Hiển thị các bài đăng có nhãn Hình sự. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Hình sự. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 29 tháng 6, 2012

Sách miễn phí Bình luận khoa học Bộ Luật hình sự phần chung 2013

binh luan bo luat hinh suTham khảo:
     Cuốn sách ebook Bình luận Khoa học Bộ Luật hình sự (phần chung) gồm tập hợp 79 bài viết, tiểu luận, đề tài của các tác giả về các vấn đề lý luận, thực tiễn trong phần chung của Bộ Luật hình sự Việt Nam. 
(Bấm vào link, đợi 8s, bấm Skip This Ad ở góc trên bên phải để tải file)
Sách gồm các phần và bài viết như sau:
1. Khái niệm tội phạm, đồng phạm:
  • Bàn về khái niệm tội phạm trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 (Tác giả: Ts. Trương Quang Vinh) 
  • Sửa đổi khái niệm tội phạm trong BLHS hiện hành (Tác giả: Nguyễn Đức) 
  • Các khái niệm tội phạm và tình hình tội phạm trong tội phạm học (Tác giả: GS.TS Nguyễn Ngọc Hòa) 
  • Một số vấn đề lý luận, thực tiễn về tổ chức tội phạm, tội phạm có tổ chức và phạm tội có tổ chức (Tác giả: TS. Trần Quang Tiệp) 
  • Một số vấn đề về “phạm tội có tổ chức” (Tác giả: ThS. Đinh Văn Quế) 
  • Những điểm chung giữa vi phạm hành chính và tội phạm (Tác giả: Trần Thu Hạnh) 
  • Vấn đề tội phạm có tổ chức và TNHS pháp nhân trong sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1999 (Tác giả: GS.TS Hồ Trọng Ngũ) 
  • Một số vấn đề về đồng phạm quy định tại Điều 20 Bộ luật hình sự (Tác giả: ThS. Đinh Văn Quế) 
  • Vấn đề mặt chủ quan của đồng phạm (Tác giả: Cao Thị Oanh) 
  • Bàn về khái niệm nạn nhân của tội phạm (Tác giả: Th.S Trần Hữu Tráng) 
2. Cấu thành tội phạm:
  • Các dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm (Tác giả: Trần Hoài Ân) 
  • Lý luận cấu thành tội phạm trong khoa học luật hình sự (Tác giả: TS. Lê Cảm) 
  • Phân loại cấu thành tội phạm và một số vấn đề về trách nhiệm hình sự (Tác giả: ThS. Cao Thị Oanh) 
  • Các dạng cấu thành tội phạm trong bộ luật hình sự (Tác giả: ThS. Nguyễn Mai Bộ) 
  • Phạm vi chủ thể của tội phạm trong Bộ luật hình sự năm 1999 và một số vấn đề cần chú ý trong công tác điều tra hình sự (Tác giả: ThS. Bùi Kiên Điện) 
  • Các trường hợp phạm nhiều luật trong luật hình sự (Tác giả: PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hoà) 
  • Định tội danh trong trường hợp một hành vi thỏa mãn nhiều cấu thành tội phạm (Tác giả: Phan Anh Tuấn) 
  • Pháp nhân có thể là chủ thể của tội phạm hay không? (Tác giả: T.S Phạm Hồng Hải) 
  • Lỗi cố ý gián tiếp và tội có cấu thành hình thức (Tác giả: ThS. Nguyễn Văn Hương) 
  • Về loại tội phạm có hai hình thức lỗi (Tác giả: ThS. Lô Văn Lý) 
3. Trách nhiệm hình sự:
  • Phân hóa TNHS - Một số vấn đề lý luận cơ bản (Tác giả: PGS.TSKH. Lê Cảm - ThS. Cao Thị Oanh)
  • Về trách nhiệm hình sự của hành vi chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt (Tác giả: PGS.TS. Lê Thị Sơn)
  • Một số vấn đề phòng vệ chính đáng và vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng (Tác giả: ThS. Đinh Văn Quế) 
4. Thời hiệu truy cứu TNHS, miễn TNHS:
  • Về trách nhiệm hình sự và miễn trách nhiệm hình sự (Tác giả: Lê Cảm - Trịnh Tiến Việt)
  • Một số vấn đề về thời hiệu truy cứu TNHS và cách tính thời hiệu truy cứu TNHS trong một số trường hợp cụ thể (Tác giả: ThS. Đinh Văn Quế)
  • Về chế định miễn trách nhiệm hình sự (Tác giả: Ths Nguyễn Văn Cừ)
  • Hậu quả của việc áp dụng miễn TNHS: Lý luận, thực tiễn và hướng hoàn thiện pháp luật (Tác giả: TS. Trịnh Tiến Việt)
  • Phân biệt miễn trách nhiệm hình sự và miễn hình phạt (Tác giả: Lê Cảm - Trịnh Tiến Việt)
  • Các trường hợp loại trừ TNHS liên quan đến nhân thân người phạm tội (Tác giả: ThS. Đinh Văn Quế)
5. Độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự:
  • Tuổi chịu trách nhiệm hình sự: Quy định còn bất cập! (Tác giả: Lê Nguyễn)
  • Bàn về độ tuổi chịu TNHS của người chưa thành niên (Tác giả: Hồ Nguyễn Quân)
  • Bộ Luật hình sự hiện hành mâu thuẫn trong quy định tuổi chịu TNHS và người đã thành niên (Tác giả: TS. Trịnh Tiến Việt)
  • Thế nào là người già? (Tác giả: Tiến Hiểu – Hồng Tú)
  • Nên thống nhất từ 60 là già (Tác giả: ThS. Đinh Văn Quế)
6. Tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
  • Bàn về mối quan hệ giữa cấu thành tội phạm và tình tiết tăng nặng TNHS (Tác giả: Trịnh Tiến Việt - Phan Thị Thủy)
  • Các tình tiết tăng nặng TNHS: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn (Tác giả: Trịnh Tiến Việt)
  • Bàn về tình tiết tăng nặng TNHS "phạm tội nhiều lần" quy định trong Luật hình sự Việt Nam (Tác giả: ThS. Lê Văn Luật)
  • Các tình tiết tăng nặng TNHS phản ánh cách thức thực hiện tội phạm và một số vấn đề cần chú ý khi áp dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS (Tác giả: ThS. Đinh Văn Quế)
  • Các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng TNHS trong Bộ luật hình sự Việt Nam (Tác giả: Bùi Kiến Quốc)
  • Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự (Tác giả: TS. Trần Đình Thắng)
  • Bàn về tình tiết giảm nhẹ TNHS quy định tại điểm g khoản 1 điều 46 BLHS (Tác giả: ThS. Lê Văn Luật)
  • Một số vấn đề về tình tiết giảm nhẹ “phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” (Tác giả: ThS. Đinh Văn Quế)
  • Về ảnh hưởng của các tình tiết giảm nhẹ trong việc quyết định hình phạt (Tác giả: Trịnh Tiến Việt)
  • Nguyên đơn dân sự có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo có được coi là tình tiết giảm nhẹ TNHS theo Khoản 2 Điều 46 BLHS hay không? (Tác giả: Hoàng Thị Thu Hằng)
7. Các tình tiết phạm tội:
  • Một số vấn đề khi áp dụng tình tiết Phạm tội đối với trẻ em (Tác giả: ThS. Đinh Văn Quế)
  • Một số vấn đề khi áp dụng tình tiết “tự thú” và “đầu thú” trong thực tiễn xét xử (Tác giả: ThS. Đinh Văn Quế)
  • Bàn về tình tiết “có tính chất côn đồ” trong Bộ luật hình sự (Tác giả: Nguyễn Cường)
  • Tình tiết định tội "Phạm tội trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh" (Tác giả: TS. Phạm Văn Beo)
8. Định tội danh và hình phạt:
  • Chính sách xử lý tội phạm trong Luật hình sự Việt Nam (Tác giả: PSG.TS. Nguyễn Ngọc Hòa)
  • Hai ý kiến về quyết định hình phạt trong Bộ luật hình sự (Tác giả: TS. Phạm Văn Beo)
  • Vấn đề xác định và chuyển hóa tội danh nặng hơn, nhẹ hơn và ngược lại (Tác giả: ThS. Nguyễn Hữu Hậu)
  • Xung đột quan điểm trong việc xác định tội danh (Tác giả: TS. Phạm Văn Beo)
  • Tìm hiểu việc định tội và quyết định hình phạt từ phương diện là những hoạt động áp dụng pháp luật hình sự cơ bản của Tòa án (Tác giả: ThS. Chu Thị Trang Vân)
  • Toà án cấp phúc thẩm áp dụng Điều khoản của Bộ luật hình sự về tội nặng hơn những vấn đề lý luận và thực tiễn (Tác giả: ThS. Đinh Văn Quế)
  • Một số vấn đề áp dụng Điều 47 Bộ Luật hình sự khi quyết định hình phạt tù đối với người phạm tội (Tác giả: ThS. Đinh Văn Quế)
  • Hoàn thiện một số biện pháp miễn, giảm hình phạt trong Bộ Luật hình sự năm 1999 đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp (Tác giả: Trịnh Quốc Toản)
  • Chế định miễn hình phạt trong pháp luật hình sự Việt Nam (Tác giả: Phan Thị Lệ Hằng)
  • Về khái niệm và đặc điểm của hình phạt bổ sung trong Luật hình sự (Tác giả: Trịnh Quốc Toản)
  • Nhu cầu và những quan điểm cơ bản hoàn thiện chế định hình phạt bổ sung trong Luật hình sự Việt Nam (Tác giả: Trịnh Quốc Toản)
  • Điểm mới trong bộ luật hình sự năm 1999 về hình phạt bổ sung (Tác giả: Đào Lệ Thu)
  • Vấn đề tổng hợp hình phạt tù với hình phạt cải tạo không giam giữ (Tác giả: ThS. Đinh Văn Quế)
  • Chế độ thử thách của án treo trong Luật hình sự Việt Nam (Tác giả: ThS. Phạm Văn Báu)
  • Một số vấn đề về “tổng hợp hình phạt tù với án treo” (Tác giả: ThS. Đinh Văn Quế)
  • Về cách tính thời gian thử thách của án treo (Tác giả: Ths. Nguyễn Thị Xuân)
  • Thực tiễn thi hành Nghị định 61/2000/NĐ-CP đối với người được hưởng án treo (Tác giả: Nguyễn Ngọc Kiên)
  • Khái niệm và phạm vi áp dụng hình phạt tử hình (Tác giả: TS. Phạm Văn Beo)
  • Nguyên lý của việc bỏ hay giữ hình phạt tử hình (Tác giả: Ths Bùi Ngọc Sơn)
  • Hình phạt tiền trong Bộ luật hình sự năm 1999 (Tác giả: TS. Trương Quang Vinh)
  • Trong pháp luật bảo lãnh khác bảo lĩnh ra sao? (Tác giả: ThS. Đinh Văn Quế)
9. Quy định đối với người chưa thành niên:
  • Khái niệm người chưa thành niên và khái niệm tội phạm do người chưa thành niên gây ra - cơ sở có tính pháp lí quan trọng để phòng ngừa, điều tra tội phạm và xử lí người chưa thành niên phạm tội (Tác giả: TGV.ThS. Bùi Thành Chung)
  • Hoàn thiện những quy định về trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên phạm tội (Tác giả: TS. Cao Thị Oanh)
  • Cần sửa đổi, bổ sung quy định về Quyết định hình phạt trong trường hợp người chưa thành niên phạm nhiều tội (Tác giả: Ths. Phạm Văn Thiệu)
  • Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội (Tác giả: ThS. Đinh Văn Quế)
  • Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội (Tác giả: TS. Dương Tuyết Miên)
10. Hoàn thiện Bộ Luật hình sự:
  • Một số vấn đề về Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS 1999 (Tác giả: Thạc sỹ: Nguyễn Quang Lộc)
  • Những vấn đề cần hướng dẫn thêm khi thực hiện Nghị quyết 33/2009/NQ-QH12 ngày 19/06/2009 của Quốc hội về việc thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự (Tác giả: Trần Thị Hồng Việt)
  • Những vướng mắc trong thực hiện Nghị quyết 33/2009/NQ-QH12 ngày 19/6/2009 của Quốc hội (Tác giả: Nguyễn Thùy Dương)
  • Đổi mới chính sách hình sự - định hướng cho việc hoàn thiện BLHS năm 1999 (Tác giả: PGS.TS Lê Thị Sơn)
  • Luật hình sự Việt Nam - Sự phát triển trong 20 năm đổi mới và các định hướng hoàn thiện (Tác giả: GS.TS Nguyễn Ngọc Hòa)

Thứ Tư, 22 tháng 2, 2012

Luật thi hành án hình sự và văn bản hướng dẫn mới nhất năm 2013

thi hanh an hinh su
Quy định chung
Chế độ đối với phạm nhân
Quy định khác
Tham khảo:

Thứ Hai, 13 tháng 2, 2012

Điểm chú ý trong Thông tư hướng dẫn về tội chứa chấp, tiêu thụ tài sản, tội rửa tiền

chua chap tai san rua tien     Ngày 7/2/2012, Thông tư Liên tịch số 09/2011/TTLT-BCA-BQP-BTP-NHNNVN-VKSNDTC-TANDTC, hướng dẫn áp dụng quy định của Bộ luật Hình sự về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có và tội rửa tiền chính thức có hiệu lực. Nhân dịp này, PV Báo CAND đã có cuộc trao đổi với Thiếu tướng, GS.TS Nguyễn Ngọc Anh, Vụ trưởng Vụ Pháp chế - Bộ Công an về những điểm mới trong Thông tư liên tịch nêu trên.

1. Chứa chấp, tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có

Thưa Thiếu tướng, đồng chí có thể giải thích rõ những tài sản nào được coi là tài sản do người khác phạm tội mà có?
- Theo Thông tư Liên tịch số 09 do liên ngành: Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tư pháp, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao, Tòa án nhân dân Tối cao vừa ký ban hành, thì: “Tài sản do người khác phạm tội mà có” là tài sản do người phạm tội có được trực tiếp từ việc thực hiện hành vi phạm tội (ví dụ: tài sản chiếm đoạt được, tham ô, nhận hối lộ…) hoặc do người phạm tội có được từ việc mua bán, đổi chác bằng tài sản có được trực tiếp từ việc họ thực hiện hành vi phạm tội (ví dụ: xe máy có được từ việc dùng tiền tham ô để mua). Tài sản bao gồm: vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản; bất động sản, động sản, hoa lợi, lợi tức, vật chính, vật phụ, vật chia được, vật không chia được, vật tiêu hao, vật không tiêu hao, vật cùng loại, vật đặc định, vật đồng bộ và quyền tài sản.
Điều 250 Bộ luật Hình sự đã quy định rõ tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, vậy, khi áp dụng tình tiết phạm tội có tính chất chuyên nghiệp quy định tại điểm b khoản 2 Điều 250 Bộ luật Hình sự cần chú ý điểm gì?
- Chỉ áp dụng tình tiết phạm tội có tính chất chuyên nghiệp khi có đủ các điều kiện sau: Có từ 5 lần trở lên thực hiện hành vi phạm tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, không phân biệt đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay chưa, nếu chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa được xóa án tích. Người phạm tội không có nghề nghiệp hoặc lấy tài sản thu nhập bất chính do phạm tội mà có làm nguồn sống chính. Trường hợp trong các lần phạm tội nếu có lần phạm tội đã bị kết án mà chưa được xoá án tích thì tuỳ từng trường hợp cụ thể để xác định người phạm tội có thể bị áp dụng cả ba tình tiết là: “Phạm tội nhiều lần”, “tái phạm” (hoặc “tái phạm nguy hiểm”) và “phạm tội có tính chất chuyên nghiệp”. Bên cạnh đó, Thông tư liên tịch cũng nêu rõ cụ thể về “Tài sản, vật phạm pháp có giá trị lớn”, “Tài sản, vật phạm pháp có giá trị rất lớn” và “Tài sản, vật phạm pháp có giá trị đặc biệt lớn” cũng như về “Thu lợi bất chính lớn”; “Thu lợi bất chính rất lớn” và “Thu lợi bất chính đặc biệt lớn” được quy định bằng những số tiền cụ thể...
Trong Thông tư liên tịch nêu trên, có điểm gì cần chú ý?
- Về mặt chủ quan của tội phạm, người thực hiện hành vi phạm tội phải biết rõ tài sản mà mình chứa chấp hoặc tiêu thụ là tài sản do phạm tội mà có nhưng không có hứa hẹn, bàn bạc hoặc thỏa thuận trước với người có tài sản do phạm tội mà có. Trường hợp tài sản do phạm tội mà có là ma túy, tiền chất ma túy, pháo nổ, thuốc pháo, vũ khí, công cụ hỗ trợ, phương tiện kỹ thuật quân sự, vật liệu nổ, chất phóng xạ, chất cháy, chất độc, hàng cấm, hàng giả, nếu đủ yếu tố cấu thành tội phạm tương ứng thì người thực hiện hành vi chứa chấp, tiêu thụ tài sản đó sẽ bị xử lý về tội phạm tương ứng mà không xử lý về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có.
2. Về tội rửa tiền
Tội rửa tiền được quy định thế nào, thưa Thiếu tướng?
- Về tội rửa tiền (Điều 251 Bộ luật Hình sự), Thông tư hướng dẫn đã nêu rõ: Tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào giao dịch tài chính, ngân hàng hoặc giao dịch khác liên quan đến tiền, tài sản nhằm che giấu nguồn gốc bất hợp pháp của tiền, tài sản là việc thực hiện, hỗ trợ thực hiện hoặc thông qua người khác để thực hiện, hỗ trợ.
Những hành vi nào được coi là nhằm che giấu nguồn gốc bất hợp pháp của tiền, tài sản?
- Đó là các hành vi gửi tiền và mở tài khoản tại ngân hàng. Cầm cố, thế chấp tài sản. Cho vay, ủy thác, thuê, mua tài chính. Chuyển tiền, đổi tiền. Mua, bán cổ phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác. Phát hành chứng khoán. Phát hành các phương tiện thanh toán. Bảo lãnh và cam kết tài chính, kinh doanh ngoại hối, các công cụ thị trường tiền tệ, chứng khoán có thể chuyển nhượng. Quản lý danh mục đầu tư của cá nhân, tập thể. Quản lý tiền mặt hoặc chứng khoán thanh khoản thay mặt cho cá nhân, tập thể. Đầu tư vốn hoặc tiền cho cá nhân, tập thể. Tiến hành các hoạt động bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm liên quan đến các khoản đầu tư khác. Những hoạt động nhằm tạo sự chuyển đổi, chuyển dịch hoặc thay đổi quyền sở hữu đối với tiền, tài sản của cá nhân, cơ quan, tổ chức.
Sử dụng tiền thế nào được coi là rửa tiền?
- Sử dụng tiền, tài sản biết rõ là do phạm tội mà có vào việc tiến hành các hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động khác là việc dùng tiền, tài sản đó vào các hoạt động kinh doanh, dịch vụ, thành lập công ty, xây dựng trường học, bệnh viện, mua tài sản dưới các hình thức khác nhau hoặc sử dụng dưới danh nghĩa tài trợ, từ thiện, viện trợ nhân đạo.
Khi áp dụng tình tiết phạm tội có tính chất chuyên nghiệp quy định tại điểm d khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự cần chú ý những điểm gì?
- Những điểm cần chú ý gồm: Chỉ áp dụng tình tiết phạm tội có tính chất chuyên nghiệp khi có đủ các điều kiện sau: có từ 5 lần trở lên thực hiện hành vi phạm tội rửa tiền, không phân biệt đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay chưa, nếu chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa được xóa án tích. Người phạm tội không có nghề nghiệp hoặc lấy tài sản thu nhập bất chính do phạm tội mà có làm nguồn sống chính. Trường hợp trong các lần phạm tội nếu có lần phạm tội đã bị kết án mà chưa được xoá án tích thì tuỳ từng trường hợp cụ thể để xác định người phạm tội có thể bị áp dụng cả ba tình tiết là: “Phạm tội nhiều lần”, “tái phạm” (hoặc “tái phạm nguy hiểm”) và “phạm tội có tính chất chuyên nghiệp”...
Ngoài những điểm nêu trên, Thông tư liên tịch còn có các điểm gì cần chú ý khi thực hiện?
- Trong Thông tư Liên tịch số 09 đã nêu trên cần chú ý đến các quy định chuyển tiếp, gồm: các hướng dẫn trong Thông tư này nếu làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự so với trước đây thì được áp dụng khi điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm, xét xử giám đốc thẩm hoặc tái thẩm đối với người thực hiện hành vi phạm tội trước khi Thông tư này có hiệu lực.
Trường hợp người phạm tội đã bị kết án và bản án đã có hiệu lực pháp luật thì không áp dụng các hướng dẫn trong Thông tư này để kháng nghị theo trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm, trừ trường hợp có những căn cứ kháng nghị khác. Nếu theo Thông tư này, họ không phải chịu trách nhiệm hình sự thì giải quyết theo thủ tục miễn chấp hành hình phạt...
(Nguồn: CAND Online)

Thứ Hai, 21 tháng 3, 2011

Các bài viết, văn bản luật liên quan đến Bộ Luật hình sự mới nhất

Văn bản quy định chung:
Thực tiễn áp dụng áp dụng Bộ Luật hình sự:
(Liên tục cập nhật)

Chủ Nhật, 26 tháng 12, 2010

Cần sửa đổi quy định về Tội chứa mại dâm, môi giới mại dâm trong BLHS

      Tham khảo thêm văn bản
       Để đấu tranh phòng, chống có hiệu quả loại tội phạm chứa mại dâm, môi giới mại dâm, cần hoàn thiện quy định của BLHS về tình tiết định tội và các tình tiết tăng nặng định khung, tạo ra cơ sở pháp lý vững chắc để xử lý nghiêm những hành vi phạm tội nguy hiểm này.
1. Lý luận về tội chứa mại dâm, tội môi giới mại dâm
1.1. Khái niệm tội chứa mại dâm, môi giới mại dâm
       Từ trước tới nay, việc trừng trị tội chứa mại dâm, môi giới mại dâm đã được Nhà nước ta chú trọng, nhưng cho đến nay vẫn chưa có một văn bản nào đưa ra khái niệm chính xác, thống nhất về tội chứa mại dâm, môi giới mại dâm. Để xác định chính sách hình sự và yêu cầu của công cuộc đấu tranh phòng, chống các tội phạm này, việc tìm ra khái niệm tội chứa mại dâm, môi giới mại dâm là rất cần thiết.
        Theo quy định tại khoản 1 Điều 254 và khoản 1 Điều 255 BLHS thì: 
- Tội chứa mại dâm là hành vi chứa mại dâm
- Tội môi giới mại dâm là hành vi dụ dỗ hoặc dẫn dắt người mại dâm.
      Theo quy định tại Điều 3 Pháp lệnh Phòng, chống mại dâm thì:
- Tội chứa mại dâm là hành vi sử dụng, thuê, cho thuê hoặc mượn, cho mượn địa điểm, phương tiện để thực hiện việc mua dâm, bán dâm.
- Tội môi giới mại dâm là hành vi dụ dỗ hoặc dẫn dắt của người làm trung gian để các bên thực hiện việc mua dâm, bán dâm.
       Dưới góc độ khoa học luật hình sự, hiện nay ở Việt Nam còn có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm tội chứa mại dâm, tội môi giới mại dâm.
 - Quan điểm thứ 1 cho rằng: Tội chứa mại dâm là hành vi hành vi tạo điều kiện vật chất hoặc tinh thần cho hoạt động mại dâm được thực hiện. Tội môi giới mại dâm là hành vi làm trung gian bằng cách dụ dỗ hoặc dẫn dắt cho hoạt động mại dâm giữa người mua dâm và người bán dâm” (1).
 - Quan điểm thứ hai cho rằng: Tội chứa mại dâm là hành vi cho thuê chỗ, cho mượn chỗ, bố trí chỗ, bố trí gái mại dâm, tạo điều kiện cho người mua, bán dâm hoạt động. Tội môi giới mại dâm là hành vi dụ dỗ, dẫn dắt, làm trung gian cho người mua dâm và người bán dâm gặp nhau để mại dâm” (2).
 - Quan điểm thứ 3 cho rằng: Tội chứa mại dâm là hành vi cho thuê, cho mướn địa điểm hoặc tạo các điều kiện vật chất khác cho hoạt động mại dâm; bố trí người canh gác bảo vệ cho hoạt động mại dâm; nhận gái mại dâm là người làm thuê, là nhân viên để che mắt nhà chức trách và cho hoạt động bán dâm; cho gái bán dâm hoạt động ở nơi kinh doanh của mình để trục lợi. Tội môi giới mại dâm là hành vi dụ dỗ hoặc dẫn dắt mại dâm” (3).
       Tuy còn có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm tội chứa mại dâm, môi giới mại dâm, nhưng qua phân tích, chúng tôi thấy các quan điểm trên có những điểm chung đó là:
1) Về tội chứa mại dâm, đều là hành vi tạo điều kiện vật chất hoặc tinh thần cho hoạt động mại dâm;
2) Về tội môi giới mại dâm, đều là hành vi dụ dỗ hoặc dẫn dắt mại dâm.
       Trên cơ sở khái niệm tội phạm nói chung, các quy định của BLHS, Pháp lệnh PCMD, các quan điểm về khái niệm tội chứa mại dâm, môi giới mại dâm, chúng tôi đưa ra khái niệm tội chứa mại dâm, môi giới mại dâm như sau:
1) Tội chứa mại dâm là hành vi tạo điều kiện vật chất hoặc tinh thần cho hoạt động mại dâm; do người có năng lực trách nhiệm hình sự và từ đủ 14 hoặc 16 tuổi trở lên cố ý thực hiện; xâm phạm đến trật tự nơi công cộng.
 2) Tội môi giới mại dâm là hành vi dụ dỗ hoặc dẫn dắt của người làm trung gian để các bên thực hiện việc mua dâm, bán dâm; do người có năng lực trách nhiệm hình sự và từ đủ 14 hoặc 16 tuổi trở lên cố ý thực hiện; xâm phạm đến trật tự nơi công cộng.
1.2. Dấu hiệu pháp lý của tội chứa mại dâm, môi giới mại dâm
a) Khách thể của tội chứa mại dâm, môi giới mại dâm 

       Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại. Xuất phát từ khái niệm khách thể của tội phạm nói chung, có thể xác định khách thể của tội chứa mại dâm, môi giới mại dâm là trật tự công cộng. Hành vi mại dâm tác động tiêu cực đến nếp sống văn minh, huỷ hoại nhân cách con người, gây thiệt hại về vật chất, tinh thần cho nhiều gia đình, cá nhân, là nguyên nhân làm phát sinh nhiều loại tội phạm và tệ nạn xã hội khác, làm lây truyền nhiều bệnh xã hội nguy hiểm.
b) Mặt khách quan của tội chứa mại dâm, môi giới mại dâm
       Mặt khách quan của tội chứa mại dâm, môi giới mại dâm là những biểu hiện của tội chứa mại dâm, môi giới mại dâm ra thế giới khách quan. Trong tổng thể đó, có thể xác định mặt khách quan của tội chứa mại dâm, môi giới mại dâm qua dấu hiệu quan trọng nhất - hành vi khách quan của tội phạm.
       Theo quy định tại Điều 3 Pháp lệnh PCMD thì:
“1) Hành vi chứa mại dâm là hành vi sử dụng, thuê, cho thuê hoặc mượn, cho mượn địa điểm, phương tiện để thực hiện việc mua dâm, bán dâm.
2) Hành vi môi giới mại dâm là hành vi dụ dỗ hoặc dẫn dắt của người làm trung gian để các bên thực hiện việc mua dâm, bán dâm”.      
       Theo Công văn số 105/2003/KHXX ngày 18/8/2003 của Tòa án nhân dân tối cao về việc áp dụng Điều 254 BLHS năm 1999 thì: “Cho thuê, cho mượn địa điểm, phương tiện để hoạt động mại dâm” quy định tại khoản 4 Điều 3 của Pháp lệnh PCMD là hành vi của tổ chức, cá nhân có quyền quản lý, chiếm hữu, sử dụng hoặc định đoạt tài sản mà cho thuê, cho mượn để hoạt động mại dâm”.
       Theo quy định tại mục 1 phần II Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003 của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS năm 1999 thì: “Trong trường hợp chủ hoặc người quản lý khách sạn, nhà trọ... gọi gái mại dâm đến cho khách để họ mua bán dâm ngay tại khách sạn, nhà trọ... thuộc quyền sở hữu, chiếm hữu hoặc quản lý của người gọi gái mại dâm thì người đó chỉ phải chịu TNHS về “tội chứa mại dâm”. Trong trường hợp chủ hoặc người quản lý khách sạn, nhà trọ... vừa gọi gái mại dâm đến cho khách để họ mua bán dâm ngay tại khách sạn, nhà trọ... thuộc quyền sở hữu, chiếm hữu hoặc quản lý của người gọi gái mại dâm vừa còn gọi gái mại dâm khác cho khách mua dâm khác để họ thực hiện việc mua bán dâm tại nơi khác thì người đó phải chịu TNHS về “tội chứa mại dâm” và “tội môi giới mại dâm”.
c) Chủ thể của tội chứa mại dâm, môi giới mại dâm
       Theo quy định tại khoản 3 Điều 8, các Điều 12, 13, 254, 255 BLHS thì chủ thể của tội chứa mại dâm, môi giới mại dâm không phải là chủ thể đặc biệt, tức là bất cứ người nào có năng lực trách nhiệm hình sự (TNHS) và đạt độ tuổi luật định khi thực hiện tội phạm chứa mại dâm, môi giới mại dâm từ đủ 14 hoặc 16 tuổi trở lên (tùy từng khung hình phạt).
       Khoản 1 Điều 13 BLHS năm 1999 quy định: “Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu TNHS; đối với người này, phải áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh”. Căn cứ vào quy định trên, người thực hiện hành vi chứa mại dâm, môi giới mại dâm được xác định là có năng lực TNHS tại thời điểm họ thực hiện hành vi phạm tội nếu ở thời điểm đó, họ nhận thức rõ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà họ thực hiện, đồng thời, có khả năng điều khiển được hành vi ấy phù hợp với đòi hỏi của xã hội (nghĩa là họ không mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình hoặc tuy mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác nhưng họ không mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình).
d) Mặt chủ quan của tội chứa mại dâm, môi giới mại dâm
       Theo quy định tại Điều 254, 255 BLHS, thì tội chứa mại dâm, môi giới mại dâm được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Trong tội chứa mại dâm, môi giới mại dâm, chủ thể có ý thức lựa chọn xử sự gây thiệt hại cho xã hội trong khi có đủ điều kiện không thực hiện hành vi đó. Người chứa mại dâm, môi giới mại dâm nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, bị luật hình sự cấm, nhận thức rõ tính chất xâm phạm đến trật tự công cộng nhưng vẫn tìm mọi cách thực hiện. Mặt khác, tội chứa mại dâm, môi giới mại dâm được xây dựng dưới dạng cấu thành tội phạm hình thức - dấu hiệu hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành cơ bản của tội phạm này. Vì vậy, việc các chủ thể thực hiện hành vi chứa mại dâm, môi giới mại dâm nhận thức rõ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà vẫn quyết định thực hiện hành vi đó đã có thể khẳng định thái độ mong muốn hậu quả của chủ thể.
1.3. Các tình tiết tăng nặng định khung của tội chứa mại dâm, môi giới mại dâm
- Có tổ chức: Theo khoản 3 Điều 20 BLHS năm 1999 thì phạm tội chứa mại dâm, môi giới mại dâm có tổ chức là hình thức đồng phạm chứa mại dâm, môi giới mại dâm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm.
- Có tính chất chuyên nghiệp: Theo hướng dẫn tại điểm d mục 9 Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán TANDTC ngày 12/5/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS năm 1999 thì trường hợp chứa mại dâm, môi giới mại dâm bị coi là “có tính chất chuyên nghiệp” nếu chứa mại dâm, môi giới mại dâm từ năm lần trở lên và lấy tiền, hiện vật do chứa mại dâm, môi giới mại dâm mà có làm nguồn sống chính.
- Cưỡng bức mại dâm: Cưỡng bức mại dâm là trường hợp ép buộc người khác phải bán dâm trái với ý muốn của họ.
- Phạm tội nhiều lần: Theo hướng dẫn tại mục 4 Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 của Hội đồng thẩm phán TANDTC nói trên thì: “Chỉ áp dụng tình tiết “phạm tội nhiều lần” đối với người chứa mại dâm khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Chứa mại dâm (không phân biệt tại một địa điểm hay tại các địa điểm khác nhau) một đôi hoặc nhiều đôi mua bán dâm khác nhau từ hai lần trở lên trong các khoảng thời gian khác nhau (không phân biệt thời gian dài hay ngắn); 
b) Chứa mại dâm hai đôi mua bán dâm trở lên độc lập với nhau trong cùng một khoảng thời gian;
c) Chứa mại dâm một người mua bán dâm với hai người trở lên trong các khoảng thời gian khác nhau.
Không coi là phạm tội nhiều lần trong các trường hợp sau đây:
 a) Chứa mại dâm một đôi mua bán dâm trong một khoảng thời gian liên tục; 
b) Chứa mại dâm nhiều người (một nhóm) cùng đến mua bán dâm, nhưng chỉ một người trong số họ hoặc một số người trong số họ hoặc tất cả họ cùng nhau thoả thuận đứng ra giao dịch với người chứa mại dâm để trả tiền thuê địa điểm, phương tiện một lần và việc mua bán dâm diễn ra trong cùng một khoảng thời gian”.
(Môi giới mại dâm nhiều lần cũng được hiểu tương tự như trên).
- Gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng: Gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng trong tội chứa mại dâm, môi giới mại dâm là trường hợp chứa mại dâm, môi giới mại dâm làm mất trật tự xã hội; làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm; làm ảnh hưởng xấu đến uy tín của cán bộ, công chức hoặc uy tín của các cơ quan, tổ chức; làm xói mòn đạo đức truyền thống; làm ảnh hưởng đến tính mạng, sức khỏe của con người...
- Tái phạm nguy hiểm
       Theo quy định tại khoản 2 Điều 49 BLHS thì người phạm tội chứa mại dâm, môi giới mại dâm bị coi là tái phạm nguy hiểm nếu:
       1) Đã bị kết án về tội chứa mại dâm, môi giới mại dâm (theo khoản 2, 3, 4 Điều 254; khoản 2, 3, 4 Điều 255), chưa được xoá án tích mà lại phạm tội chứa mại dâm, môi giới mại dâm (theo khoản 2, 3, 4 Điều 254; khoản 2, 3, 4 Điều 255);
       2) Đã tái phạm, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội chứa mại dâm, môi giới mại dâm.
Sở dĩ như vậy, là vì tội chứa mại dâm, môi giới mại dâm có trường hợp là tội phạm nghiêm trọng (khoản 1 Điều 254; khoản 1 Điều 255), có trường hợp là tội phạm rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng (khoản 2, 3, 4 Điều 254; khoản 2, 3, 4 Điều 255).
- Đối với nhiều người: Chứa mại dâm, môi giới mại dâm đối với nhiều người là chứa mại dâm, môi giới mại dâm từ hai người bán hoặc hai người mua dâm trở lên, cùng thời điểm hoặc khác thời điểm, nhưng chưa lần nào bị xét xử, cũng chưa lần nào hết thời hiệu truy cứu TNHS.
- Đối với trẻ em hoặc người chưa thành niên: Chứa mại dâm, môi giới mại dâm đối với trẻ em là trường hợp chứa mại dâm, môi giới mại dâm người từ đủ 13 nhưng chưa đủ 16 tuổi. Nếu chứa mại dâm, môi giới mại dâm người dưới 13 tuổi thì có thể bị xử phạt về tội hiếp dâm trẻ em theo quy định tại khoản 4 Điều 112 BLHS.
       Chứa mại dâm, môi giới mại dâm đối với người chưa thành niên là trường hợp chứa mại dâm, môi giới mại dâm người từ đủ 16 nhưng chưa đủ 18 tuổi. Nếu chứa mại dâm, môi giới mại dâm người từ đủ 18 tuổi trở lên thì không bị áp dụng tình tiết tăng nặng định khung này.
       Tiểu mục 2 mục 11 phần II Công văn số 81/2002/TANDTC ngày 10/6/2002 của TANDTC Về việc giải đáp các vấn đề nghiệp vụ hướng dẫn như sau:
“a-Nếu xác định được tháng cụ thể, nhưng không xác định được ngày nào trong tháng đó thì lấy ngày mồng một của tháng đó làm ngày sinh của người bị hại để xem xét TNHS đối với bị can, bị cáo;
b-Nếu xác định được quý cụ thể của năm, nhưng không xác định được ngày, tháng nào trong quý đó thì lấy ngày mồng một của tháng đầu của quý đó làm ngày sinh của người bị hại để xem xét TNHS đối với bị can, bị cáo;
c-Nếu xác định được cụ thể nửa đầu năm hay nửa cuối năm, nhưng không xác định được ngày, tháng nào của nửa đầu năm hay nửa cuối năm thì lấy ngày mồng một tháng giêng hoặc ngày mồng một tháng bảy tương ứng của năm đó làm ngày sinh của người bị hại để xem xét TNHS đối với bị can, bị cáo;
d-Nếu không xác định được nửa năm nào, quý nào, tháng nào trong năm, thì lấy ngày mồng một tháng giêng của năm đó làm ngày sinh của người bị hại để xem xét TNHS đối với bị can, bị cáo”.
1.4. Hình phạt đối với tội chứa mại dâm, môi giới mại dâm 
       Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội. Mục đích của hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà còn nhằm giáo dục, cải tạo người phạm tội trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống. Xem xét cụ thể các hình phạt mà BLHS quy định đối với tội chứa mại dâm, môi giới mại dâm ta thấy, các hình phạt, mức phạt được xác định rất cụ thể, bao gồm cả hình phạt chính và hình phạt bổ sung.
- Các hình phạt chính: BLHS quy định hai loại hình phạt chính áp dụng đối với người phạm tội chứa mại dâm, đó là tù có thời hạn “từ một năm đến hai mươi năm” và tù chung thân; một loại hình phạt chính áp dụng đối với người phạm tội môi giới mại dâm, đó là tù có thời hạn “từ sáu tháng đến hai mươi năm”.
- Các hình phạt bổ sung: BLHS năm 1999 quy định ba loại hình phạt bổ sung áp dụng đối với người phạm tội chứa mại dâm tại khoản 5 Điều 254 là “phạt tiền từ năm triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, phạt quản chế từ một năm đến năm năm”; một loại hình phạt bổ sung áp dụng đối với người phạm tội môi giới mại dâm tại khoản 5 Điều 255 là “phạt tiền từ một triệu đồng đến mười triệu đồng”.
2. Thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử tội chứa mại dâm, môi giới mại dâm
a) Thực tiễn định tội danh đối với tội chứa mại dâm, môi giới mại dâm
       Trong những năm qua, nhiều vụ án chứa mại dâm, môi giới mại dâm lớn đã bị phát hiện, xử lý nhanh chóng, kịp thời, nghiêm minh, đáp ứng được một phần yêu cầu đấu tranh phòng, chống các tội phạm này. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, vẫn còn một số trường hợp bỏ lọt tội phạm chứa mại dâm, môi giới mại dâm hoặc định sai tội danh. Vụ án sau đây là một minh chứng cho nhận định này.
       Hải Yến có quen biết với Phùng Thị Sến từ năm 2000 do Yến thường sang Trung Quốc mua vải của Sến. Cuối tháng 02/2003, Sến nhờ Yến tìm người giúp việc tại quán cắt tóc của Sến ở cửa khẩu Thiên Bảo, và nếu khách có nhu cầu thì bán dâm. Yến nhận lời giúp và đã rủ Hoàng Thị Hương sang làm nghề cắt tóc, bán dâm tại quán của Sến, Hương đồng ý. Sến cũng nói với Yến và Hương nếu tìm được phụ nữ Việt Nam trẻ đẹp khoảng 16 đến 17 tuổi đưa đến nhà Sến, Sến sẽ trả 1.000.000 đồng một người. Tối ngày 01/3/2003, Yến và Hương đã rủ cháu Phàn Thị Duyên và Phàn Thị Vân là hàng xóm của Hương nói là đi làm thuê ở thị xã Hà Giang, tiền công mỗi ngày được 15.000 đồng, nên Vân và Duyên đồng ý đi. Vân và Duyên cùng được đưa sang Trung Quốc qua đường rừng, đến nhà Sến. Sến đã trả cho Yến 1.500.000 đồng và trả cho Hương 1.000.000 đồng, nhưng mới ứng trước cho Hương 500.000 đồng để mua quần áo, còn lại Sến giữ hộ. Sau đó, Sến đã tổ chức cho Duyên và Vân hành nghề mại dâm, còn Hương làm phục vụ tại nhà Sến. Đến ngày 0142003, Sến đồng ý cho Hương và Duyên trở về Việt Nam. Khi về đến Việt Nam, Duyên đã tố cáo hành vi mua bán phụ nữ của Sến, Yến và Hương. Phàn Thị Vân ở lại tiếp tục bán dâm đến ngày 06/7/2003 cũng trở về Việt Nam. Tại bản án hình sự sơ thẩm số 105/HSST ngày 21/11/2003, Toà án nhân dân tỉnh Hà Giang áp dụng các điểm a và d khoản 2 Điều 119; các điểm đ và g khoản 2 Điều 120; điểm p khoản 1 Điều 46 đối với Hải Yến và Hoàng Thị Hương và Điều 50 BLHS, xử phạt: Phùng Thị Sến sáu năm tù về tội mua bán phụ nữ, mười hai năm tù về tội mua bán trẻ em, tổng hợp hình phạt chung cho cả hai tội là mười tám năm tù; Đinh Thị Hải Yến sáu năm tù về tội mua bán phụ nữ, mười một năm tù về tội mua bán trẻ em, tổng hợp hình phạt chung cho cả hai tội là mười bảy năm tù; Hoàng Thị Hương năm năm tù về tội mua bán phụ nữ, mười năm tù về tội mua bán trẻ em, tổng hợp hình phạt chung cho cả hai tội là mười lăm năm tù. Trong vụ án này, mặc dù Phùng Thị Sến có hành vi chứa mại dâm, môi giới mại dâm nhưng các cơ quan tiến hành tố tụng đã bỏ lọt tội phạm này.
 b) Thực tiễn định khung và quyết định hình phạt đối với tội chứa mại dâm, môi giới mại dâm
       Trong những năm gần đây, khi xét xử các bị cáo về tội chứa mại dâm, môi giới mại dâm, nhiều Tòa án đã áp dụng đúng khung và mức hình phạt, góp phần đạt được mục đích phòng ngừa riêng và phòng ngừa chung của hình phạt. Tuy nhiên, cũng có không ít vụ Tòa án xử phạt quá nặng hoặc quá nhẹ, do áp dụng không đúng tình tiết tăng nặng định khung và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS. Vụ án sau đây là một ví dụ.
       Nguyễn Văn Thái và Trịnh Thị Hiên do quen biết với Nguyễn Thị Mai Hương và biết Hương có cửa hàng bán giải khát và karaoke, ngày 03/3/1999, Hiên đến nhà Hương thuê hai phòng tại tầng 4 với giá 600.000 đồng/1 phòng, còn quầy bar ở tầng 1 và phòng hát karaoke ở tầng 2 thì Hiên thoả thuận để Hiên tạm thời quản lý “nếu làm ăn được sẽ nói chuyện sau”. Để đối phó với Công an, Hiên lập hệ thống báo động từ bếp lên tầng 4. Hiên và Thái đã tuyển chọn gái bán dâm và Hương đi đăng ký tạm trú cho ăn ở tại nhà. Hàng ngày, người đứng quầy bar giới thiệu khách có nhu cầu mua dâm cho Hiên, Thái hoặc khách thoả thuận trực tiếp với Hiên, Thái với giá 60.000 đồng/1 lượt “tàu nhanh” và 200.000 đồng/1 lượt qua đêm. Khoảng 11 giờ ngày 22/3/1999, khi có khách đang mua dâm thì bị bắt. Vì hành vi trên, tại Bản án hình sự sơ thẩm số 1996/HSST ngày 24, 27/12/1999, Toà án nhân dân thành phố Hà Nội đã áp dụng điểm b khoản 3 Điều 202, khoản 3 Điều 218, riêng Thái áp dụng thêm khoản 2 Điều 218 BLHS xử phạt: Nguyễn Văn Thái mười sáu năm tù, Trịnh Thị Hiên mười lăm năm tù đều về tội “Chứa mại dâm”. Phạt tiền mỗi bị cáo Thái, Hiên 3.000.000 đồng. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 202, khoản 3 Điều 218 BLHS xử phạt Nguyễn Thị Mai Hương bảy năm tù về tội “Chứa mại dâm”. Phạt tiền bị cáo 2.000.000 đồng. Ngày 07/01/2000, Nguyễn Thị Mai Hương kháng cáo xin xem xét lại bản án sơ thẩm. Tòa án cấp phúc thẩm nhận xét: hành vi của bị cáo Nguyễn Thị Mai Hương phạm vào Điều 254 khoản 2 có mức hình phạt từ năm năm đến mười lăm năm tù. Hơn nữa, tại phiên toà, bị cáo thành khẩn nhận tội, ăn năn hối cải, sau khi xét xử sơ thẩm đã nộp phạt 2.000.000 đồng, vai trò của bị cáo trong vụ án có mức độ, hiện tại gia đình gặp khó khăn, Hội đồng xét xử thấy cần xem xét giảm một phần hình phạt cho bị cáo. Vì bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 BLHS nên cho bị cáo hưởng dưới mức khởi điểm của khoản 2 Điều 254. Từ những nhận xét trên, Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội quyết định áp dụng Điều 254 khoản 2 điểm c; Điều 46 khoản 1 điểm b, p; Điều 47 BLHS 1999, giảm hình phạt cho bị cáo Nguyễn Thị Mai Hương từ bảy năm xuống còn bốn năm tù về tội “Chứa mại dâm” (6). Qua vụ án này cho thấy, do không đánh giá đúng các tình tiết của vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt quá nặng, không tương xứng với tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội.
3. Phương hướng hoàn thiện các quy định của BLHS về tội chứa mại dâm, môi giới mại dâm
       Thứ nhất, bổ sung tội “Bán dâm”, “Tổ chức hoạt động mại dâm”, “Cưỡng bức bán dâm” và “Bảo kê mại dâm”. Theo quy định tại Điều 3 Pháp lệnh PCMD thì: “Bán dâm là hành vi giao cấu của một người với người khác để được trả tiền hoặc lợi ích vật chất khác. Tổ chức hoạt động mại dâm là hành vi bố trí, sắp xếp để thực hiện việc mua dâm, bán dâm. Cưỡng bức bán dâm là hành vi dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn buộc người khác phải thực hiện việc bán dâm. Bảo kê mại dâm là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn, uy tín hoặc dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực để bảo vệ, duy trì hoạt động mại dâm” (5). Các hành vi này hiện nay hoặc là chỉ bị xử lý hành chính (như hành vi bán dâm) hoặc là bị xử lý hình sự về cùng tội chứa mại dâm, môi giới mại dâm. Theo chúng tôi, việc không xử lý hình sự người bán dâm, nhất là những đối tượng bán dâm chuyên nghiệp và đã bị xử lý hành chính mà còn vi phạm rõ ràng là bỏ lọt tội phạm, không ngăn chặn được tệ nạn mại dâm. Vì vậy, đã đến lúc cần trừng trị cả người bán dâm nếu họ “đã bị xử lý hành chính về hành vi này mà còn vi phạm”.
       Việc xử lý hình sự các hành vi “tổ chức hoạt động mại dâm”, “cưỡng bức bán dâm” và “bảo kê mại dâm” về cùng tội “Chứa mại dâm, môi giới mại dâm” là chưa đúng với quy định về đồng phạm, không phù hợp với tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, không thể hiện được nguyên tắc phân hóa TNHS. Vì vậy, để khắc phục hạn chế này, cần bổ sung các tội “Tổ chức hoạt động mại dâm”, “Cưỡng bức bán dâm” và “Bảo kê mại dâm” vào BLHS. Hơn nữa, về thực tiễn, thời gian qua, các cơ quan bảo vệ pháp luật đã khám phá, đưa ra truy tố, xét xử nhiều vụ án trong đó các bị cáo đầu vụ thường là những “tú bà” có tên tuổi trong giới ăn chơi. Những bị cáo này thường lập ra các đường dây “gái gọi” với quy mô lớn, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt gồm ba nhóm người như sau:
       Nhóm đầu tiên gồm những gái mại dâm, thường là những cô gái ở các vùng quê được các “tú bà” nuôi trong các cửa hàng, quán ka-ra-ô-kê, hiệu làm đầu trá hình... Tham gia vào đội ngũ này có cả những cô gái sống và làm việc trên địa bàn, thậm chí có cả người mẫu, ca sĩ. Khi có khách mua dâm, “tú bà” sẽ điều gái mại dâm (có sẵn trong nhà mình hoặc điện thoại theo danh sách đã đăng ký) đến khách sạn hoặc địa điểm theo yêu cầu của khách mua dâm để thực hiện việc bán dâm.
       Nhóm thứ 2 gồm những người làm nhiệm vụ tiếp thị, tìm khách mua dâm, thường là những nhân viên khách sạn, nhà hàng hoặc hướng dẫn viên du lịch. Khi có khách cần mua dâm thì báo cho “tú bà” biết về thời gian, địa điểm và yêu cầu của khách đối với đối tượng bán dâm.
       Nhóm thứ 3 là những tên làm nhiệm vụ bảo kê, đưa đón, quản lý, bảo vệ gái mại dâm theo sự điều hành của “tú bà”. Những tên này còn làm cả nhiệm vụ giám sát, khống chế, không để các cô gái bỏ trốn hoặc sẵn sàng dùng vũ lực, đe doạ vùng vũ lực buộc các cô gái phải bán dâm theo chỉ đạo của “tú bà”.
       Phân tích hành vi của “tú bà” và đồng bọn trong những vụ án trên thấy rằng, hành vi này không đủ dấu hiệu cấu thành tội chứa mại dâm, môi giới mại dâm vì chúng rất tinh vi, không bao giờ sử dụng nhà ở, cửa hàng của mình hoặc thuê, mượn địa điểm, phương tiện để thực hiện việc mua dâm, bán dâm. Địa điểm mại dâm thường là nơi ở của khách hoặc do gái mại dâm đến khách sạn tự thuê. Hành vi của chúng cũng không đơn thuần chỉ là dụ dỗ, dẫn dắt làm trung gian để kẻ mua, người bán gặp nhau thực hiện việc mua dâm, bán dâm mà là tổ chức hoạt động mại dâm với đường dây khép kín, từ việc chăn nuôi sẵn đội ngũ gái mại dâm đến việc bố trí, sắp xếp cho họ bán dâm. Trường hợp cần thiết chúng còn chỉ đạo bọn đàn em sử dụng cả vũ lực, đe doạ dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác buộc các cô gái phải bán dâm theo yêu cầu của khách. Theo Pháp lệnh PCMD, hành vi của “tú bà” và đồng bọn trong trường hợp này là hành vi tổ chức hoạt động mại dâm (có tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội cao hơn nhiều so với hành vi môi giới mại dâm). Do BLHS hiện hành không quy định tội “Tổ chức hoạt động mại dâm”, “Cưỡng bức bán dâm” và “Bảo kê mại dâm” thành tội độc lập nên hành vi của “tú bà” và đồng bọn chỉ có thể bị truy cứu TNHS về tội “Môi giới mại dâm” với tình tiết định khung tăng nặng là “có tổ chức”. Việc truy cứu TNHS về tội môi giới mại dâm trong trường hợp này rõ ràng là chưa phản ánh đúng các tình tiết khách quan của hành vi phạm tội, chưa đánh giá hết tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, dẫn đến cá thể hoá hình phạt không nghiêm, làm giảm hiệu quả đấu tranh phòng, chống các tội phạm này (7).
       Để phù hợp với sự thay đổi trên, cần bỏ tình tiết tăng nặng định khung “cưỡng bức mại dâm” tại điểm b, khoản 2 Điều 254 BLHS (vì tình tiết “cưỡng bức mại dâm” đã được quy định là tình tiết định tội).
       Thứ 2, bổ sung tình tiết tăng nặng định khung “thu lợi bất chính lớn, rất lớn hoặc đặc biệt lớn” vào tội chứa mại dâm, môi giới mại dâm. Từ trước đến nay, khi xét xử những vụ chứa mại dâm, môi giới mại dâm có dấu hiệu “thu lợi bất chính lớn, rất lớn, đặc biệt lớn” các Tòa án thường rất lúng túng vì không biết phải áp dụng tình tiết “gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng” hay không áp dụng tình tiết tăng nặng nào (vì tình tiết “thu lợi bất chính lớn, rất lớn, đặc biệt lớn” không phải là tình tiết “gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng”). Để không bỏ lọt các trường hợp phạm tội nguy hiểm này, cần bổ sung tình tiết tăng nặng định khung “thu lợi bất chính lớn, rất lớn hoặc đặc biệt lớn” vào tội chứa mại dâm, môi giới mại dâm theo như hướng dẫn tại tiểu mục 7. 3 mục 7 phần I Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003 của Hội đồng thẩm phán TANDTC: “a. Thu lợi bất chính từ năm triệu đồng đến dưới mười lăm triệu đồng là lớn; b. Thu lợi bất chính từ mười lăm triệu đồng đến dưới bốn mươi lăm triệu đồng là rất lớn; c. Thu lợi bất chính từ bốn mươi lăm triệu đồng trở lên là đặc biệt lớn”.
(TS. Đỗ Đức Hồng Hà - Ban Thư ký Bộ Tư pháp) 
(1) Võ Khánh Vinh chủ biên (2001), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), NXB CAND, Hà Nội, tr. 515-519.
(2) Lê Cảm chủ biên (2003), Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 605-611.
(3) Lê Cảm chủ biên (2003), Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 602-605.
(5) Pháp lệnh Phòng, chống mại dâm ngày 14 tháng 3 năm 2003.
(6) Bản án hình sự phúc thẩm số 1318/HSPT ngày 10 tháng 7 năm 2000 của Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội.
(7) Nguyễn Văn Trượng (2007), “Thực tiễn áp dụng các quy định của BLHS về tội phạm liên quan đến mại dâm và những vấn đề cần hoàn thiện”, Tạp chí TAND, (số 24), tr. 29-32.

Thứ Hai, 13 tháng 12, 2010

Vướng mắc cách tính số tiền đánh bạc trong hướng dẫn mới của TANDTC

danh bac      Tham khảo thêm:
       Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao vừa ra Nghị quyết 01/2010 hướng dẫn xử lý các hành vi đánh bạc, tổ chức đánh bạc.
       Bên cạnh điểm tiến bộ là không tính “tiền ảo” làm căn cứ buộc tội so với hướng dẫn cũ, NQ vẫn còn những điểm chưa rõ, làm nhiều cơ quan tố tụng băn khoăn…khi xử lý các hành vi đánh bạc, tổ chức đánh bạc.
* Tính tiền đánh đề không dễ
       Thay đổi được đánh giá cao của Nghị quyết 01/2010 so với hướng dẫn cũ là không áp dụng “tiền ảo” để tính số tiền đánh bạc làm căn cứ buộc tội. Cụ thể, nếu người chơi số đề, cá độ trúng số đề, thắng cược cá độ thì số tiền mà họ dùng đánh bạc là tổng số tiền mà họ đã bỏ ra để mua số đề, cá độ cộng với số tiền thực tế mà họ được nhận từ chủ đề, chủ cá độ. Nếu họ không trúng, không thắng cược hoặc bị phát hiện, ngăn chặn trước khi có kết quả mở thưởng thì số tiền mà họ dùng đánh bạc là tổng số tiền mà họ đã bỏ ra để mua số đề, cá độ…
Tuy nhiên, nhiều tình huống đánh đề thực tế làm cơ quan tố tụng lúng túng khi xác định số tiền đánh bạc vẫn chưa được Nghị quyết 01/2010 hướng dẫn.
       Tình huống 1: Công an bắt chủ đề lúc 15 giờ 30 (chưa có kết quả xổ số). Khi bị bắt, tổng cộng các phơi đề của chủ đề là 1,9 triệu đồng, chưa đủ định lượng để khởi tố (2 triệu đồng). Đến 17 giờ, A. thấy mình trúng đề, không biết chủ đề đã bị bắt nên vẫn tìm đến lãnh tiền trúng đề như quy ước là bỏ ra 100.000 đồng “ăn” 70 lần, tức 7 triệu đồng.
       Ở đây, số tiền đánh bạc của chủ đề chưa đến 2 triệu đồng, nếu cộng thêm phần trúng đề của A. (7 triệu đồng) thì đủ định lượng để khởi tố. Còn A. bị bắt sau khi có kết quả xổ số, A. đã trúng đề và số tiền đánh bạc cũng đủ để khởi tố (100.000 đồng tiền ghi đề + 7 triệu đồng tiền trúng đề). Nhưng vấn đề là chủ đề đã bị bắt trước khi có kết quả xổ số thì xử lý sao?
       Tình huống 2: Cùng một ngày, T. ghi đề của hai “huyện đề” khác nhau là L và P. Rồi L bị bắt, công an xác định số tiền T đánh bạc với L là 1,8 triệu đồng. Tiếp đó, bắt được P, công an xác định số tiền T đánh bạc với P là 900.000 đồng.
       Ở đây, nếu tính từng vụ, số tiền đánh bạc của T. chưa đủ định lượng để khởi tố về tội đánh bạc. Nhưng nếu cộng dồn hai vụ, T. sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự. Như vậy, người chơi đề ghi đề với nhiều “huyện đề” khác nhau như T. có bị xem là đánh bạc một lần hay không để cộng dồn số tiền đánh bạc?
       Một tình huống phụ: Sau khi hỏi ý kiến, công an xác định có thể truy cứu trách nhiệm hình sự đối với T. thì lại nảy sinh rắc rối: “Huyện đề” P. có dấu hiệu tâm thần, cần phải đưa đi giám định. Đặt ra trường hợp nếu P. bị bệnh thật thì T. đã chơi đề với người tâm thần. Vậy tiền chơi đề giữa hai bên có được xem là tiền đánh bạc hay không?
* Rối về “đánh bạc với nhau”
       Điểm a khoản 4 Điều 1 NQ 01/2010 hướng dẫn: “Khi xác định tiền, giá trị hiện vật dùng đánh bạc cần phân biệt: Trường hợp nhiều người cùng tham gia đánh bạc với nhau thì việc xác định tiền, giá trị hiện vật dùng đánh bạc đối với từng người đánh bạc là tổng số tiền, giá trị hiện vật của những người cùng đánh bạc được hướng dẫn tại khoản 3 điều này”…
       Trên thực tế, hiểu khái niệm “đánh bạc với nhau” ở trên không đơn giản. Đánh bạc với nhau được hiểu là trực tiếp ăn thua với nhau hay chỉ cần ngồi chung sòng bạc? Chẳng hạn ở bài cào, người ta thường chơi theo hai dạng, một là các con bạc đặt số tiền như nhau vào giữa, lật bài ai lớn điểm thì gom hết; hai là từng con bạc ăn thua trực tiếp với người làm cái. Với dạng thứ nhất thì khái niệm “đánh bạc với nhau” đã rõ nhưng với dạng thứ hai đang gây tranh cãi. Khi bắt, công an có được xem những người đánh bạc ngồi cùng sòng dù không hề ăn thua với nhau là đang “đánh bạc với nhau”, từ đó cộng tất cả số tiền trên chiếu bạc để làm căn cứ xử lý hay không?
       Một trường hợp cụ thể đã được VKS quận 11 đưa ra: Công an bắt được các đối tượng đang chơi tài xỉu do T. làm cái. Số tiền thu trên chiếu bạc là 3 triệu đồng. Trong túi T. có 5 triệu đồng, được khai là vốn để thầu, trong túi các con bạc có người chỉ còn 20.000 đồng. Các con bạc khai chỉ mang theo từ vài chục ngàn đồng đến 100.000 đồng. Vậy các con bạc có phải chịu trách nhiệm hình sự hay không?
       Nhiều ý kiến cho rằng những con bạc này dù ngồi cùng sòng nhưng không phải là “đánh bạc với nhau” mà từng người ăn thua trực tiếp với nhà cái. Tuy nhiên, cũng có ý kiến ngược lại rằng phải xác định họ “đánh bạc với nhau”, từ đó tính tiền đánh bạc là tất cả tiền trên chiếu bạc cộng với tiền trong người của nhà cái cùng các con bạc để làm căn cứ xử lý hình sự.
* Chơi bài cào có được cá thể hóa trách nhiệm?
       Theo một thẩm phán, việc chơi bài cào và đánh đề có cái giống nhau ở chỗ chỉ ăn thua với nhà cái, không quan tâm tới thắng thua của người khác. Nhưng hai hình thức này lại khác nhau ở chỗ với bài cào thì các con bạc sẽ gặp nhau, cùng ngồi vào một chiếu bạc, còn với đánh đề thì các con bạc không cần biết mặt nhau.
Nghị quyết 01/2010 hướng dẫn trường hợp ghi số đề được cá thể hóa TNHS nhưng với bài cào, một hình thức đánh bạc phổ biến thì lại không đề cập. Vì vậy, cơ quan tố tụng thường tính tất cả số tiền trên chiếu bạc để xử lý chung các con bạc chơi bài cào. Vô hình chung việc này đã đi trái với nguyên tắc cá thể hóa trách nhiệm của pháp luật hình sự.

Một số ý kiến:
  1. Việc xác định tiền trong túi của con bạc có phải là tiền đánh bạc hay không đang là một thực tế cười ra nước mắt. Thực chất, công an không có khả năng chứng minh tiền trong túi con bạc đem theo sẽ dùng hết vào việc đánh bạc nên chỉ dựa vào lời khai của con bạc để làm căn cứ xác định. Như vậy, tùy thuộc vào lời khai và sự hiểu biết của con bạc mà cách xử lý của pháp luật đối với từng trường hợp đánh bạc sẽ rất khác nhau. (Một thẩm phán tòa quận tại TP.HCM)
  2. Theo tôi, hành vi của người ghi đề (đã được xác định đủ cơ sở khởi tố) phải bị xử lý về tội tổ chức đánh bạc mới chính xác. Đây không thể xem là hình thức một người đánh bạc với nhiều người để xử về tội đánh bạc như hiện nay vẫn áp dụng. Bởi lẽ người ghi đề có sự chuẩn bị trước về giấy bút, tiền để ăn thua, công đi tìm người ăn thua với mình và việc tổ chức của họ có quy mô.(Kiểm sát viên Nguyễn Anh Đức, VKSND TP Đồng Hới, Quảng Bình)

Thứ Bảy, 4 tháng 9, 2010

Bất cập trong áp dụng quy định về Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản

bat cocĐiều 134, BLHS quy định về Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản như sau:

1. Người nào bắt cóc người khác làm con tin nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ 2 năm đến 7 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 5 năm đến mười 12 năm: A) Có tổ chức; B) Có tính chất chuyên nghiệp; C) Tái phạm nguy hiểm; D) Sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác; Đ) Đối với trẻ em; E) Đối với nhiều người; G) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người bị bắt làm con tin mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30%; H) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 50 triệu đồng đến dưới 200 triệu đồng; I) Gây hậu quả nghiêm trọng.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 18 năm: A) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người bị bắt làm con tin mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%; B) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 200 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng; C) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 15 năm đến hai 20 năm hoặc tù chung thân: A) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người bị bắt làm con tin mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc làm chết người; B) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 500 triệu đồng trở lên; C) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 100 triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ 1 năm đến 5 năm”.

Những quy định nói trên về Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản là cơ sở pháp lý cho công cuộc đấu tranh phòng và chống các hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, tài sản của nhân dân, nhất là khi các tội xâm phạm sở hữu có xu hướng gia tăng, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản diễn ra ngày càng tinh vi, xảo quyệt. Việc ghi nhận Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản trong BLHS còn có ý nghĩa giáo dục mọi tầng lớp nhân dân và răn đe đối với người có ý định phạm tội này, bởi lẽ những người phạm tội này chủ yếu vì mục đích kiếm tiền không phải từ sức lao động của mình. Ngoài ra, nó còn góp phần thực hiện chủ trương hội nhập quốc tế và khu vực của Đảng và Nhà nước ta là: “tiếp tục củng cố và tăng cường hoạt động tương trợ tư pháp giữa Việt Nam với các nước trong thời kỳ mới, phải mở rộng quan hệ quốc tế về tương trợ tư pháp, về phòng chống tội phạm và các tệ nạn xã hội”.

Những vướng mắc và kiến nghị hoàn thiện các quy định về Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản

Hiện nay việc áp dụng các quy định của BLHS để điều tra, truy tố, xét xử về Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản còn gặp nhiều bất cập do nhận thức và sự áp dụng không thống nhất các quy định của pháp luật. Điều này làm giảm hiệu quả của công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Bên cạnh đó, những quy định của BLHS về Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản đã bộc lộ những nhược điểm, chưa đáp ứng được yêu cầu đấu tranh có hiệu quả với tình trạng phạm tội này trên thực tiễn. Cụ thể:

Thứ nhất, theo Từ điển tiếng Việt, “bắt cóc là hành vi bắt người một cách đột ngột và đem giấu đi”. Vậy, hành vi giữ người nhưng không đem giấu đi mà chỉ dùng để uy hiếp tinh thần nhằm chiếm đoạt tài sản có phải là hành vi phạm tội này không? Ví dụ: Nguyễn Văn A vào nhà chị V, thấy con gái của chị V đang ngồi học trong nhà. A chốt cửa lại. Khi chị V về, A không cho con gái chị V ra mở cửa mà uy hiếp tinh thần, yêu cầu chị V phải nộp cho A 50 triệu đồng mới thả con gái chị. Như vậy, A đã thực hiện hành vi bắt giữ con gái chị V và yêu cầu tiền chuộc. Nhưng địa điểm bắt giữ lại chính tại nhà người bị hại. Về vấn đề này, nếu chiếu theo nghĩa đen của từ “bắt cóc” thì A không phạm Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, do A không giấu cháu bé đi; mà hành vi của A chỉ cấu thành Tội cưỡng đoạt tài sản. Nhưng lại có quan điểm khẳng định hành vi của A đã cấu thành Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, vì A đã thực hiện hành vi bắt giữ người nhằm chiếm đoạt tài sản. Theo chúng tôi, chỉ cần người phạm tội bắt, giữ người nhằm chiếm đoạt tài sản là đã phạm tội - không phải Tội cưỡng đoạt tài sản. Tuy nhiên, nếu gọi là “bắt cóc” cũng chưa chuẩn. Vì vậy, để việc áp dụng pháp luật được thống nhất, tên Điều 134 cần được sửa thành: Tội bắt, giữ người nhằm chiếm đoạt tài sản. Khoản 1 Điều 134 BLHS nên được sửa là: Người nào bắt, giữ người khác làm con tin nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ 2 năm đến 7 năm.

Thứ hai, hiện nay, pháp luật hình sự không quy định về thời gian giam giữ người bị hại bao lâu thì người bắt cóc bị truy cứu trách nhiệm hình sự (TNHS) về Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản. Điều này đã gây khó khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng dẫn đến những quan điểm áp dụng pháp luật không thống nhất. Quan điểm thứ nhất cho rằng, nếu có hành vi bắt và giam, giữ con tin nhằm chiếm đoạt tài sản thì có thể truy cứu TNHS về Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, bất kể thời gian giam, giữ là bao lâu. Quan điểm thứ hai lại coi nếu thời gian giam giữ con tin không nhiều, chẳng hạn như chỉ vài phút, thì không thể truy cứu TNHS về tội này mà phải truy cứu TNHS về Tội cưỡng đoạt tài sản. Theo chúng tôi, cứ có hành vi giam, giữ, không phụ thuộc bao lâu, thì có thể truy cứu TNHS về Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, vì mục đích của người phạm tội là bắt, giữ người để chiếm đoạt tài sản. Vì vậy, vấn đề này cần được khẳng định rõ ràng trong BLHS theo hướng sau: Người nào có hành vi bắt, giữ con tin nhằm chiếm đoạt tài sản không phụ thuộc vào thời gian giam giữ bao lâu thì...

Thứ ba, thực tiễn xét xử cho thấy có những vụ án người phạm tội đã sử dụng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực làm cho người bị bắt cóc lâm vào tình trạng không thể chống cự được để bắt đi nhằm yêu cầu người thân của họ đưa tiền chuộc thì có nên truy cứu TNHS Tội cướp tài sản và Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản không? Có ý kiến đề nghị truy cứu TNHS thành hai tội, vì hành vi của người phạm tội đã thỏa mãn đủ các dấu hiệu của mặt khách quan Tội cướp tài sản và Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản. Ý kiến khác lại cho rằng, hành vi sử dụng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực của người phạm tội chỉ nhằm mục đích bắt cóc con tin nên nó là tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản. Vì thế chỉ có thể truy cứu TNHS theo tội này.

Chúng tôi đồng tình với ý kiến thứ hai. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là có nên coi sử dụng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực là tình tiết định khung tăng nặng không? Rõ ràng hành vi dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực để bắt, giữ người là hành vi nguy hiểm hơn nhiều so với hành vi bắt, giữ người không dùng vũ lực hoặc không đe dọa dùng vũ lực nên nếu truy cứu TNHS như nhau sẽ không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm và không hợp lý. Vì vậy, theo chúng tôi, cần thiết phải coi tình tiết “sử dụng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực” là tình tiết định khung tăng nặng.

Thứ tư, pháp luật hình sự hiện hành vẫn chưa quy định về hành vi bắt, giữ người thân trong gia đình là tình tiết định khung tăng nặng. Có thể nói, đây là điều không hợp lý bởi trên thực tế có nhiều vụ án, người phạm tội bắt cóc người thân của mình nhằm đòi tiền chuộc. Qua nghiên cứu ngẫu nhiên 50 bản án hình sự sơ thẩm2, chúng tôi thấy có đến 13 bản án mà người phạm Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản bắt, giữ chính người thân của mình nhằm đòi tiền chuộc. Người phạm tội bắt, giữ những người thân trong gia đình thì thủ đoạn thực hiện tội phạm sẽ dễ dàng hơn. Hơn nữa, những vụ án này luôn gây bức xúc mạnh mẽ trong dư luận xã hội, phá hoại truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc, cần phải xử lý nghiêm minh. Do vậy, theo chúng tôi, trong tội này, phải quy định bắt, giữ người thân trong gia đình là tình tiết định khung tăng nặng để đảm bảo sự nghiêm minh của pháp luật.

Thứ năm, điểm d, khoản 2, Điều 134 quy định “sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác” là tình tiết định khung tăng nặng. Vướng mắc nảy sinh ở chỗ là trường hợp người phạm tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản sử dụng vũ khí quân dụng, vũ khí thô sơ có bị truy cứu TNHS về Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự (Điều 230) hay Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí thô sơ hoặc công cụ hỗ trợ (Điều 233) hay không?

Ví dụ: do cần tiền để tiêu xài, A đã rút khẩu súng ngắn ra uy hiếp chị Lan, bắt chị theo A về nhà trọ để giam giữ chị. Sau đó, A nhắn tin cho chồng chị Lan yêu cầu đưa tiền chuộc. Với hành vi trên của A, có quan điểm cho rằng, chỉ truy cứu TNHS đối với A về Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản theo điểm d, Khoản 2, Điều 134, BLHS mà không truy cứu A về Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự theo Điều 230, bởi tình tiết sử dụng vũ khí đã là tình tiết định khung tăng nặng tại điểm d, khoản 2, Điều 134, BLHS.

Chúng tôi cho rằng, phải truy cứu TNHS A cả về hai tội: Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản theo điểm d Khoản 2 Điều 134 BLHS và Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự theo Khoản 1 Điều 230 BLHS. Bởi lẽ, hành vi phạm tội của A đã đủ yếu tố cấu thành cả hai tội trên. Mặt khác, việc tình tiết “sử dụng vũ khí” vừa là tình tiết định khung tăng nặng tại điểm d khoản 2 Điều 134 BLHS vừa là tình tiết định tội theo quy định tại Khoản 1 Điều 230 BLHS, không vi phạm quy định “những tình tiết đã là yếu tố định tội hoặc định khung hình phạt thì không được coi là tình tiết tăng nặng” của Khoản 2 Điều 48 BLHS.Vì vậy, cơ quan có thẩm quyền cần hướng dẫn vấn đề này theo hướng: Người nào sử dụng vũ khí quân dụng, vũ khí thô sơ để bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản thì tùy theo từng trường hợp cụ thể có thể truy cứu TNHS cả về hai tội: Tội bắt, giữ người nhằm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 134 BLHS và Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự theo quy định tại khoản 1 Điều 230 BLHS hoặc Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí thô sơ hoặc công cụ hỗ trợ theo quy định tại khoản 1 Điều 233 BLHS.

Thứ sáu, điểm đ khoản 2 Điều 134 BLHS quy định phạm tội “đối với trẻ em” là tình tiết định khung tăng nặng. Xung quanh việc áp dụng tình tiết này trong thực tiễn cũng có nhiều quan điểm khác nhau. Có ý kiến đề nghị chỉ áp dụng tình tiết định khung tăng nặng trong trường hợp ý thức chủ quan của người phạm tội đã biết rõ người bị hại là trẻ em khi thực hiện hành vi phạm tội. Nếu người phạm tội không biết hoặc có sự lầm tưởng về độ tuổi thì không áp dụng tình tiết này. Vì vậy, điểm đ khoản 2 Điều 134 cần sửa đổi là “phạm tội mà biết là trẻ em”. Ý kiến khác lại coi phạm tội đối với trẻ em không phải là tình tiết thuộc ý thức chủ quan của người phạm tội mà là tình tiết khách quan, do đó không cần người phạm tội phải nhận thức được hoặc buộc họ phải nhận thức được đối tượng mà mình xâm phạm là trẻ em thì mới coi là tình tiết định khung tăng nặng. Chỉ cần xác định người bị hại là trẻ em thì người phạm tội đã bị coi là phạm tội đối với trẻ em. Chúng tôi đồng ý với quan điểm thứ hai vì nó bảo vệ người bị hại một cách tốt nhất. Đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền có văn bản hướng dẫn để việc áp dụng pháp luật được thống nhất theo hướng này.

Thứ bảy, điểm h khoản 2; điểm b khoản 3; điểm b khoản 4, Điều 134 coi việc chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 50 triệu đồng đến dưới 200 triệu đồng; từ 200 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng; từ 500 triệu đồng trở lên là tình tiết định khung tăng nặng đối với người phạm tội. Hiện nay, vấn đề này cũng đang có nhiều ý kiến. Có ý kiến cho rằng, chỉ áp dụng tình tiết định khung tăng nặng khi mà người phạm tội đã chiếm đoạt được tài sản có giá trị nói trên; còn nếu người phạm tội chưa chiếm đoạt được tài sản có giá trị nói trên mà chỉ có ý định chiếm đoạt thì không nên áp dụng tình tiết tăng nặng. Chúng tôi cho rằng, Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản là tội phạm có cấu thành hình thức, hậu quả của tội phạm không có ý nghĩa trong việc quyết định hình phạt nên chỉ cần người phạm tội có ý định chiếm đoạt tài sản có giá trị nói trên, không phụ thuộc vào việc họ đã lấy được tài sản hay chưa là có thể áp dụng tình tiết định khung tăng nặng. Văn bản hướng dẫn trong thực tiễn cũng nên quy định theo hướng này.

Thứ tám, tình tiết phạm tội nhiều lần không được quy định trực tiếp trong Điều 134 BLHS năm 1999 với tính chất là tình tiết định khung tăng nặng mà chỉ được xem xét với tính chất là tình tiết tăng nặng TNHS, nên vẫn có thể có trường hợp bị cáo phạm tội nhiều lần nhưng không thể áp dụng khung tăng nặng hình phạt để quyết định hình phạt.

Đây là vấn đề cần xem xét lại về kỹ thuật lập pháp, khi mà tội phạm nói chung và Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản nói riêng đang có chiều hướng gia tăng. Để ngăn chặn có hiệu quả người thực hiện hành vi bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản nhiều lần, cần quy định bổ sung “phạm tội nhiều lần” là tình tiết định khung tăng nặng vào Điều 134, BLHS.

Như vậy, Điều 134, BLHS Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản nên được sửa đổi như sau:
Điều 134. Tội bắt, giữ người nhằm chiếm đoạt tài sản
1. Người nào bắt, giữ người khác làm con tin nhằm chiếm đoạt tài sản không phụ thuộc vào thời gian giam, giữ bao lâu, thì bị phạt tù từ 2 năm đến 7 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 5 năm đến 12 năm:...
d) Phạm tội nhiều lần;
đ) Sử dụng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực;
g) Đối với người có quan hệ trực hệ; ....”
Nguyễn Kim Chi - Giảng viên Học viện Tư pháp (nguồn http://www.nclp.org.vn)

    Thứ Hai, 9 tháng 8, 2010

    Bất cập của pháp luật về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự

    tinh tiet giam nhe TNHS     Tham khảo:
    1. Văn bản quy định về tạm giữ, tạm giam, thi hành án phạt tù, đặc xá
    2. Căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam trong Bộ luật Tố tụng hình sự
    3. Một số vấn đề về biện pháp ngăn chặn trong Bộ Luật Tố tụng hình sự
     Theo quy định tại Điều 45 Bộ luật Hình sự năm 1999 (đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2009- BLHS), thì các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự (TNHS) là một trong những căn cứ để Tòa án quyết định hình phạt. Tuy nhiên, BLHS lại không đưa ra khái niệm mà chỉ liệt kê các tình tiết giảm nhẹ TNHS trong Khoản 1 và quy định Tòa án có thể coi các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ trong Khoản 2 Điều 46. Điều đó dẫn đến việc áp dụng pháp luật có những bất cập nhất định.
        1. Khái niệm và đặc điểm của tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
        BLHS không đưa ra khái niệm tình tiết giảm nhẹ TNHS. Trong khoa học pháp lý nước ta, quan niệm về vấn đề này cũng chưa thống nhất. Nhìn chung, đa số ý kiến cho rằng, tình tiết giảm nhẹ TNHS là tình tiết được quy định trong BLHS với tính chất là tình tiết giảm nhẹ chung hoặc là tình tiết được ghi nhận trong văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật hay do Tòa án tự xem xét, cân nhắc và ghi rõ trong bản án, đồng thời là một trong những căn cứ để Tòa án cá thể hóa TNHS và hình phạt đối với người phạm tội theo hướng giảm nhẹ hơn trong phạm vi một khung hình phạt. Quan niệm trên chưa cho thấy hết được bản chất, nội dung của tình tiết giảm nhẹ TNHS mà mới chỉ nêu đặc trưng pháp lý của chúng.
        Chúng tôi cho rằng, về bản chất, tình tiết giảm nhẹ TNHS là những biểu hiện về các điều kiện, hoàn cảnh, tình huống có ảnh hưởng đến việc thực hiện tội phạm, qua đó phản ánh mức độ nguy hiểm ít hơn của hành vi phạm tội và là cơ sở để người phạm tội có thể chịu TNHS ở mức thấp hơn. Tình tiết giảm nhẹ TNHS được quy định trong BLHS, trong các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật hoặc do Toà án cân nhắc, xem xét quyết định trong quá trình xét xử các vụ án cụ thể, phản ảnh chính sách nhân đạo, khoan hồng của Nhà nước đối với người phạm tội.
    Tình tiết giảm nhẹ TNHS có đặc điểm:
          Thứ nhất, tình tiết giảm nhẹ TNHS được quy định cụ thể trong BLHS (bao gồm 18 tình tiết được quy định tại Khoản 1 Điều 46). Ngoài ra, nó còn được ghi nhận trong Nghị quyết số 01/2000/NQ-HĐTP ngày 4/8/2000 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định về Phần chung của BLHS năm 1999). Thậm chí, trong quá trình xét xử, Tòa án có thể tự mình xem xét, cân nhắc coi những tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ TNHS và ghi rõ lý do trong bản án. Đặc điểm này có hai vấn đề cần chú ý: trước hết, những tình tiết giảm nhẹ TNHS nào được BLHS quy định với tính cách là yếu tố định tội hoặc là yếu tố định khung hình phạt đối với một tội phạm được nêu tại phần các tội phạm cụ thể thì trong quá trình xét xử, Tòa án không được xem xét nó như là tình tiết giảm nhẹ chung được quy định tại Khoản 1 Điều 46 BLHS. Nghĩa là một tình tiết giảm nhẹ cho dù biểu hiện dưới hình thức nào thì cũng không thể được áp dụng hai lần cho một trường hợp phạm tội cụ thể. Tiếp đó, việc cho phép Toà án có thể coi các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ TNHS trong từng vụ án đối với từng bị cáo cụ thể nhằm mở rộng tính linh hoạt, sáng tạo trong hoạt động xét xử của Toà án, bảo đảm cho hoạt động xét xử được công bằng, chính xác, khách quan. Nó giúp Tòa án tính toán được sự tương xứng giữa mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội với chế tài hình sự. Quy định “phải ghi rõ trong bản án” là nhằm tránh sự tuỳ tiện trong hoạt động xét xử. Pháp luật dù hoàn thiện đến đâu cũng không thể tiên liệu hết mọi tình huống của cuộc sống nên việc cho phép Toà án xem xét các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ trong hoạt động xét xử là hợp lý và cần thiết.
          Tuy nhiên, vấn đề này cũng có tính hai mặt của nó. Trên thực tiễn, không ít trường hợp Toà án đưa ra những tình tiết giảm nhẹ TNHS không thật sự thuyết phục, ví dụ: theo Báo cáo tổng kết của Tòa án nhân dân tối cao năm 2004, đã có trường hợp Toà án cho hưởng tình tiết giảm nhẹ trong một vụ án hiếp dâm vì lý do sau khi thực hiện tội phạm, bị cáo đã xin lỗi nạn nhân và hứa cưới nạn nhân làm vợ. Vì vậy, câu hỏi đặt ra là làm thế nào để hạn chế sự tuỳ tiện của hội đồng xét xử. Điều đó chỉ có thể trả lời bằng đạo đức, lương tâm, năng lực, trình độ chuyên môn của những người làm công tác xét xử; vai trò của Toà án cấp trên; sự giám sát của cơ quan dân cử và của các thiết chế xã hội khác…
        Thứ hai, tình tiết giảm nhẹ TNHS là căn cứ để Tòa án cân nhắc, xem xét việc áp dụng hình phạt theo hướng nhẹ hơn đối với người phạm tội, nó phản ánh các diễn biến bên ngoài của mặt khách quan cũng như diễn biến tâm lý bên trong của mặt chủ quan trong cấu thành tội phạm hoặc phản ánh yếu tố nhân thân người phạm tội, góp phần mô tả tội phạm, giúp chúng ta hình dung được mức độ nguy hiểm ít hơn của hành vi phạm tội nếu đặt nó trong sự so sánh với trường hợp phạm tội tương tự mà không có tình tiết giảm nhẹ TNHS.
         Thứ ba, tình tiết giảm nhẹ TNHS ảnh hưởng như thế nào đến việc quyết định hình phạt là do Toà án cân nhắc, xem xét. Sự hiện diện của tình tiết giảm nhẹ TNHS là căn cứ để Tòa án đánh giá, xem xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, coi đó là một trong những căn cứ để quyết định hình phạt. Pháp luật không quy định cụ thể sự hiện diện của tình tiết giảm nhẹ sẽ ảnh hưởng như thế nào đến việc quyết định hình phạt, sự hiện hữu của tình tiết nào thì được giảm TNHS đến đâu, điều đó phụ thuộc vào sự xem xét và cân nhắc của Tòa án.
         Thứ tư, các tình tiết giảm nhẹ TNHS rất phong phú, không xác định về mặt số lượng. Chúng ta có thể xác định được các tình tiết được quy định trong Khoản 1 Điều 46 BLHS và các tình tiết được quy định tại điểm c, mục 5 Nghị quyết số 01/2000/NQ- HĐTP. Ngoài các tình tiết nói trên thì trong quá trình xét xử từng vụ án cụ thể, Tòa án còn có thể coi các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ.
         Thứ năm, ảnh hưởng của từng tình tiết đến mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội không giống nhau. Các tình tiết giảm nhẹ TNHS khá phong phú về mặt số lượng và ảnh hưởng của chúng đối với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội là khác nhau và do đó, mức độ ảnh hưởng của chúng đến việc quyết định hình phạt là không giống nhau. Chúng tôi đồng tình với quan điểm cho rằng, các tình tiết giảm nhẹ TNHS có ý nghĩa pháp lý, xã hội, chính trị không đồng đều nhau. Có tình tiết thì ảnh hưởng rất lớn đến việc quyết định hình phạt và đối với mọi trường hợp phạm tội, nhưng có tình tiết thì ảnh hưởng ít hơn. Có tình tiết chỉ có ý nghĩa đáng kể với một số tội phạm, còn đối với những tội phạm khác thì chỉ có ý nghĩa rất hạn chế. Mặt khác, Điều 47 BLHS quy định: “Khi có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 của Bộ luật này, Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật đã quy định nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật; trong trường hợp điều luật chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất của điều luật, thì Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn”. Theo đó, khả năng “có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật đã quy định” chỉ có thể thực hiện “khi có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại Khoản 1 Điều 46”. Logic này cho phép suy đoán rằng, theo quan điểm của nhà làm luật, các tình tiết được quy định tại Khoản 1 Điều 46 có vị trí cao hơn, ảnh hưởng nhiều hơn đến mức độ ít nguy hiểm của hành vi phạm tội so với các tình tiết được hướng dẫn trong điểm c mục 5 Nghị quyết số 01/2000/NQ- HĐTP và các tình tiết khác mà Tòa án xem xét, cân nhắc quyết định cho bị cáo được hưởng trong quá trình xét xử.
        2. Áp dụng pháp luật về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
        Nghiên cứu lý luận và thực tiễn về tình tiết giảm nhẹ TNHS, chúng tôi thấy có một số vấn đề cần được làm rõ thêm:
        Thứ nhất, một trong các tình tiết giảm nhẹ được hướng dẫn tại điểm c mục 5 Nghị quyết số 01/2000/NQ- HĐTP là trường hợp vợ, chồng, cha, mẹ, con, anh, chị, em ruột bị cáo là người có công với nước hoặc có thành tích xuất sắc được Nhà nước tặng một trong các danh hiệu vinh dự như: anh hùng lao động, anh hùng lực lượng vũ trang, người mẹ Việt Nam anh hùng, nghệ sỹ nhân dân, nghệ sĩ ưu tú, nhà giáo nhân dân, nhà giáo ưu tú, thầy thuốc nhân dân, thầy thuốc ưu tú hoặc các danh hiệu cao quý khác theo quy định của Nhà nước. Chúng tôi cho rằng, trường hợp bị cáo có vợ, chồng, cha, mẹ, con, anh, chị, em ruột là người có công với nước hoặc có thành tích xuất sắc được Nhà nước tôn vinh được hưởng tình tiết giảm nhẹ là không thật sự hợp lý, bởi những người có công với đất nước đã được Nhà nước đãi ngộ, tôn vinh. Nếu vì lý do này mà cho những người thân thích của họ hưởng tình tiết giảm nhẹ khi phạm tội sẽ không bảo đảm nguyên tắc mọi công dân bình đẳng trước pháp luật và làm giảm đi vai trò giáo dục, phòng ngừa tội phạm của hình phạt. Nếu hai người phạm tội trong những tình huống, hoàn cảnh tương tự nhau nhưng áp dụng hình phạt ở mức độ khác nhau chỉ vì một trong số họ là con em hoặc người thân thích với người có công với đất nước thì phán quyết của Tòa án khó được dư luận đồng tình. Về phương diện đạo đức, con, em, vợ, chồng của những người có công với nước ở một mức độ nhất định cần phải gương mẫu để không làm hoen ố truyền thống tốt đẹp của gia đình. Họ may mắn sinh ra, lớn lên trong một gia đình được Nhà nước và xã hội tôn vinh mà còn có hành vi phạm tội thì ở một khía cạnh nào đó là đáng trách hơn là cho hưởng tình tiết giảm nhẹ. Mặt khác, các đối tượng được hưởng tình tiết giảm nhẹ đã được liệt kê tại điểm c mục 5 Nghị quyết số 01/2000/NQ- HĐTP cũng có vị trí rất khác nhau. Ví dụ: con cái hay vợ hoặc chồng của người có công sẽ có vị trí khác so với anh hoặc em ruột của người có công (họ thuộc các hàng thừa kế khác nhau theo pháp luật dân sự). Vì vậy, chúng tôi cho rằng, không nên coi tình tiết này là tình tiết giảm nhẹ TNHS trong pháp luật hình sự nước ta.
          Thứ hai, Khoản 1 Điều 46 quy định về các tình tiết giảm nhẹ TNHS theo hướng liệt kê các tình tiết từ điểm a đến điểm s. Trong đó, điểm b quy định trường hợp: “Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả” còn điểm p đề cập trường hợp: “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải”. Để áp dụng các quy định trên có hai loại ý kiến khác nhau. Loại ý kiến thứ nhất cho rằng muốn áp dụng điểm b, phải thoả mãn điều kiện, sau khi thực hiện tội phạm, người phạm tội đã tiến hành đầy đủ các hành động “tự nguyện sửa chữa”, “bồi thường thiệt hại”, “khắc phục hậu quả” thì mới được hưởng tình tiết giảm nhẹ. Đối với trường hợp áp dụng điểm p, sau khi thực hiện tội phạm, người phạm tội phải vừa “thành khẩn khai báo”, vừa “ăn năn hối cải” thì mới được hưởng tình tiết giảm nhẹ.
    Loại ý kiến thứ hai cho rằng, chỉ cần hành vi của người phạm tội thoả mãn một trong các dấu hiệu nói trên thì có thể áp dụng điểm b và điểm p. Theo chúng tôi, các quan điểm nêu trên đều chứa đựng những yếu tố hợp lý nhất định, vì từ hành văn của các quy định nói trên, chúng ta có thể hiểu theo nghĩa nào cũng đúng. Tuy nhiên, xuất phát từ nguyên tắc nhân đạo của luật hình sự cũng như dựa trên cơ sở mục đích của hình phạt thì nên tán thành loại quan điểm thứ hai. Nghĩa là chỉ cần trong hành vi của người phạm tội chứa đựng một trong các dấu hiệu “tự nguyện sửa chữa” hoặc đã tự nguyện “bồi thường thiệt hại”, hoặc đã tự nguyện “khắc phục hậu quả” thì có thế áp dụng điểm b. Tương tự, chỉ cần hành vi của người phạm tội chứa đựng một trong hai dấu hiệu: hoặc đã “thành khẩn khai báo” hoặc đã “ăn năn hối cải” là có thể áp dụng điểm p. Bên cạnh nguyên tắc nhân đạo cũng cần phải xem xét mục đích của hình phạt là gì? Hình phạt trong luật hình sự không chỉ nhằm mục đích trừng trị người phạm tội mà còn giáo dục, cải tạo, giúp họ trở thành người công dân có ích cho xã hội. Vì thế, khi có một trong các dấu hiệu nói trên là đã cho thấy thái độ tích cực, thiện chí của người phạm tội và như vậy, xem xét dưới góc độ nhân thân, họ có thể cải tạo tốt. Chúng ta cần có cách nhìn khoan dung, độ lượng đối với họ thì hình phạt càng phát huy được hiệu quả giáo dục, phòng ngừa của nó. Hơn nữa, áp dụng pháp luật hình sự theo hướng này cũng phù hợp với chính sách hình sự nhân đạo, khoan hồng, kết hợp giữa trừng trị và giáo dục của Nhà nước.
          Thứ ba, bị can, bị cáo hoặc gia đình họ đã tự nguyện bồi thường thiệt hại nhưng người bị hại không nhận có là tình tiết giảm nhẹ TNHS theo điểm b Khoản 1 Điều 46 hay không? Trước hết, cần khẳng định rằng, người bị hại không nhận lợi ích vật chất được bồi thường nằm ngoài ý muốn chủ quan của người phạm tội. Mặc dù hậu quả chưa được khắc phục nhưng người phạm tội mong muốn khắc phục hậu quả đó. Tuy nhiên, trong trường hợp này cũng cần phải xem xét, cân nhắc giá trị vật chất bồi thường có thỏa đáng so với mức độ thiệt hại đã gây ra hay không. Tiếp đến, chúng ta cần phân biệt: nếu bị can, bị cáo tự nguyện bồi thường hoặc yêu cầu gia đình, thậm chí người thân, bạn bè bồi thường hộ một cách thỏa đáng thì nên cho hưởng tình tiết giảm nhẹ. Bởi lẽ, xét về ý thức chủ quan của bị can, bị cáo, có thể nói họ đã nhận thức được lỗi lầm, mong muốn khắc phục hậu quả và hướng thiện, Nhà nước cần tạo cơ hội cho họ cải tà quy chính. Còn nếu gia đình họ tự nguyện bồi thường thì phải xem thêm vì cho hưởng tình tiết giảm nhẹ TNHS trong trường hợp này nhiều khi chưa hợp lý. Bởi lẽ, việc gia đình tự nguyện bồi thường không phản ánh thái độ tích cực của bị can, bị cáo. Đó chỉ là sự tự nguyện của gia đình, không phải là của bị can, bị cáo. Vì vậy, việc áp dụng tình tiết giảm nhẹ TNHS sẽ không bảo đảm mục đích của hình phạt. Ngoài ra, chúng ta cũng phải tính đến trường hợp người phạm tội là người đơn độc không có gia đình hoặc gia đình họ không có khả năng bồi thường. Cá biệt có gia đình thiếu trách nhiệm đối với người phạm tội thì họ không bao giờ được hưởng tình tiết này. Điều đó đã tạo ra sự không bình đẳng giữa những người phạm tội.
    TS. Trần Đình Thắng - Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh.
    (Tạp chí nghiên cứu lập pháp văn phòng Quốc hội, http://www.nclp.org.vn)

    Bài đăng phổ biến