Hiển thị các bài đăng có nhãn Tố tụng hình sự. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Tố tụng hình sự. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Bảy, 14 tháng 5, 2011

Thứ Bảy, 18 tháng 9, 2010

Áp dụng tình tiết “Tự thú” và “Đầu thú” trong thực tiễn xét xử vụ án

Bài liên quan:
      Tình tiết người phạm tội “tự thú” và “đầu thú” có ý nghĩa rất quan trọng để các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự (TNHS) cũng như khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội.
       Về tình tiết “người phạm tội tự thú”, sau khi Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 1985 có hiệu lực pháp luật,  liên ngành TƯ (Bộ Nội vụ, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Toà án nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp) ban hành Thông tư liên ngành số 05/TTLN ngày 02/6/1990 (viết tắt là Thông tư số 05/TTLN) về chính sách đối với người phạm tội ra tự thú hướng dẫn tương đối chi tiết và đầy đủ việc xác định và áp dụng tình tiết này khi giải quyết vụ án có dấu hiệu “người phạm tội tự thú”. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng Thông tư này khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội, nhất là sau khi BLHS năm 1999 có hiệu lực pháp luật, Toà án thấy nếu mọi trường hợp người phạm tội “tự thú” và “đầu thú” đều được áp dụng khoản 1 Điều 46 BLHS là không thoả đáng, nên Chánh án TANDTC đã ban hành Công văn số 81/2002/TANDTC ngày 10/6/2002 về việc giải đáp các vấn đề về nghiệp vụ hướng dẫn các Toà án chỉ áp dụng khoản 1 Điều 46 BLHS đối với tình tiết “người phạm tội tự thú”, còn tình tiết “người phạm tội đầu thú” chỉ được áp dụng khoản 2 Điều 46 BLHS. Sau khi Chánh án TANDTC ban hành Công văn số 81/2002/TANDTC, về phía Cơ quan Điều tra và Viện Kiểm sát không có ý kiến gì, nhưng các ý kiến khác nhau lại chính từ phía các Thẩm phán. Đa số Thẩm phán coi Công văn số 81/2002/TANDTC là văn bản chính thức của TANDTC hướng dẫn, nên không có lý do gì để không áp dụng. Tuy nhiên, có một số Thẩm phán vì muốn áp dụng điểm o khoản 1 điều 46 BLHS để nếu người phạm tội có một tình tiết giảm nhẹ nữa quy định tại khoản 1 Điều 46 BLHS thì áp dụng Điều 47 BLHS xử phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt hoặc chuyển sang hình phạt khác nhẹ hơn nên cho rằng, Công văn số 81/2002/TANDTC của Chánh án TANDTC chưa phải là văn bản pháp quy nên không bắt buộc Thẩm phán phải chấp hành, trong khi đó Thông tư số 05/TTLN có giá trị pháp lý cao hơn lại chưa bị thay thế; do đó trường hợp người phạm tội “đầu thú” được áp dụng điểm o khoản 1 Điều 46 BLHS. Đây là vấn đề tuy không lớn, nhưng đối với một số trường hợp có sự khác nhau giữa Toà án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm về việc xác định và áp dụng tình tiết quy định tại điểm o khoản 1 Điều 46 BLHS làm thay đổi cơ bản quyết định đối với người phạm tội như: Toà án cấp sơ thẩm phạt tù giam đối với bị cáo vì xác định bị cáo chỉ “đầu thú”, nhưng Toà án cấp phúc thẩm xác định bị cáo “tự thú” nên cho bị cáo được hưởng án treo hoặc giảm hình phạt đáng kể cho bị cáo; sau khi xét xử phúc thẩm, Toà án cấp sơ thẩm không đồng tình đã kiến nghị TANDTC xét lại bản án phúc thẩm v.v…
       Để giúp bạn đọc hiểu thêm về tình tiết “người phạm tội tự thú” và góp phần làm sáng tỏ những vấn đề còn có ý kiến khác nhau, theo chúng tôi, cần phải tìm hiểu nội dung của các khái niệm “tự thú” và “đầu thú” và quy định của BLHS, các văn bản hướng dẫn về các trường hợp tự thú và đầu thú cũng như giá trị pháp lý của các văn bản này.
1. Về tình tiết tự thú:
      Tự thú là “tự mình nhận tội và khai ra các hành động phạm pháp của mình”
       Người phạm tội tự thú có nhiều mức độ khác nhau, nếu hiểu theo nghĩa rộng thì tự thú bao hàm cả khái niệm nêu trên và cả đầu thú, thành khẩn khai báo. Tuy nhiên, về pháp lý, chỉ coi tự thú khi tội phạm họ thực hiện chưa bị phát hiện nhưng tự đến cơ quan có thẩm quyền (Công an, Viện kiểm sát, Thanh tra…) khai báo hành vi phạm tội của mình và đồng phạm (nếu có).
      Tự thú là tự khai ra hành vi phạm tội của mình với các nhà chức trách. Việc người phạm tội tự khai ra hành vi phạm tội của mình với nhà chức trách là biểu hiện của sự ăn năn hối cải về việc làm sai trái của mình nên đáng được khoan hồng, nhưng mức độ khoan hồng tới đâu, thì lại phải căn cứ vào chính sách hình sự của Nhà nước; căn cứ vào tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, hậu quả đã xảy ra; thái độ khai báo; sự góp phần vào việc phát hiện và điều tra tội phạm của người tự thú. BLHS quy định người phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự nếu “trước khi hành vi phạm tội bị phát giác, người phạm tội đã tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm”. Trong trường hợp người phạm tội tự thú nhưng chưa đến mức được miễn trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 25 BLHS thì được coi là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm o khoản 1 Điều 46 BLHS.
      Thông tư số 05/TTLN hướng dẫn thi hành chính sách Đối với người phạm tội ra tự thú đã quy định: “Người đã thực hiện hành vi phạm tội, nhưng chưa bị phát giác, không kể phạm tội gì, thuộc trường hợp nghiêm trọng hay ít nghiêm trọng mà ra tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả tội phạm thì có thể được miễm trách nhiệm hình sự theo quy định tại đoạn 2 khoản 1 Điều 48 (nay là khoản 2 Điều 25 BLHS năm 1999) hoặc được giảm nhẹ hình phạt theo quy định tại Điều 38 (nay là Điều 46) BLHS năm 1999; nếu cùng với việc tự thú mà còn lập công lớn, vận động được nhiều người khác đã phạm tội ra tự thú thì có thể được khen thưởng theo quy định chung của Nhà nước”. Như vậy, người tự thú có thể được miễn trách nhiệm hình sự khi có đủ những điều kiện sau:
       - Tội phạm mà người tự thú đã thực hiện chưa bị phát giác, tức là chưa ai biết có tội phạm xảy ra hoặc có biết nhưng chưa biết ai là thủ phạm. Ví dụ: Phạm Thanh H thấy gia đình nhà anh Trần Quốc T không có ai ở nhà nên đã cậy cửa vào nhà lấy đi một chiếc ti vi trị giá 10.000.000 đồng. Sau hai tháng vụ trộm cắp này chưa tìm ra thủ phạm thì H đã đến cơ quan Công an khai rõ hành vi phạm tội của mình và đem trả cho gia định anh T chiếc ti vi mà H đã lấy trộm.
       - Người tự thú phải khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, tức là khai đầy đủ tất cả hành vi phạm tội của mình cũng như hành vi phạm tội của những người đồng phạm khác, không giấu diếm bất cứ một tình tiết nào của vụ án, đồng thời giúp Cơ quan Điều tra phát hiện tội phạm như: chỉ nơi ở của người đồng phạm khác hoặc Cơ quan Điều tra bắt người đồng phạm khác đang bỏ trốn, thu thập các dấu vết của tội phạm, thu hồi vật chứng, tài sản của vụ án.v.v… Nếu khai không rõ ràng hoặc khai báo không đầy đủ thì không được lấy đó làm căn cứ miễn trách nhiệm hình sự. (Ví dụ: Mai Ngọc T nhận làm gián điệp cho nước ngoài, T đã cung cấp nhiều tài liệu bí mật Nhà nước cho nước ngoài trong một thời gian từ năm 1990 đến năm 2003 thì T ra tự thú với Cơ quan An ninh điều tra, nhưng T chỉ khai làm gián điệp cho nước ngoài từ năm 1990 và đã chấm dứt việc làm gián điệp từ năm 2003, nhiều tài liệu bí mật Nhà nước T cung cấp cho nước ngoài, T không khai đầy đủ).
       - Cùng với việc tự thú người tự thú phải cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm như: Trả lại tài sản đã chiếm đoạt; thông báo kịp thời cho người bị hại biết những gì đang đe doạ đến tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự hoặc tài sản để họ đề phòng; đòi lại hoặc thu lại những phương tiện, công cụ hoặc các nguồn nguy hiểm mà họ đã giao hoặc đã tạo ra cho người đồng phạm khác hoặc cho những lợi ích khác v.v… Ví dụ: Đào Văn H đã bỏ thuốc độc vào bể nước của gia đình anh Đỗ Văn Q nhằm đầu độc anh Q, nhưng H đã tự thú và thông báo cho gia đình anh Q biết trong bể nước có thuốc độc để gia đình anh không dùng nước đã có thuốc độc, hậu quả được hạn chế tới mức thấp nhất, nên H có thể được miễn trách nhiệm hình sự.
       Cả hai trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 25 BLHS người phạm tội cũng chỉ có thể được miễn trách nhiệm hình sự chứ không phải đương nhiên được miễn trách nhiệm hình sự. Và vì vậy, khi xem xét để miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội ra tự thú phải xem xét một cách toàn diện phải căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội; vào hậu quả đã xảy ra; vào thái độ khai báo của người phạm tội tự thú; vào sự góp phần vào việc phát hiện, điều tra tội phạm; vào việc hạn chế hậu quả của tội phạm; đồng thời, phải cảnh giác với những người giả vờ tự thú để trốn tránh một tội phạm nghiêm trọng hơn hoặc chờ thời cơ lại tiếp tục thực hiện tội phạm.
       Theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự (BLTTHS) thì Cơ quan Điều tra, Viện Kiểm sát và Toà án có quyền miễn trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội tự thú theo khoản 2 Điều 25 BLHS (khoản 2 Điều 164; khoản 1 Điều 169; khoản 2 Điều 227 BLTTHS). Việc miễn trách nhiệm hình sự của Cơ quan Điều tra và Viện Kiểm sát được thực hiện bằng một quyết định nhưng đối với Toà án thì phải bằng bản án, vì Viện Kiểm sát đã xác định người phạm tội không được miễn trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 25 BLHS nên mới truy tố ra toà, trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán được phân công chủ toạ phiên toà chỉ được ra quyết định đình chỉ vụ án khi có một trong những căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 105 và các điểm 3, 4, 5, 6 và 7 Điều 107 của BLTTHS hoặc khi Viện Kiểm sát rút toàn bộ quyết định truy tố trước khi mở phiên toà. Chỉ có Hội đồng xét xử khi nghị án, qua thảo luận, cân nhắc đánh giá thấy trường hợp tự thú của bị cáo được miễn trách nhiệm hình sự thì quyết định trong bản án.
       Nếu người phạm tội tự thú, nhưng chưa đến mức được miễn trách nhiệm hình sự thì được coi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự (TNHS) theo điểm o khoản 1 Điều 46 BLHS. Đây là vấn đề về lý luận cũng như thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử còn nhiều vướng mắc khi xem xét để miễn TNHS cho người phạm tội tự thú; ranh giới để xác định trường hợp nào người phạm tội tự thú thì được miễn TNHS, còn trường hợp nào người phạm tội tự thú chỉ được coi là tình tiết giảm nhẹ không rõ ràng, mà tuỳ thuộc vào việc đánh giá của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng; không ít trường hợp, Cơ quan Điều tra cho rằng, người phạm tội thuộc trường hợp được miễn TNHS, nhưng Viện Kiểm sát và Toà án thì cho rằng chưa đến mức miễn TNHS, hoặc ngược lại, Toà án hoặc Viện Kiểm sát cho rằng người phạm tội thuộc trường hợp được miễn TNHS nhưng Cơ quan điều tra không đồng tình vẫn đề nghị truy tố.
       Thực tiễn xét xử cho thấy, hầu hết các trường hợp người phạm tội tự thú nhưng Viện kiểm sát không miễn TNHS mà truy tố ra Toà thì Toà án chỉ coi là tình tiết giảm nhẹ TNHS theo điểm o khoản 1 Điều 46 BLHS chứ không ra bản án miễn TNHS cho bị cáo. Mặt khác Điều 227 BLTTHS quy định không rõ ràng, chỉ quy định Hội đồng xét xử trả tự do cho bị cáo trong trường hợp bị cáo được miễn TNHS chứ không có quy định về thẩm quyền của Hội đồng xét xử miễn TNHS cho bị cáo theo khoản 2 Điều 25 BLHS. Tuy nhiên, căn cứ vào Điều 227 BLTTHS thì việc miễn TNHS cho bị cáo tự thú theo khoản 2 Điều 25 BLHS phải do Hội đồng xét xử quyết định như đã phân tích ở trên.
       Nếu người phạm tội tự thú không được miễn TNHS, mà chỉ được coi là tình tiết giảm nhẹ thì khi áp dụng điểm o khoản 1 Điều 46 BLHS đối với trường hợp người phạm tội tự thú cần chú ý:
       - Trường hợp bị cáo phạm nhiều tội, thì tự thú tội nào được coi là tình tiết giảm nhẹ đối với tội đó. Ví dụ: Vũ Thị C bị bắt quả tang về hành vi vận chuyển 100 gam Heroin; trong quá trình điều tra, Vũ Thị C tự khai trước đó 3 tháng vào trước tết Nguyên Đán C còn phạm tội buôn bán hàng cấm là pháo nổ với số lượng rất lớn; Cơ quan Điều tra xác minh thấy lời khai tự thú của Vũ Thị C là chính xác. Tuy nhiên, việc tự thú của Vũ Thị C không góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, không hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả tội phạm, (vì số pháo nổ mà Vũ Thị C buôn bán đã tiêu thụ hết trong dịp Tết Nguyên Đán, C cũng không khai được số pháo đó bán cho ai, ở đâu) nên Cơ quan Điều tra đã khởi tố bổ sung đối với Vũ Thị C về tội Buôn bán hàng cấm theo khoản 2 Điều 155 BLHS. Khi xét xử vụ án đối với Vũ Thị C, Toà án cấp sơ thẩm đã áp dụng điểm o khoản 1 Điều 46 BLHS đối với bị cáo Vũ Thị C về cả 2 tội “vận chuyển trái phép chất ma tuý” và “buôn bán hàng cấm”. Lẽ ra, Toà án cấp sơ thẩm chỉ áp dụng tình tiết giảm nhẹ này đối với tội “buôn bán hàng cấm” còn đối với tội “Vận chuyển trái phép chất ma tuý” bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ “người phạm tội tự thú”.
       - Trường hợp bị cáo thực hiện nhiều hành vi phạm cùng một tội, thì tự thú hành vi phạm tội nào (nếu không được miễn trách nhiệm hình sự về hành vi đó) thì cũng được coi là tình tiết giảm nhẹ đối với tội phạm mà bị cáo thực hiện, nhưng mức độ giảm nhẹ ít hơn trường hợp tự thú tất cả hành vi phạm tội. Ví dụ: Trịnh Đắc D bị bắt quả tang khi đang thực hiện hành vi trộm cắp của một hành khách trên xe buýt với số tiền 10 triệu đồng. Trong quá trình điều tra, D còn khai đã 4 lần trộm cắp tài sản của 4 người với tổng số tiền là 50 triệu đồng nhưng không biết tên và địa chỉ của 4 người bị hại, vì D chuyên móc túi trên xe buýt, số tiền trộm cắp được D đã ăn tiêu hết. Trịnh Đắc D bị Viện Kiểm sát truy tố theo khoản 2 Điều 138 BLHS với các tình tiết: “có tính chất chuyên nghiệp” (điểm b) và “chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 50 triệu đồng đến dưới 200 triệu đồng” (điểm e). Do Trịnh Đắc D đã tự thú 4 lần trộm cắp trước khi bị bắt quả tang và xét thấy không thuộc trường hợp được miễn TNHS của hành vi trộm cắp tài sản 4 lần trước đó, nên khi quyết định hình phạt, Toà án cấp sơ thẩm đã áp dụng điểm o khoản 1 Điều 46 BLHS đối với bị cáo Trịnh Đắc D.
       - Cần phân biệt người phạm tội tự thú với “người phạm tội thành khẩn khai báo”. Người phạm tội thành khẩn khai báo là trường hợp chỉ thực hiện một hoặc một số hành vi mà tất cả các hành vi đó chỉ cấu thành một tội. Sau khi bị phát hiện, người phạm tội đã khai báo đầy đủ, trung thực tất cả các tình tiết của vụ án, giúp cơ quan tiến hành tố tụng xử lý nhanh chóng và đúng pháp luật. Nếu người phạm tội sau khi tự thú mà không khai báo thành khẩn thì vẫn có thể được áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo điểm o khoản 1 Điều 46 BLHS nhưng mức độ giảm nhẹ ít hơn trường hợp sau khi tự thú người phạm tội khai báo thành khẩn, mà không được áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ “người phạm tội thành khẩn khai báo”, vì người phạm tội thành khẩn khai báo sau khi tự thú là một trong những điều kiện để xem xét có thể miễn TNHS cho họ.
2. Về tình tiết đầu thú:
       Đầu thú là trường hợp đã có người biết mình phạm tội, sau khi thực hiện hành vi phạm tội đã bỏ trốn nhưng đã đến cơ quan có thẩm quyền trình diện khai rõ hành vi phạm tội của mình và đồng phạm (nếu có).
       Như vậy “tự thú” và “đầu thú” chỉ khác nhau ở chỗ: Tự thú là chưa ai biết mình phạm tội, còn đầu thú là đã có người biết mình phạm tội. Tính chất và mức độ của hành vi đầu thú được đánh giá khác nhau tuỳ thuộc vào việc người phạm tội đầu thú sớm hay muộn. Nếu đầu thú càng sớm thì mức độ giảm nhẹ càng nhiều. Ví dụ: Thái Lê K có ý định giết anh Vũ Hùng V nên đã lợi dụng lúc anh V đang ở trong rừng, K đã dùng súng săn bắn nhiều phát vào người anh V, rồi bỏ trốn. Anh V nhìn thấy K bắn mình đã tránh vào gốc cây nên chỉ bị thương. Sau khi bỏ trốn, K biết anh V không chết, mặc dù Cơ quan Điều tra chưa khởi tố vụ án, khởi tố bị can, nhưng K đã đến Công an đầu thú và khai rõ hành vi phạm tội của mình. Trường hợp Cơ quan Điều tra đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can, và ra lệnh truy nã, nhưng không bắt được phải tạm đình chỉ vụ án mà người phạm tội mới ra đầu thú thì cũng được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nhưng mức độ giảm nhẹ không bằng trường hợp người phạm tội đã đầu thú sớm.
       Mức độ giảm nhẹ của hành vi đầu thú còn phụ thuộc vào việc sau khi đầu thú người phạm tội có khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm hay không, nếu khai không rõ ràng hoặc khai báo không đầy đủ thì mức độ giảm nhẹ ít hơn trường hợp khai báo rõ ràng và đầy đủ.
Cần phân biệt tự thú với đầu hàng. Đầu hàng là chịu thua. Vì vậy, trong trường hợp một người phạm tội bị bao vây, không còn con đường nào khác mà phải ra hàng thì không được coi là tình tiết giảm nhẹ. Ví dụ: Nguyễn Quốc T bị truy nã về hành vi mua bán chất ma tuý theo khoản 4 Điều 194 BLHS, nhận được tin báo của nhân dân cho biết Nguyễn Quốc T đang lẩn trốn tại bãi đào vàng của Phạm Văn K, Cơ quan Điều tra đã tổ chức lực lượng vây bắt T, trong lúc vây bắt, T đã dùng súng AK bắn trả. Lực lượng vây bắt đã nhiều lần dùng loa kêu gọi T ra hàng, nhưng T vẫn ngoan cố, chỉ đến khi súng hết đạn, lực lượng vây bắt đã xiết chặt vòng vây, T mới chịu đầu hàng. Nếu họ còn có khả năng trốn tránh, nhưng ra trình diện thì được coi là trường hợp đầu thú.
       Theo tinh thần của Thông tư số 05/TTLN, thì chỉ có một khái niệm “tự thú” cho tất cả những trường hợp tự thú hoặc đầu thú, tuy nhiên, mức độ có khác nhau và nói chung họ đều được giảm nhẹ TNHS nhưng không hướng dẫn cụ thể trong trường hợp nào áp dụng khoản 1, trường hợp nào áp dụng khoản 2 Điều 38 BLHS năm 1985.
       Sau khi BLHS năm 1999 có hiệu lực pháp luật, các cơ quan ban hành Thông tư này cũng không ban hành Thông tư liên tịch thay thế Thông tư liên ngành số 05/TTLN nên các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng vẫn căn cứ vào hướng dẫn tại Thông tư số 05/TTLN để xác định “tự thú” đối với với cả trường hợp miễn TNHS theo khoản 2 Điều 25 và tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm o khoản 1 Điều 46 BLHS. Mặt khác, Thông tư số 05/TTLN là văn bản hướng dẫn áp dụng BLHS năm 1985 nên về nguyên tắc không còn giá trị pháp lý, đồng thời có những nội dung không còn phù hợp với BLHS năm 1999.
       Để kịp thời hướng dẫn các Toà án áp dụng BLHS năm 1999 đối với trường hợp người phạm tội tự thú, ngày 10-6-2002, Chánh án Toà án nhân dân tối cao đã ban hành Công văn số 81/2002/TANDTC. Nội dung của Công văn này về cơ bản không khác nhiều so với Thông tư số 05/TTLN, chỉ có điểm khác là nếu người phạm tội ra “đầu thú” thì không được áp dụng điểm o khoản 1 Điều 46 BLHS mà chỉ được áp dụng khoản 2 Điều 46 BLHS. Sau khi Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn, có nhiều ý kiến cho rằng, TANDTC đã hướng dẫn trái với Thông tư số 05/TTLN; tại nhiều phiên toà hình sự các Luật sư, bào chữa cho bị cáo chỉ thuộc trường hợp “đầu thú” chứ không phải “tự thú” đã đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm o khoản 1 điều 46 BLHS để bị cáo có 2 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 BLHS, trên cơ sở đó đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 47 BLHS quyết định dưới mức thấp nhất của khung hình phạt. Có Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của Luật sư nhưng cũng có Hội đồng xét xử không chấp nhận. Một số bài viết đăng trên một số báo cũng nêu vấn đề này và cho rằng, Công văn 81/2002/TANDTC của TANDTC không phải là văn bản pháp lý nên không có giá trị.
       Như trên đã nêu, Thông tư số 05/TTLN hướng dẫn áp dụng Bộ luật Hình sự năm 1985, theo khoản 2 Điều 81 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật thì BLHS năm 1999 đã thay thế BLHS năm 1985, nên các văn bản hướng dẫn thi hành BLHS năm 1985 về nguyên tắc không còn giá trị pháp lý. Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết vụ án, các cơ quan tiến hành tố tụng có thể vận dụng những nội dung còn phù hợp với BLHS năm 1999 để xem xét đánh giá. Sau khi BLHSnăm 1999 có hiệu lực pháp luật, các cơ quan ban hành Thông tư số 05/TTLN chưa ban hành một Thông tư liên tịch mới thay thế Thông tư liên ngành số 05/TTLN hoặc có Thông báo liên tịch về việc tiếp tục áp dụng Thông tư liên ngành số 05/TTLN, thì việc TANDTC ban hành Công văn 81/2002/TANDTC hướng dẫn các Toà án áp dụng BLHS năm 1999 là hoàn toàn đúng thẩm quyền. Tuy chỉ là Công văn, nhưng nó vẫn là Công văn hướng dẫn của TANDTC đối với các Toà án các cấp; cho đến nay, các cơ quan có chức năng giám sát việc ban hành văn bản chưa có ý kiến gì về nội dung Công văn 81 này nên Công văn 81/2002/TANDTC của Toà án nhân dân tối cao là hoàn toàn đúng pháp luật. Mặt khác hành vi “tự thú” và hành vi “đầu thú” có nội dung và mức độ giảm nhẹ rất khác nhau, nên hành vi đầu thú không thể coi như hành vi tự thú để áp dụng điểm o khoản 1 điều 46 BLHS được. Tuy nhiên, để bảo đảm tính pháp lý, chúng tôi đề nghị các cơ quan đã ban hành Thông tư số 05/TTLN ban hành một Thông tư liên tịch thay thế Thông tư số 05/TTLN hướng dẫn trường hợp “tự thú” và “đầu thú” là hai trường hợp khác nhau như tinh thần Công văn 81/2000/TANDTC của TANDTC. Trong khi chưa ban hành được Thông tư liên tịch thì Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao nên ban hành Nghị quyết để có giá trị pháp lý cao hơn Công văn.
Đinh Văn Quế – Thẩm phán, Chánh toà Tòa Hình sự – TANDTC (Tạp chí Tòa án nhân dân)

Thứ Năm, 15 tháng 7, 2010

Các văn bản pháp luật quy định về Đặc xá mới nhất

luat dac xa
Văn bản về Đặc xá:
Theo Quyết định 1123/2011/QĐ-CTN, người bị kết án phạt tù có thời hạn, tù chung thân đã được giảm xuống tù có thời hạn (gọi là phạm nhân) được đề nghị đặc xá như sau:
* Điều kiện được đề nghị đặc xá
1. Người bị kết án phạt tù có thời hạn, tù chung thân đã được giảm xuống tù có thời hạn đang chấp hành án phạt tù được đề nghị đặc xá phải có đủ các điều kiện sau đây:
a) Chấp hành tốt Nội quy của trại giam, trại tạm giam; tích cực học tập, lao động; trong quá trình chấp hành án phạt tù được xếp loại cải tạo từ loại khá trở lên; khi được đặc xá không làm ảnh hưởng đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
b) Đã chấp hành án phạt tù ít nhất là một phần ba thời gian đối với hình phạt tù có thời hạn, nếu trước đó đã được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù thì thời hạn được giảm không được tính vào thời gian đã chấp hành án phạt tù; đã chấp hành án phạt tù ít nhất là mười bốn năm đối với hình phạt tù chung thân, nếu sau khi đã được giảm xuống tù có thời hạn mà tiếp tục được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù thì thời hạn được giảm sau đó không được tính vào thời gian đã chấp hành án phạt tù;
c) Đã chấp hành xong hình phạt bổ sung là phạt tiền, bồi thường thiệt hại án phí hoặc nghĩa vụ dân sự khác trừ những phạm nhân không bị kết án phạt tù về các tội phạm về tham nhũng đã 70 tuổi trở lên hoặc trên 60 tuổi nhưng thường xuyên ốm đau hoặc người đang mắc bệnh hiểm nghèo mà bản thân người đó và gia đình không còn khả năng thực hiện.
2. Người bị kết án phạt tù có thời hạn, tù chung thân đã được giảm xuống tù có thời hạn đang chấp hành án phạt tù có đủ điều kiện quy định tại điểm a, c khoản 1 Điều này đã chấp hành án phạt tù ít nhất là một phần tư thời gian đối với hình phạt tù có thời hạn; ít nhất là mười hai năm đối với hình phạt tù chung thân đã được giảm xuống tù có thời hạn, khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Đã lập công lớn trong thời gian chấp hành án phạt tù, có xác nhận của trại giam, trại tạm giam;
b) Là thương binh; bệnh binh; người có thành tích trong chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, xây dựng chủ nghĩa xã hội được tặng thưởng một trong các danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, Anh hùng lao động, Nhà giáo nhân dân, Thầy thuốc nhân dân, Nghệ sỹ nhân dân; được tặng thưởng Huân chương, Huy chương kháng chiến, các danh hiệu Dũng sỹ trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước; người có thân nhân là liệt sỹ; con của Bà mẹ Việt Nam anh hùng; con của Gia đình có công với nước;
c) Khi phạm tội là người chưa thành niên;
d) Là người từ 70 tuổi trở lên;
đ) Là người đang mắc bệnh hiểm nghèo hoặc từ 60 tuổi trở lên mà thường xuyên ốm đau, có kết luận giám định y khoa hoặc xác nhận bằng văn bản của cơ quan y tế có thẩm quyền;
e) Có hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn, bản thân là lao động duy nhất trong gia đình, có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi gia đình người đó cư trú;
e) Nữ phạm nhân đang có thai hoặc có con nhỏ dưới 36 tháng tuổi đang ở với mẹ trong trại giam, trại tạm giam.
* Các trường hợp không đề nghị đặc xá:
Người có đủ điều kiện quy định tại Điều 3 của Quyết định này không được đề nghị đặc xá nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
1. Bản án hoặc quyết định của Tòa án đối với người đó đang có kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm;
2. Đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội khác;
3. Trước đó đã được đặc xá;
4. Có từ hai tiền án trở lên;
5. Phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng xâm phạm an ninh quốc gia;
6. Thời hạn chấp hành án phạt tù còn lại trên sáu năm đối với người được quy định tại điểm b, khoản 1, Điều 3; trên tám năm đối với người được quy định tại khoản 2, Điều 3 Quyết định này.
7. Phạm các tội về ma túy bị phạt tù đến bảy năm mà thời hạn chấp hành án phạt tù còn lại trên một năm; phạm các tội về ma túy bị phạt tù trên bảy năm đến mười lăm năm mà thời hạn chấp hành án phạt tù còn lại trên hai năm; phạm các tội về ma túy bị phạt tù trên mười lăm năm, tù chung thân mà thời hạn chấp hành án phạt tù còn lại trên ba năm;
8. Có căn cứ khẳng định là đã sử dụng trái phép chất ma túy;
9. Đồng thời phạm hai tội: giết người và cướp tài sản; giết người và hiếp dâm; giết người và hiếp dâm trẻ em; cướp tài sản và hiếp dâm; cướp tài sản và hiếp dâm trẻ em;
10. Phạm tội giết người có tổ chức; cướp tài sản có tổ chức hoặc có sử dụng vũ khí; cướp giật tài sản có tính chất chuyên nghiệp; cướp giật tài sản có tổ chức hoặc gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng;
11. Có một tiền án hoặc đã bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở giáo dục mà bị kết án phạt tù về một trong các tội sau đây: về ma túy; giết người; hiếp dâm trẻ em; cướp tài sản; cướp giật tài sản; cưỡng đoạt tài sản; lừa đảo chiếm đoạt tài sản; trộm cắp tài sản; bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản; mua bán phụ nữ; mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em; cố ý gây thương tích có tính chất côn đồ hoặc băng, nhóm thanh toán lẫn nhau.

Thứ Hai, 10 tháng 5, 2010

Căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam trong Bộ luật Tố tụng hình sự

tam giam
 Khoản 1, Điều 88 Bộ luật tố tụng hình sự quy định:
Tạm giam có thể được áp dụng đối với bị can, bị cáo trong những trường hợp sau:
- Bị can, bị cáo phạm tội rất nghiêm trọng và tội đặc biệt nghiêm trọng.
- Bị can, bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên 2 năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn, cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội.
Các căn cứ cho rằng bị can, bị cáo có thể trốn, cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội.
         + Căn cứ cho rằng bị can, bị cáo có thể trốn không được quy định trong luật. Tuy vậy, thực tiễn đấu tranh chống tội phạm đã đúc kết những căn cứ chủ yếu cần phải dựa vào đó để xem xét là: Tình trạng cư trú của bị can, bị cáo (Có nơi cư trú? Thường trú hay tạm trú? Nếu tạm trú thì dài hạn hay ngắn hạn? Có khai báo với chính quyền hay không? Nơi cư trú có ở quá xa nơi tiến hành các hoạt động tố tụng hay không?); Tình trạng nghề nghiệp (Có nghề nghiệp không? Làm việc trong cơ quan, tổ chức hay làm nghề tự do?); Tính chất hành vi đã thực hiện (cướp, trộm cắp, giết người hay lừa đảo...); Nhân thân (tiền án, tiền sự, hoàn cảnh gia đình, lịch sử bản thân...); Sự ràng buộc với gia đình, quê quán, cơ sở làm việc; Mối tương quan về lợi ích giữa việc bỏ trốn với việc chấp nhận bị xử lý trước pháp luật; Những biểu hiện cụ thể của bị can, bị cáo như liên hệ với người thân ở xa, mua vé đi xa...
          Khi vận dụng các căn cứ để xét bị can, bị cáo có thể trốn cần lưu ý là không phải khi nào cũng có thể làm rõ được tất cả các nội dung trên mà tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể và phải biết căn cứ vào nội dung nào là chủ yếu. Để quyết định việc tạm giam không nhất thiết phải làm rõ tất cả các nội dung trên, có thể chỉ một nội dung cũng đã đủ để nhận định là đối tượng sẽ trốn.
         + Căn cứ cho rằng bị can, bị cáo cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử: được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như tiêu hủy chứng cứ, làm giả hiện trường, thông đồng với nhau về những lời khai gian dối, mua chuộc, khống chế người làm chứng, người bị hại hoặc các hình thức khác. Cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử là trường hợp “gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử” nhưng ở mức độ cao hơn mang tính đối phó lại việc tiến hành các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử.
           Việc xác định bị can, bị cáo cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử phải dựa trên những căn cứ khách quan và phải xuất phát từ yêu cầu của việc điều tra, truy tố, xét xử chứ không phải sự suy đoán chủ quan tùy tiện. Từ thực tiễn cuộc đấu tranh chống tội phạm có thể rút ra những căn cứ cần xem xét để nhận định bị can, bị cáo cản trở việc tiến hành tố tụng thường là:
       1. Tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội mà họ đã thực hiện. Những bị can, bị cáo thực hiện hành vi phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng thì thường tiến hành nhiều hoạt động đối phó hoạt động tố tụng.
       2. Nhân thân người phạm tội, như loại đối tượng lưu manh, côn đồ thường có hành động đe dọa, khống chế người làm chứng, người bị hại hoặc thông đồng với đồng bọn về những lời khai gian dối.
       3. Sự ràng buộc với gia đình, cơ quan, tổ chức nghề nghiệp.
       4. Tình trạng chứng minh là mức độ làm rõ về hành vi phạm tội của bị can, bị cáo, đối với những đối tượng mà hành vi của họ cơ bản đã được làm rõ thì hành vi đối phó hoạt động tố tụng sẽ hạn chế và ngược lại.
       5. Những biểu hiện cụ thể của bị can, bị cáo như tiêu hủy chứng cứ, tiêu thụ tài sản do phạm tội mà có…
      + Căn cứ cho rằng bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội: phải dựa vào nhiều tình tiết và xem xét đánh giá một cách tổng hợp. Những tình tiết đó thường là: Tính chất của tội phạm mà bị can, bị cáo đã thực hiện; Nhân thân của bị can, bị cáo; Những biểu hiện cụ thể của bị can, bị cáo như đe dọa, khống chế, mua chuộc người làm chứng, người bị hại, sử dụng thời gian bất minh, đi lại gặp gỡ bọn tội phạm.
         BLTTHS quy định một số trường hợp không áp dụng biện pháp tạm giam; các trường hợp đó là: Bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang thời kỳ nuôi con dưới 36 tháng tuổi; người già yếu, người bị bệnh nặng. Những trường hợp trên phải có thêm một điều kiện khác đó là có nơi cư trú rõ ràng. Trong trường hợp không có nơi cư trú hoặc không xác định được nơi cư trú, có nhiều nơi cư trú, nơi cư trú quá xa nơi tiến hành điều tra hoặc trong trường hợp đặc biệt thì vẫn phải áp dụng biện pháp tạm giam. Những trường hợp đặc biệt nói trên theo quy định tại khoản 2, Điều 88 gồm:
         - Bị can, bị cáo bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã;
         - Bị can, bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng tiếp tục phạm tội hoặc cố ý cản trở nghiêm trọng đến việc điều tra, truy tố, xét xử;
         - Bị can, bị cáo phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ cho rằng nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia.
Một số trường hợp khó khăn cho cơ quan tiến hành tố tụng trong việc áp dụng biện pháp tạm giam trong thực tế:
         + Có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo tự sát. Trường hợp bị can, bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng, không có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội trốn tránh pháp luật nhưng lại có căn cứ cho rằng bị can, bị cáo tự sát, cần phải ngăn chặn việc người đó tự sát. Việc coi bị can, bị cáo tự sát là trường hợp gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc là hành động trốn tránh pháp luật để áp dụng biện pháp tạm giam, theo chúng tôi là không hợp lý vì không phù hợp với mục đích của biện pháp tạm giam.
         + Trường hợp bị can, bị cáo phạm tội gây căm phẫn đối với người bị hại, gia đình, người thân của người bị hại hoặc gây căm phẫn trong nhân dân có thể dẫn đến việc quần chúng tự phát xử lý người phạm tội. Ví dụ như vụ Nguyễn Văn Hải, phường Tân Hưng, quận 7, TP. HCM bị tạm giam về tội cố ý làm trái, nhận hối lộ, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, bị bắt để tạm giam, sau đó được Viện Kiểm sát nhân dân TP. HCM cho tại ngoại bị quần chúng phản đối, 1 ngày sau khi cho tại ngoại lại bắt để tạm giam.
          + Trường hợp bị can có thái độ khai báo thành khẩn về hành vi phạm tội của mình và của đồng bọn có thể bị đồng bọn đe dọa gây thiệt hại về sức khỏe, tính mạng để bịt đầu mối, để răn đe bị can, bị cáo trong việc khai báo sự thật về hành vi phạm tội của chúng, theo chúng tôi cần bảo vệ bị can, bị cáo.
           Có ý kiến cho rằng đối với các trường hợp trên để bảo vệ bị can, bị cáo, ngăn chặn hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe của bị can, bị cáo, cần thiết phải tạm giam đối với họ. Theo chúng tôi đối với các trường hợp trên không thể tạm giam đối với bị can, bị cáo, vì nó không phù hợp quy định về biện pháp tạm giam. Tuy nhiên, đối với nước ta trong giai đoạn hiện nay vấn đề bảo vệ bị can, bị cáo đang gặp khó khăn vì chưa được quy phạm hóa, chưa có cơ chế thực hiện, thì ý kiến trên cũng có yếu tố hợp lý.
           Ngoài ra đối với người bị bắt trong trường hợp đang bị truy nã, theo Điều 83, khoản 2 BLTTHS hiện hành quy định việc cơ quan điều tra nhận người bị bắt trong trường hợp đang bị truy nã, trước khi giao người bị bắt cho cơ quan đã ra lệnh truy nã nếu xét thấy không thể giao ngay người bị bắt cho cơ quan đã ra quyết định truy nã thì áp dụng biện pháp tạm giữ. Cơ quan đã ra quyết định truy nã, sau khi nhận được thông báo về việc đối tượng mà mình truy nã đã bị bắt thì phải ra lệnh tạm giam và gửi cho cơ quan điều tra đã nhận người bị bắt. Theo quy định này thì người bị bắt theo quyết định truy nã có thể bị áp dụng đồng thời hai biện pháp ngăn chặn, đó là biện pháp tạm giữ (do cơ quan điều tra nhận người bị bắt áp dụng) và biện pháp tạm giam (do cơ quan đã ra quyết định truy nã áp dụng). Theo chúng tôi đối với người bị bắt trong trường hợp đang bị truy nã, không nên tạm giữ đối với họ, vì thời hạn tạm giữ quá ngắn, trường hợp nơi họ bị bắt quá xa nơi ra lệnh truy nã họ, có thể không đủ thời gian để cơ quan điều tra nhận người bị bắt thông báo cho cơ quan ra lệnh truy nã về việc bắt và cơ quan đã ra lệnh truy nã tiếp nhận người bị bắt. Vì vậy, chúng tôi cho rằng cần phải áp dụng biện pháp tạm giam đối với họ, đồng thời quy định rõ thời hạn tạm giam đối với người bị bắt trong trường hợp này. Vì họ là người đang bị truy nã nên họ phải là bị can, bị cáo hoặc người đang thi hành hình phạt theo bản án đã có hiệu lực pháp luật và việc họ bị truy nã chứng tỏ có căn cứ cho rằng cần phải cách ly họ ra khỏi xã hội trong một thời gian nhất định. Việc họ trốn, dẫn đến phải truy nã đã thể hiện căn cứ tạm giam đối với họ.
PHẠM KHẮC VỰC - Thạc sĩ, Giảng viên Trường ĐH An ninh nhân dân

Chủ Nhật, 9 tháng 5, 2010

Một số vấn đề về biện pháp ngăn chặn trong Bộ Luật Tố tụng hình sự

Tham khảo:
       Bắt người là một trong những biện pháp ngăn chặn được quy định tại Chương VI, Bộ Luật Tố tụng hình sự. Việc bắt người luôn là vấn đề  nhạy cảm trong đời sống chính trị – xã hội, ảnh hưởng trực tiếp đến các quyền cơ bản của công dân, liên quan đến đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Việc bắt một số “đối tượng đặc biệt” về chính trị ở trong nước và các đối tượng là người nước ngoài còn ảnh hưởng đến chính sách đối nội và quan hệ đối ngoại của Nhà nước.
       Từ nghiên cứu thực tiễn và tham khảo ý kiến của một số chuyên gia, cần sửa đổi hoàn thiện một số quy định bắt người trong BLTTHS hiện hành để đảm bảo tính thống nhất, tạo điều kiện cho việc áp dụng pháp luật một cách chính xác như sau:
        Một là,Cần phải ban hành văn bản hướng dẫn thống nhất, chi tiết việc bắt các đối tượng là đại biểu dân cử; đảng viên; cán bộ, chiến sĩ CAND; người có chức sắc trong các tôn giáo; người thủ lĩnh, người có danh tiếng, có uy tín lớn trong các dân tộc ít người; tri thức, nhân sĩ có tên tuổi, văn nghệ sĩ có tiếng tăm được trong nước và thế giới chú ý tới và người nước ngoài. 
      Bộ Luật Tố tụng hình sự chưa có điều luật quy định việc bắt các đối tượng nêu trên. Trong khi đó việc bắt những “đối tượng đặc biệt” này được quy định trong một số văn bản pháp luật của Nhà nước, văn bản của Đảng và Bộ Công an, như: Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân; Công văn số 318/CV-BNV(V11) ngày 29/3/1992 của Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) về việc xin ý kiến trước khi bắt, giam, giữ một số đối tượng đặc biệt; Chỉ thị số 52-CT/TW ngày 16/3/2000 của Bộ Chính trị về phạm vi, trách nhiệm, quyền hạn giữa các cấp ủy Đảng với Đảng ủy Công an, Ban cán sự Đảng VKSND, Ban cán sự Đảng TAND trong công tác bảo vệ Đảng và xử lý tội phạm liên quan đến cán bộ, đảng viên; Hướng dẫn số 05-HD/NCTW ngày 15/01/2001 của Ban Nội chính Trung ương về sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác xử lý tội phạm theo tinh thần chỉ thị số 52-CT/TW ngày 16/3/2000 của Bộ Chính trị về việc bắt giữ các đối tượng đặc biệt. 
         Hai là, việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam được quy định tại Điều 80 BLTTHS, với tên gọi của chế định này là: “Bắt bị can, bị cáo để tạm giam” nên đã dẫn đến cách hiểu: “Bắt người là một biện pháp để thực hiện lệnh tạm giam”. Cách hiểu như vậy là không đúng bởi lẽ nếu coi “bắt bị can, bị cáo để tạm giam” là một biện pháp để thực hiện lệnh tạm giam thì việc cưỡng chế bị can, bị cáo thực hiện lệnh tạm giam dựa trên căn cứ pháp lý nào? Vì vậy xác định tên gọi của chế định này là “bắt tạm giam bị can, bị cáo”.
        - Thực tế cho thấy việc bắt người bị kết án để thi hành bản án mà trước đó họ chưa bị tạm giam cũng gặp nhiều bất cập. Vì vậy cần ban hành mẫu lệnh bắt thống nhất “Lệnh bắt người bị kết án để thi hành án” theo thẩm quyền của Tòa án, giao cho lực lượng Cảnh sát hỗ trợ tư pháp thực thi theo thủ tục chung.
        - Về hình thức lập pháp theo quy định tại Điều 80 BLTTHS đối với trường hợp bắt bị can, bị cáo để tạm giam chưa quy định căn cứ bắt cho trường hợp này và những trường hợp không bắt tạm giam. Đối chiếu với quy định về các trường hợp bắt khác quy định như vậy là chưa thống nhất. Nên cần bổ sung quy định này vào Điều 80 BLTTHS như:  “Bắt tạm giam có thể được áp dụng đối với bị can, bị cáo trong trường hợp: Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng; phạm tội rất nghiêm trọng; bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội” và “đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới ba mươi sáu tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà nơi cư trú rõ ràng thì không tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác, trừ những trường hợp: Bị can, bị cáo bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã; bị can, bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng tiếp tục phạm tội hoặc cố ý gây cản trở nghiêm trọng đến việc điều tra, truy tố, xét xử;bị can, bị cáo phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ cho rằng nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia”.
         - Trường hợp bị can, bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù dưới 2 năm thì không bị bắt để tạm giam; nhưng đối với các trường hợp bị can, bị cáo không có nơi cư trú rõ ràng hoặc có nơi cư trú nhưng ở cách xa Cơ quan điều tra hoặc có tiền án tiền sự hoặc là lưu manh chuyên nghiệp có biểu hiện trốn, cản trở hoạt động điều tra, truy tố, xét xử thì có thể bắt tạm giam. Mặc dù, quan điểm hiện nay nên giảm thiểu các trường hợp bắt bị can, bị cáo để tạm giam, nhưng việc quy định bắt tạm giam đối với đối tượng này là cần thiết cho hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra.
          - Khoản 3 Điều 80 BLTTHS quy định “Không được bắt người vào ban đêm, trừ trường hợp bắt khẩn cấp, phạm tội quả tang hoặc bắt người đang bị truy nã quy định tại các Điều 81 và Điều 82 của Bộ luật này” theo chúng tôi là chưa chính xác, không thống nhất mà phải quy định rõ “không được bắt tạm giam bị can, bị cáo vào ban đêm”.
Với đề xuất như trên có thể sửa đổi bổ sung Điều 80 BLTTHS như sau:
“ Điều 80. Bắt tạm giam bị can, bị cáo
1. Bắt tạm giam có thể được áp dụng đối với bị can, bị cáo trong những trường hợp sau đây:
a) Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng; phạm tội rất nghiêm trọng;
b) Bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên 2 năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội.
Trường hợp bị can, bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù dưới 2 năm không có nơi cư trú rõ ràng hoặc có nơi cư trú nhưng ở cách xa CQĐT hoặc có tiền án tiền sự hoặc có biểu hiện trốn, cản trở hoạt động điều tra thì có thể bắt tạm giam.
2. Đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà nơi cư trú rõ ràng thì không bắt tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác, trừ những trường hợp sau đây:
a) Bị can, bị cáo bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã;
b) Bị can, bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng tiếp tục phạm tội hoặc cố ý gây cản trở nghiêm trọng đến việc điều tra, truy tố, xét xử;
c) Bị can, bị cáo phạm tội xâm phạm ANQG và có đủ căn cứ cho rằng nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến ANQG.
3. Những người sau đây có quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam:
.....
4. Lệnh bắt phải ghi rõ ngày, tháng, năm, họ tên, chức vụ của người ra lệnh; họ tên, địa chỉ của người bị bắt và lý do bị bắt. Lệnh bắt phải có chữ ký của người ra lệnh và có đóng dấu....

5. Không được bắt tạm giam bị can, bị cáo vào ban đêm, trừ trường hợp bắt khẩn cấp, phạm tội quả tang hoặc bắt người theo quyết định truy nã”.
        Ba là, về khoản 4 Điều 81 BLTTHS quy định về thẩm quyền xét phê chuẩn lệnh bắt khẩn cấp thuộc về Viện Kiểm sát cùng cấp. Tuy nhiên, đối với trường hợp người có thẩm quyền ra lệnh bắt khẩn cấp là “Người chỉ huy đơn vị quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương đương; người chỉ huy đồn biên phòng ở hải đảo và biên giới” và “Người chỉ huy tàu bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng” quy định tại điểm b, c khoản 2 Điều 81 của Bộ luật này” thì rất khó xác định được Viện Kiểm sát cùng cấp như khi tàu bay đang bay trên bầu trời, tàu biển đang ở ngoài biển… Do đó, cần quy định bổ sung trong khoản 4 Điều 81 với nội dung “đối với trường hợp quy định tại điểm b, c khoản 2 Điều luật này, thẩm quyền để xét phê chuẩn lệnh bắt khẩn cấp là Viện Kiểm sát nơi có sân bay hoặc bến cảng trở về đầu tiên hoặc nơi tàu bay, tàu biển đó được đăng ký”. Quy định như vậy mới kịp thời ngăn chặn hành vi phạm tội, ngăn chặn hành động gây khó khăn cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử.
         Bốn là, Điều 82 BLTTHS quy định việc bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã trong cùng một điều luật: “Đối với người đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện hoặc bị đuổi bắt, cũng như người đang bị truy nã thì bất kỳ người nào cũng có quyền bắt và giải ngay đến Cơ quan Công an, VKS hoặc UBND nơi gần nhất” là không phù hợp về phương diện lý luận cũng như thực tiễn áp dụng vì đối tượng và thủ tục áp dụng, những việc cần làm sau khi tiếp nhận người bị bắt trong hai trường hợp này không giống nhau. Về đối tượng: Người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang chưa phải là bị can, bị cáo; còn người bị bắt trong trường hợp đang bị truy nã là người đã có lệnh bắt hoặc đã bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam hay đang chấp hành án phạt tù thì bỏ trốn mà cơ quan có thẩm quyền đã ra quyết định truy nã. Về biện pháp ngăn chặn: Đối với người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang họ có thể bị giam giữ hoặc không bị giam giữ theo Điều 86 BLTTHS; còn người bị bắt trong trường hợp đang bị truy nã thì sau khi bị bắt, Cơ quan điều tra có thẩm quyền phải áp dụng biện pháp tạm giữ hoặc tạm giam đối với họ. Về thủ tục bắt: Điều 82 BLTTHS chỉ quy định thủ tục bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã, thiếu các quy định về việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với người bị bắt, các vấn đề cần phải giải quyết sau khi tiếp nhận người bị bắt. Những nội dung này lại được quy định trong Điều 83 BLTTHS: Khoản 1 quy định những vấn đề cần phải làm sau khi tiếp nhận người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang; khoản 2 quy định những việc cần phải làm sau khi tiếp nhận người bị bắt trong trường hợp đang bị truy nã. Đề nghị:
       + Nên quy định các nội dung này trong một điều luật cho rõ căn cứ bắt, thẩm quyền, thủ tục bắt trong từng trường hợp và những việc cần làm sau khi bắt. Việc làm này bảo đảm tính khoa học về mặt kỹ thuật lập pháp, góp phần hạn chế được những thiếu sót khi xây dựng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật.
       + Cần quy định thêm nội dung bất kỳ người nào cũng có quyền “lục soát tước vũ khí, hung khí của người bị bắt” trong trường hợp phạm tội quả tang hoặc theo quyết định truy nã, để phân biệt với biện pháp khám người theo quy định tại Điều 182 BLTTHS. Vì khoản 2 Điều 82 BLTTHS chỉ quy định: “khi bắt người phạm tội quả tang hoặc người đang bị truy nã thì người nào cũng có quyền tước vũ khí, hung khí của người bị bắt”, trong khi trên thực tế nhiều trường hợp người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã thường có vũ khí và rất dễ chống trả ngay nếu bị bắt giữ. Quy định này nhằm khuyến khích quần chúng nhân dân tích cực tham gia công tác đấu tranh phòng và chống tội phạm.
       + Về tên gọi trường hợp bắt người đang bị truy nã theo quy định tại Điều 82 BLTTHS, nên quy định tên điều luật là “bắt người theo quyết định truy nã” sẽ chính xác hơn.
* Về áp dụng biện pháp bắt người nước ngoài phạm tội:
         Khi bắt người nước ngoài phạm tội, ngoài việc tuân theo các quy định từ Điều 79 đến Điều 82 Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS), còn phải tuân theo quy định của các văn bản pháp luật khác. Người nước ngoài là người không có quốc tịch Việt Nam, họ có thể là người không có quốc tịch hoặc có quốc tịch nước khác hiện đang sinh sống tại Việt Nam, họ có địa vị pháp lý khác nhau nên khi phạm tội thì thẩm quyền, thủ tục bắt họ cũng khác nhau.
         - Đối với người nước ngoài được hưởng quyền miễn trừ ngoại giao và lãnh sự: theo quy định tại Điều 10 Pháp lệnh về quyền ưu đãi miễn trừ dành cho cơ quan ngoại giao, cơ quan lãnh sự và cơ quan đại diện tổ chức quốc tế tại Việt Nam năm 1993 thì viên chức ngoại giao được hưởng quyền bất khả xâm phạm về thân thể và được đối xử trọng thị, họ không thể bị bắt, bị tạm giữ dưới bất kỳ hình thức nào. Nếu họ phạm tội quả tang thì cơ quan có thẩm quyền chỉ lập biên bản, thu giữ vật chứng, sau đó trả tự do cho họ và báo cáo ngay lên lãnh đạo Bộ Công an, cơ quan đại diện ngoại giao biết để phối hợp, xử lý. Các thủ tục tiếp theo giải quyết bằng con đường ngoại giao.
         - Đối với người nước ngoài không được hưởng quyền miễn trừ ngoại giao và lãnh sự: phạm tội trên lãnh thổ nước Việt Nam. Theo Công văn số 318/CV-BNV(V11) ngày 29/3/1992 của Bộ Công an trong về việc báo cáo xin ý kiến trước khi bắt, giam giữ một số đối tượng đặc biệt, thì việc bắt người nước ngoài phạm tội phải báo cáo xin ý kiến lãnh đạo Bộ trước khi bắt; nếu phạm tội quả tang thì ngay sau khi bắt phải báo cáo nhanh nhất lên lãnh đạo Bộ. Quy định này là cần thiết và phù hợp với đặc điểm tình hình trước đây, thời điểm đó số lượng người nước ngoài vào nước ta còn hạn chế, đối tượng phạm tội chưa nhiều, chưa phổ biến.
         Thời gian vừa qua, số lượng người nước ngoài đến Việt Nam và đã thực hiện hành vi phạm tội có chiều hướng gia tăng. Khi bắt các đối tượng này, các đơn vị, địa phương có thể chủ động giải quyết mà không cần xin ý kiến trước của lãnh đạo Bộ. Việc báo cáo xin ý kiến lãnh đạo Bộ sẽ gây khó khăn, cản trở công tác điều tra, tạo tâm lý ỷ lại cấp trên, thụ động trong đấu tranh phòng chống tội phạm. Nghiên cứu về trường hợp bắt người này, cho thấy tại kết luận số 212/BBT ngày 25/5/1993 của Ban Bí thư Trung ương Đảng quy định: “Việc bắt, giam, giữ những người có hành vi phạm pháp là tri thức, văn nghệ sĩ chức sắc trong tôn giáo và dân tộc ít người, người nước ngoài, người Việt Nam mang quốc tịch nước ngoài phải được Viện Kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Nội vụ đồng ý”. Sau đó chủ trương trên đã được điều chỉnh để phù hợp với thực tiễn. Chỉ thị số 52-CT/TW ngày 16/3/2000 của Bộ Chính trị yêu cầu việc báo cáo xin ý kiến cấp uỷ chỉ trong phạm vi “người phạm tội là người nước ngoài hoạt động chính trị phản động hoặc phạm pháp về kinh tế, nhưng việc xét xử có ảnh hưởng về chính trị”. Với những trường hợp này, khi Công an cấp tỉnh phát hiện thì Ban giám đốc báo cáo với đồng chí Bí thư tỉnh uỷ, thành uỷ, đồng thời báo cáo với Đảng uỷ Công an Trung ương xin ý kiến chỉ đạo”. Công văn số 81 ngày 10/6/2002 của TAND tối cao quy định: “đối với vụ án hình sự có bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi hoặc nghĩa vụ liên quan, nguyên đơn dân sự là người nước ngoài hoặc tổ chức nước ngoài thì thẩm quyền xét xử thuộc về tòa án cấp tỉnh”, nếu cấp huyện phát hiện người nước ngoài phạm tội thì phải chuyển vụ việc cho cơ quan điều tra cấp tỉnh trở lên xử lý. Hiện nay, theo Quyết định số 1044/QĐ - BCA (C11) ngày 05/9/2007 về phân công trách nhiệm và quan hệ phối hợp trong hoạt động điều tra của cơ quan Cảnh sát điều tra Công an các cấp, thì thủ tục bắt đối tượng là người nước ngoài tiến hành như thủ tục bắt được quy định trong BLTTHS. Trong thực tiễn, sau khi bắt những đối tượng này, các cơ quan tiến hành tố tụng thường có văn bản thông báo cho Sở Ngoại vụ để theo dõi, xác định đối tượng có quốc tịch nước nào và thông báo cho cơ quan đại diện ngoại giao nước họ biết để phối hợp xử lý.
         Nghiên cứu thực tiễn về việc áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt người trong Tố tụng hình sự đối với người nước ngoài không có thân phận ngoại giao phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam còn gặp một số khó khăn, vướng mắc:
         Một là, khi tiến hành bắt khẩn cấp hoặc bắt bị can để tạm giam đối với họ phải tuân theo theo quy định của luật Tố tụng hình sự như: đọc và giải thích lệnh bắt, hoạt động này thường phải có người phiên dịch. Khi thi hành lệnh bắt khẩn cấp cũng rất khó thực hiện, vì trường hợp bắt này mang cấp tính cấp bách, người phiên dịch của ta còn ít, khả năng ngoại ngữ của lực lượng tiến hành bắt còn hạn chế. Vì vậy, vấn đề đọc lệnh; giải thích quyền và nghĩa vụ của người bị bắt chỉ mang tính hình thức, đối tượng bị bắt không hiểu được họ có quyền và nghĩa vụ gì khi tham gia Tố tụng hình sự.
          Hai là, Điều 24 BLTTHS cho phép người tham gia tố tụng được quyền dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình, vì thế một số đối tượng người nước ngoài đã lợi dụng điểm này, dù biết tiếng Anh nhưng họ vẫn cứ dùng ngôn ngữ bản địa giao dịch với cơ quan điều tra. Người phiên dịch của nước ta chủ yếu dùng tiếng Anh, Nga, Pháp, Trung Quốc; các thứ tiếng khác như: Thái Lan, Pakistan, Iran, Nigieria, Ghana, Congo… rất ít người phiên dịch. Khi không giao dịch được thì khó khăn cho việc thu thập tài liệu, chứng cứ ban đầu để bắt người phạm tội. Có trường hợp quần chúng bắt người nước ngoài phạm tội quả tang giao cho cơ quan Công an, do bất đồng ngôn ngữ nên cơ quan Công an không lấy lời khai, thu thập tài liệu chứng cứ để chứng minh tội phạm, khi hết thời hạn tạm giữ thì phải trả tự do cho họ. Như vậy, trường hợp này đã để lọt tội phạm, ảnh hưởng tới hiệu quả của công tác đấu tranh phòng chống tội phạm.
         Ba là, để bắt người theo quyết định truy nã có kết quả thì trong quyết định này phải có đủ những thông tin về đối tượng bị bắt, thực tế nhiều quyết định truy nã người nước ngoài phạm tội lại thiếu những thông tin cần thiết. Khi có quyết định truy nã người nước ngoài phạm tội thì cơ quan có thẩm quyền phải báo cáo ngay cho Văn phòng Interpol để phối hợp truy bắt. Công an các tỉnh, thành phải xác định được đầy đủ các thông tin cần thiết về đặc điểm nhân thân, đặc điểm dạng người, quốc tịch của người bị bắt và báo ngay cho Văn phòng Interpol để phối hợp truy bắt đối tượng, đồng thời phải báo ngay cho phòng Quản lý xuất nhập cảnh không làm thủ tục xuất cảnh với các đối tượng trên và ra thông báo truy nã toàn quốc để mọi người phát hiện bắt giữ phục vụ cho yêu cầu giải quyết vụ án.
Để nâng cao hiệu quả bắt người nước ngoài phạm tội, theo chúng tôi phải làm tốt công tác sau:
        Quy định rõ hơn thủ tục xử lý đối với người được hưởng quyền miễn trừ ngoại giao có phạm tội quả tang (ai lập biên bản phạm tội quả tang, ai thu giữ vật chứng, thủ tục tiến hành như nào?). Bộ Công an cần ban hành một quy trình quy định về: việc tiếp nhận tin báo về tội phạm có yếu tố nước ngoài, thủ tục xử lý và giải quyết các nguồn tin trên cho đến khi kết thúc hồ sơ, chuyển vụ án tới Viện Kiểm sát để đề nghị truy tố. Cần có quy định riêng, nới rộng hơn về thời gian kiểm tra, xác minh nguồn tin về tội phạm do người nước ngoài thực hiện.

Thứ Ba, 23 tháng 3, 2010

Bộ Luật Tố tụng hình sự và văn bản hướng dẫn mới nhất năm 2013

Quy định chung
Thẩm quyền xét xử, các giai đoạn xét xử
Quyền hạn điều tra viên, kiểm sát viên
Hướng dẫn về quan hệ phối hợp
Hướng dẫn hội đồng định giá tài sản, bồi thường thiệt hại
Văn bản về thi hành án
Văn bản liên quan khác
Quy định liên quan đến Luật sư, người bào chữa

Chủ Nhật, 7 tháng 3, 2010

Pháp lệnh Tổ chức điều tra Hình sự và văn bản hướng dẫn mới nhất

Quy định chung
         Nghị Quyết
         Thông tư
          Quyết định
         Quan hệ phối hợp

Bài đăng phổ biến