thành hiện thực. Bài viết này tác giả xin gửi đến quý độc giả những trường hợp và điều kiện để người Việt Nam định cư ở nước ngoài được đứng tên trên giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà tại Việt Nam.
Theo quy định tại Điều 126 Luật nhà ở  và Điều 121 Luật đất đai ( đã được sửa đổi bổ sung) thì những  người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuộc các đối tượng sau đây có quyền sở hữu nhà ở và đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất  để bản thân và các thành viên trong gia đình sinh sống tại Việt Nam khi họ có thời gian cư trú tại Việt Nam từ 03 tháng trở lên:
1.     Người có quốc tịch Việt Nam;
2.     Người gốc Việt Nam thuộc diện người về đầu tư trực tiếp tại Việt Nam theo pháp luật về đầu tư; người có công đóng góp cho đất nước; nhà khoa học, nhà văn hoá, người có kỹ năng đặc biệt mà cơ quan, tổ chức của Việt Nam có nhu cầu và đang làm việc tại Việt Nam; người có vợ hoặc chồng là công dân Việt Nam sinh sống ở trong nước;
3.     Những người gốc Việt Nam không thuộc các đối tượng (1) và (2) ở trên được cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp Giấy miễn thị thực.
Hy vọng những thông tin trên sẽ hữu ích cho các Kiều bào đang sinh sống và làm việc tại nước ngoài muốn sở hữu một căn nhà tại Việt Nam.
Trân trọng!

QUYETQUYEN.


Chủ Nhật, 14 tháng 7, 2013

Các trường hợp và điều kiện giải thể công ty

Giải thể công ty là quyền quyết định của chủ sở hữu doanh nghiệp. Tuy nhiên, khi doanh nghiệp không còn thoả mãn các điều kiện tồn tại theo quy định của pháp luật hoặc kinh doanh vi phạm pháp luật, thì bắt buộc doanh nghiệp phải giải thể



a) Các trường hợp giải thể

Quyết định việc giải thể doanh nghiệp thuộc quyền của chủ sở hữu doanh nghiệp. Tuy nhiên, khi doanh nghiệp không còn thoả mãn các điều kiện tồn tại theo quy định của pháp luật hoặc kinh doanh vi phạm pháp luật, thì bắt buộc doanh nghiệp phải giải thể. Theo Khoản 1 Điều 57 Luật Doanh nghiệp, doanh nghiệp giải thể trong các trường hợp sau:

- Kết thúc thời hạn hoạt động đã ghi trong Điều lệ công ty mà không có quyết định gia hạn;

- Theo quyết định của chủ doanh nghiệp đối với doanh nghiệp tư nhân; của tất cả thành viên hợp danh đối với công ty hợp danh; của Hội đồng thành viên, chủ sở hữu công ty đối với công ty trách nhiệm hữu hạn; của Đại hội đồng cổ đông đối với công ty cổ phần;

- Công ty không còn đủ số lượng thành viên tối thiểu theo quy định của Luật Doanh nghiệp trong thời hạn sáu tháng liên tục;

- Bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.

b) Điều kiện giải thể
Các quy định về giải thể doanh nghiệp không chỉ tạo cơ sở pháp lý để chấm dứt tồn tại của doanh nghiệp, mà quan trọng hơn là còn bảo vệ quyền lợi của những chủ thể có liên quan, đặc biệt là quyền lợi của chủ nợ và người lao động khi doanh nghiệp chấm dứt tồn tại. 

Vấn đề quan trọng nhất trong giải thể doanh nghiệp là giải quyết những khoản nợ và những hợp đồng mà doanh nghiệp đã giao kết trước khi chấm dứt tồn tại. 

Các khoản nợ và hợp đồng này có thể được giải quyết bằng các giải pháp: doanh nghiệp tiến hành thanh toán hết các khoản nợ và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ hợp đồng; Chuyển giao nghĩa vụ thanh toán nợ và nghĩa vụ hợp đồng cho chủ thể khác theo thỏa thuận giữa các bên có liên quan. Theo Khoản 2 Điều 157, Luật Doanh nghiệp doanh nghiệp chỉ được giải thể khi bảo đảm thanh toán hết các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác.

Luật sư: Vntuvanluat

Thứ Sáu, 12 tháng 7, 2013

Điều kiện tách sổ đỏ 2013

Điều kiện và dịch vụ tách sổ đỏ 2013




Theo quy định tại Điều 3 của quy định ban hành kèm theo Quyết định số: 19/2012/QĐ-UBND của UBND thành phố Hà Nội ngày 08/8/2012 (có hiệu lực từ ngày 18/8/2012) thì những trường hợp tách thửa phải đảm bảo các điều kiện như sau:
1. Các thửa đất được hình thành từ việc tách thửa phải đảm bảo đủ các điều kiện sau:
a) Có chiều rộng mặt tiền và chiều sâu so với chỉ giới xây dựng (đường giới hạn cho phép xây dựng công trình trên thửa đất) từ 3 mét trở lên;
b) Có diện tích không nhỏ hơn 30m2/thửa đất;
2. Đối với đất khu dân cư nông thôn khi chia tách thửa đất theo các điều kiện của khoản 1 điều này mà có hình thành đường giao thông sử dụng chung thì đường giao thông đó phải có mặt cắt ngang ≥ 2mét.
Như vậy trường hợp của bạn nếu tách thành 2 thửa mà có 1 thửa diện tích chỉ 25m2 thì không đủ điều kiện được tách theo quy định nêu trên.

Để làm các thủ tục tách sổ đỏ, quý khách liên hệ với dịch vụ tách sổ đỏ của Công ty cổ phần tư vấn  đầu tư và giải pháp doanh nghiệp Việt Nam để được các luật sư chúng tôi tư vấn hợp lý nhất.


Đối tượng và điều kiện sử dụng giấy phép vệ sinh an toàn thực phẩm

Giấy phép vệ sinh an toàn thực phẩm, được cung cấp cho những đối tượng nào?

Giấy phép vệ sinh an toàn thực phẩm
Đối tượng sử dụng giấy phép vệ sinh an toàn thực phẩm

Đối tượng nào phải có giấy chứng nhận này? Cần điều kiện gì, liên hệ ở đâu? Kỹ sư Huỳnh Lê Thái Hòa - trưởng phòng quản lý VSATTP Sở Y tế TP.HCM - cho biết:

- Qui trình thẩm định và cấp giấy chứng nhận như sau: Sở Y tế TP.HCM cấp giấy chứng nhận cho các cơ sở được thành phố và trung ương cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; các nhà hàng, bếp ăn tập thể có qui mô từ 200 người ăn trở lên; các dịch vụ ăn uống từ các khu công nghiệp, siêu thị, chợ, bệnh viện; các khu du lịch do thành phố quản lý, các khách sạn một sao trở lên và các trường học từ THPT trở lên.

UBND quận, huyện cấp giấy chứng nhận cho các cơ sở do quận, huyện cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; các cửa hàng ăn, các căngtin, nhà hàng ăn uống, bếp ăn tập thể, khách sạn không thuộc diện thành phố cấp giấy chứng nhận; trường THCS trở xuống; các khu du lịch, chợ và bệnh viện do quận, huyện quản lý.

UBND phường, xã cấp giấy chứng nhận cho các cơ sở không thuộc diện phải đăng ký kinh doanh như các hộ gia đình, các quán ăn, quầy bán thực phẩm chế biến sẵn để ăn ngay trong ngày, các chợ, khu du lịch do phường, xã quản lý, các trường tiểu học, mầm non không thuộc diện quản lý của cấp trên...

Điều kiện để được cấp giấy chứng nhận là gì?

- Trước khi được cấp giấy chứng nhận VSATTP, chủ cơ sở, người trực tiếp tham gia sản xuất, kinh doanh thực phẩm phải được khám sức khỏe, được tập huấn kiến thức về VSATTP, được cơ quan y tế thẩm định điều kiện VSATTP.

Muốn được cấp giấy chứng nhận, cần phải làm những thủ tục gì?

- Hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận gồm: đơn đề nghị cấp giấy chứng nhận (theo mẫu); bản sao công chứng giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh (trừ đối tượng không có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh); bản thuyết minh về cơ sở vật chất, trang thiết bị, dụng cụ bảo đảm điều kiện VSATTP; bản cam kết đảm bảo VSATTP đối với nguyên liệu và sản phẩm thực phẩm (theo mẫu); bản sao công chứng giấy chứng nhận đủ điều kiện sức khỏe; bản sao công chứng giấy chứng nhận đã được tập huấn kiến thức về VSATTP.

Nếu không có giấy chứng nhận đủ điều kiện VSATTP thì có bị xử phạt không, thưa ông?


- Việc triển khai cấp giấy chứng nhận sẽ tiến hành từ 1-8-2006. Kể từ ngày 1-1-2007, cơ sở, cá nhân nào sản xuất, kinh doanh thực phẩm không có giấy chứng nhận đủ điều kiện VSATTP sẽ bị xử phạt theo qui định và phải đóng cửa.

Nguồn: dantri

Thứ Năm, 11 tháng 7, 2013

Xử lý vi phạm đăng ký bản quyền tác giả

Dù đã đăng ký bản quyền tác giả nhưng, tình trạng xâm phạm bản quyền tràn lan và người bị xâm phạm quyền tác giả vẫn gian nan trên con đường kiện tụng..

.
Những ca khúc trong 2 album Lệ Quyên ngay khi vừa phát hành đã bị các trang mạng xâm phạm bản quyền
Thực thi luật rất kém

Đó là nhận định của luật sư (LS) Lê Quang Vy (VLT Lawyers), người được không ít nghệ sĩ nhờ tư vấn, hỗ trợ và đại diện pháp lý cho những vụ vi phạm bản quyền, chủ yếu liên quan đến âm nhạc. Theo anh, “việc thực thi luật ở nước ta rất kém, kể cả cơ quan, tổ chức nhà nước chứ không riêng cá nhân - người sử dụng nào. Nghị định xử phạt có nhưng các cơ quan chức năng cũng không mạnh tay, nên nạn vi phạm việc đã đăng ký bản quyền tác giả vẫn liên tục và công khai”.

LS Vy cho biết với trường hợp ca sĩ Lệ Quyên bị 9 trang mạng xâm phạm bản quyền năm ngoái, dù đã gửi văn bản đến các trang mạng yêu cầu thanh toán tiền thù lao cho ca sĩ này, song đến nay vẫn còn 4 đơn vị trốn tránh nghĩa vụ. Ngoài Lệ Quyên, một số ca sĩ nổi tiếng khác cũng đang nhờ anh thu thập chứng cứ, cũng về vi phạm bản quyền âm nhạc, nhằm yêu cầu các bên vi phạm thực hiện nghĩa vụ theo luật định.

"Nghị định xử phạt có nhưng các cơ quan chức năng cũng không mạnh tay, nên nạn vi phạm bản quyền vẫn liên tục và công khai"  - Luật sư Lê Quang Vy

Nhiều năm qua và đặc biệt từ sau khi nhạc sĩ Phạm Duy qua đời, rất nhiều đơn vị, bầu show tổ chức những đêm nhạc Phạm Duy. Tuy xuất phát từ ý nghĩa tốt đẹp, nhưng theo bà Nguyễn Thị Ngọc Trâm, Giám đốc dự án Phạm Duy, thuộc Công ty CP văn hóa Phương Nam - đơn vị độc quyền khai thác tất cả các sáng tác của Phạm Duy tại VN, không chỉ nhiều đơn vị tùy tiện sử dụng, mà đôi khi còn cố tình phớt lờ, không thực hiện nghĩa vụ tác quyền. “Ngay cả một số ca sĩ, những người lẽ ra phải rất ý thức về vấn đề này, cũng không tôn trọng quyền tác giả đối với nhạc sĩ, ở đây là thông qua đơn vị đại diện. Tất nhiên, khi có thông tin về việc sử dụng trái phép nhạc Phạm Duy, chúng tôi đều yêu cầu họ thực hiện theo luật bản quyền. Với những trường hợp bất hợp tác, chúng tôi có những hành động để bảo về quyền tác giả cho gia đình nhạc sĩ Phạm Duy”, bà cho biết.

Một họa sĩ bị gần 100 đơn vị sử dụng trái phép hình ảnh

Mới đây, Báo Thanh Niên nhận được đơn  phản ảnh của họa sĩ Nguyễn Văn Lộc về tình trạng vi phạm tràn lan tác quyền đối với hình ảnh của anh. Theo đó, trong nhiều năm qua, họa sĩ Lộc đã thực hiện các hình ảnh thể hiện tranh tết dân gian VN, và đó là những hình ảnh được dùng trong công việc thiết kế quảng cáo của anh, với mong muốn phổ biến hình ảnh tết cổ truyền VN. Ngày 1.11.2012, họa sĩ nộp hồ sơ đăng ký bản quyền hình ảnh, đến ngày 7.1.2013 được Cục Bản quyền tác giả cấp giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả (số 169/2013/QTG) cho tác phẩm Hình thức thể hiện tranh tết dân gian, loại hình: Mỹ thuật ứng dụng.

Tết Quý Tỵ (2013) qua, những hình ảnh trong tác phẩm của anh đã bị sử dụng trái phép trên toàn quốc trong các lĩnh vực quảng cáo, từ trang trí tết ở các công ty, quảng cáo truyền hình, quảng cáo báo giấy, website, quảng cáo bao bì sản phẩm,... (anh đã chụp hình được nhiều nơi và thu thập các chứng cứ để có cơ sở khởi kiện). Sau tết, anh đã gửi văn bản thông báo đến gần 100 đơn vị, công ty đã sử dụng hình ảnh trái phép này để yêu cầu thực thi tác quyền. Đến 22.3, chỉ có 7 đơn vị phản hồi (2 đài truyền hình và  5 doanh nghiệp), liên hệ trực tiếp và làm việc thỏa đáng. Còn lại đa phần đều cố tình im lặng hoặc trả lời văn bản một cách miễn cưỡng, chối bỏ trách nhiệm, đùn đẩy cho các đơn vị thi công, thiết kế...

Tiếp xúc với PV Thanh Niên, họa sĩ cho biết đã đến văn phòng LS và được hướng dẫn khởi kiện. Tuy nhiên, khó có thể biết được vụ kiện kéo dài trong bao lâu, và người trong cuộc sẽ phải chịu đựng sự mệt mỏi dai dẳng khi các cơ quan chức năng không mặn mà trong việc bảo vệ quyền tác giả.

Đề nghị mức phạt cao nhất là 500 triệu đồng

Đầu tháng 3 vừa qua, Bộ VH-TT-DL, Cục Bản quyền tác giả tổ chức hội nghị góp ý xây dựng dự thảo Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính về quyền tác giả, quyền liên quan. Theo dự thảo, mức phạt cao nhất đối với tổ chức vi phạm quyền tác giả được đề nghị là 500 triệu đồng, đối với cá nhân là 250 triệu đồng. Dự kiến, nghị định có hiệu lực từ 1.7.2013.

Nguồn: Thanh niên

Bài đăng phổ biến