Chủ Nhật, 29 tháng 11, 2009

Phê duyệt dự án Xây dựng Hệ thống bảo vệ trẻ em tại cộng đồng

UBND TPHCM vừa quyết định phê duyệt dự án Xây dựng Hệ thống bảo vệ trẻ em tại cộng đồng do Sở Lao động- Thương binh và Xã hội làm chủ dự án và Tổ chức Cứu trợ trẻ em Vương quốc Anh (SCUK) tài trợ với tổng giá trị dự án là 2,1 tỷ đồng. Thời gian thực hiện dự án từ tháng 11/2009 đến tháng 12/2011.
Mục tiêu dự án là xây dựng Hệ thống bảo vệ trẻ em tại cộng đồng trên địa bàn TP nhằm thiết lập hệ thống bảo vệ trẻ em cấp quốc gia.
Dự án sẽ được thực hiện tại phường 10 và phường 13, quận 6; các phường Sơn Kỳ, phường Hòa Thạnh và phường Tân Sơn Nhì, quận Tân Phú.
* UBND TP đã thống nhất kế hoạch tổ chức mít-tinh "Tháng hành động Quốc gia phòng, chống HIV/AIDS năm 2009" cấp thành phố với chủ đề "Tiếp cận, phổ cập và quyền chăm sóc sức khỏe" diễn ra vào ngày 28/11/2009 tại quận 8. Theo kế hoạch này, UBND TP yêu cầu công tác phòng chống AIDS phải được xem là việc làm thường xuyên, liên tục, là công việc lâu dài; cần tập trung thực hiện tại các quận ven, các huyện ngoại thành nhằm nâng cao nhận thức và thay đổi hành vi, chống sự kỳ thị với những người nhiễm HIV/AIDS và những trẻ bị nhiễm, bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS...
Đồng thời UBND TP đề nghị tập trung đầu tư cho cơ sở vật chất, trang thiết bị và đào tạo nhân lực đến cơ sở; cân đối cơ cấu đầu tư và xây dựng lộ trình tăng đầu tư của TP cho hoạt động phòng chống HIV/AIDS 5 năm (2011-2015).
UBND TP cũng chỉ đạo Sở Y tế - Thường trực Ủy ban Phòng, chống AIDS TP phối hợp cùng Sở Lao động - Thương binh và Xã hội rà soát, đề xuất bổ sung các nội dung và bổ sung nhân sự vào Ban chỉ đạo chăm sóc trẻ nhiễm và trẻ bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS tại TP; trình UBND TP xem xét quyết định để thực hiện trong tháng 11/2009.
(Theo Website VP)

Thứ Bảy, 28 tháng 11, 2009

Sẽ có trường đại học chuyên ngành hạ tầng kỹ thuật đô thị

Theo quy hoạch phát triển mạng lưới các trường đại học, cao đẳng, trung học mà Bộ Xây dựng đã đăng ký thì đến năm 2011, Trường Cao đẳng Xây dựng Công trình đô thị sẽ nâng cấp thành trường đại học chuyên ngành hạ tầng kỹ thuật đô thị. Trong cuộc trò chuyện với phóng viên báo Xây dựng mới đây, Hiệu trưởng Nguyễn Bá Thắng cho biết: Nhà trường đã đề xuất với Bộ và đang lập đề án chủ động đẩy sớm tiến độ một năm. Tức là đến năm 2010, trong hệ thống các cơ sở đào tạo của Bộ Xây dựng sẽ có thêm một trường đại học.


Trường CĐ Công trình đô thị tưng bừng không khí đón chào ngày Nhà giáo Việt Nam.

Chia sẻ ý tưởng về một trường đại học chuyên ngành sâu về hạ tầng đô thị, TS Nguyễn Bá Thắng cho biết: Đây là sự phát triển tất yếu và cần thiết.

Tất yếu ở đây không phải hễ là trường cao đẳng thì đương nhiên sau một số năm sẽ tiếp tục nâng cấp thành trường đại học mà tất cả đều xuất phát từ nhu cầu thực tế cuộc sống. Ông Thắng nhận định: Những năm qua, Việt Nam đạt tốc độ đô thị hóa cao, xấp xỉ 30% và dự báo đến năm 2025 gần một nửa dân số Việt Nam sẽ sống ở khu vực đô thị. Đô thị phát triển kéo theo nhu cầu đầu tư xây dựng hệ thống hạ tầng kỹ thuật đô thị như giao thông, công trình ngầm, cấp nước, thoát nước, chiếu sáng, cây xanh, thu gom và xử lý chất thải rắn... của các đô thị cũng tăng tương ứng. Tuy nhiên, lực lượng lao động các chuyên ngành nói trên, nhất là nhân lực cho vận hành và quản lý trong hiện tại và tương lai còn rất thiếu. Trong khi đó, Trường Cao đẳng Xây dựng Công trình Đô thị là cơ sở đào tạo có uy tín, giàu kinh nghiệm đào tạo các ngành cấp thoát nước, điện đô thị, quản lý cây xanh đô thị, quản lý khu đô thị... từ trình độ cao đẳng trở xuống. Việc mở rộng thêm các ngành đào tạo mới như giao thông đô thị, công trình ngầm đô thị, chiếu sáng đô thị, xử lý rác thải, quản lý khu đô thị, tin học quản lý và xây dựng đô thị... hay nâng cấp trường thành trường đại học chuyên ngành hạ tầng kỹ thuật đô thị trong thời gian ngắn tới đây vẫn là hướng đến mục tiêu nâng cao chất lượng đào tạo, đáp ứng nhu cầu bức xúc về lao động của thực tế cuộc sống.


Sân vườn kết nối khu giảng đường và xưởng thực tập.

Ông Thắng cho biết, hiện tại Nhà trường đang trong thời gian nghiên cứu lập đề án song lãnh đạo Nhà trường đã sớm thống nhất chủ trương xuyên suốt là xây dựng thành một trường đại học đặc thù chuyên ngành hẹp về hạ tầng kỹ thuật đô thị.

Bên cạnh việc xây dựng đề án, ngay tại thời điểm này, Nhà trường cũng đang hoàn thiện các điều kiện cần và đủ khi nâng cấp lên thành trường đại học. Đó là các điều kiện về đội ngũ cán bộ giảng viên, cơ sở vật chất và xây dựng chương trình đào tạo. Ông Trịnh Văn Dũng - Trưởng phòng Đào tạo của trường cho biết, hiện tại có đội ngũ gần 180 cán bộ, giảng viên. Những năm qua, Nhà trường đã tạo điều kiện thuận lợi để đội ngũ này đi học trong và ngoài nước nâng cao trình độ. Đến năm 2010, chắc chắn Nhà trường đạt chỉ tiêu 50% giảng viên có trình độ cao học. Nhà trường cũng tiếp tục phấn đấu để ít nhất 20% giảng viên có bằng tiến sĩ. Ngoài ra, Nhà trường cũng đã thiết lập và mời các chuyên gia uy tín trong lĩnh vực kỹ thuật hạ tầng tham gia giảng dạy, cùng xây dựng chương trình đào tạo.


Học thầy và học bạn.

Về cơ sở vật chất, Nhà trường có 2 cơ sở. Cơ sở 1 ở Hà Nội quy mô 5ha với đầy đủ hệ thống giảng đường, phòng thí nghiệm, xưởng thực hành các nghề, ký túc xá đồng bộ, đủ đáp ứng lưu lượng đào tạo 5.000 học sinh, sinh viên/năm. Đặc biệt, với dự án Trung tâm đào tạo ngành nước và môi trường do Pháp tài trợ, Nhà trường đã đầu tư 2 hệ thống cấp và thoát nước vừa phục vụ công tác đào tạo, vừa phục vụ dân sinh khu vực xung quanh. Bản thân cảnh quan Nhà trường với hồ nước, sân vườn, cây xanh... đồng thời là mô hình phục vụ công tác đào tạo về cây xanh và chiếu sáng đô thị.

Bên cạnh đó, Nhà trường còn có cơ sở 2 tại TP Huế, quy mô cũng 5ha. Hiện tại, Bộ Xây dựng đã ký biên bản ghi nhớ với tổ chức JICA Nhật Bản về việc tài trợ đầu tư cho cơ sở 2 của nhà trường trung tâm đào tạo ngành nước.


Thầy và trò thảo luận sôi nổi trong lớp học chuyên ngành cấp nước.

Về chương trình đào tạo, bên cạnh việc tiếp tục hoàn thiện và nâng cấp các chương trình giảng dạy chuyên ngành đang đào tạo ở các cấp trình độ, Nhà trường đồng thời đưa các cán bộ giảng viên của mình và phối hợp với các chuyên gia chuyên ngành tại ở các đơn vị để xây dựng chương trình đào tạo. Đơn cử, nhà trường đang cùng với chuyên gia của TCty HUD xây dựng chương trình đào tạo quản lý khu đô thị mới... Phương châm của Nhà trường là mọi chương trình đào tạo đều xây dựng và xuất phát từ thực tiễn cuộc sống và phục vụ cuộc sống.

Việc nâng cấp Trường Cao đẳng Xây dựng công trình đô thị thành trường đại học sớm hơn quy hoạch một năm là khả thi - Hiệu trưởng Nguyễn Bá Thắng nói.


Tú Tú

Thứ Sáu, 27 tháng 11, 2009

Kế toán rút lõi hai tỷ đồng của ngân hàng

Ngày 22/11, Công an phường Thành Công, quận Ba Đình điều tra làm rõ vụ Dương Thị Thu Hằng, 26 tuổi, ở Nghĩa Tân, quận Cầu Giấy, kế toán Ngân Hàng Chinfon dùng thủ đoạn nghiệp vụ để làm sai lệch sổ sách, chiếm đoạt hàng tỷ đồng của ngân hàng này.

Cùng ngày, Hằng đã được chuyển lên công an quận Ba Đình để tiếp tục điều tra xử lý.

Tại cơ quan công an, Hằng khai nhận, lợi dụng sự quản lý lỏng lẻo của ngân hàng, Hằng đã làm giả hóa đơn và sửa tăng số tiền ghi trên hóa đơn giao dịch của khách hàng để giao dịch theo số tiền đã sửa và tạo lệnh chuyển tiền vào tài khoản của mình tại một ngân hàng khác.

Ngoài ra, Hằng còn làm giả chứng từ bằng cách cắt, dán và photocoppy lại giấy báo tiền lãi của ngân hàng với số tiền ít hơn, rồi chiếm đoạt số chênh lệch.

Bằng những thủ đoạn trên, từ năm 2007 đến khi bị phát hiện, Hằng dưới danh nghĩa kế toán đã lừa đảo, chiếm đoạt gần hai tỷ đồng từ các giao dịch tiền tệ của Ngân hàng Chinfon.

Thứ Sáu, 20 tháng 11, 2009

Tòa xử án : Cướp cả người nhà

Chương trình tòa xử án : Truy tố vị cáo về tội "Cướp tài sản"

Link: http://clip.vn/watch/Toa-tuyen-an-Cuop-ca-nguoi-nha,WG1K

Bị sa thải vì xin đi du học

Người lao động đã khởi kiện đòi công ty cũ bồi thường 165 triệu đồng.

Ngày 28-9, TAND TP.HCM đã xử vụ ông MTH kiện đòi Tổng Công ty Phát triển phát thanh truyền hình thông tin (EMICO) bồi thường 165 triệu đồng vì đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái luật. Vụ kiện khá lạ bởi nguyên nhân ông H. bị sa thải là do... xin đi du học nước ngoài.


Đơn phương đuổi việc

Tháng 3-2005, ông H. được Chi nhánh tại TP.HCM của Công ty Ứng dụng phát triển phát thanh truyền hình (BDC) ký hợp đồng lao động với thời hạn sáu tháng. Hợp đồng hết hạn, hai bên không ký hợp đồng lao động mới nhưng ông H. vẫn tiếp tục làm việc. Tháng 5-2006, ông H. gửi đơn xin đi du học nước ngoài với nội dung là yêu cầu công ty hỗ trợ về tài chính, thủ tục. Tuy nhiên, khoảng hai tháng sau, giám đốc chi nhánh đã ra quyết định cho ông H. nghỉ việc.

Lý giải, giám đốc chi nhánh cho biết BDC không có chính sách đưa nhân viên đi du học nước ngoài. Ông đã giải thích miệng với ông H. về việc này. Mặt khác, ông nghĩ lá đơn của ông H. có ý nghĩa như thông báo sắp nghỉ việc nên ông đã ra quyết định trên để ông H. có thời gian thực hiện kế hoạch du học của mình.

Về phần mình, ông H. lại nói trước đây chính giám đốc BDC đã gợi ý ông làm hồ sơ xin du học để công ty hỗ trợ. Nghe vậy, ông rất phấn khởi, thông báo với gia đình, bạn bè và nhận được không ít lời chúc tụng. Đến khi có quyết định cho nghỉ việc, không chỉ bản thân ông bị sốc mà mẹ ông (gần 80 tuổi) cũng buồn phiền, lâm bệnh nặng...

Để kiện quyết định trên, ông H. gặp không ít khó khăn. Lúc ông vào làm việc thì chi nhánh thuộc BDC. Chỉ một tháng sau khi ông nghỉ, BDC sát nhập vào EMICO và chi nhánh ông từng làm việc trở nên bơ vơ vì không có tên trong danh sách sát nhập. Thời gian này ông H. bối rối, không xác định được ai là bị đơn. Nếu kiện chi nhánh thì tòa sẽ từ chối nhận đơn vì chi nhánh không có tư cách pháp nhân, muốn kiện BDC thì BDC đã không còn, cả EMICO lúc đó cũng không liên quan.

Phải mãi đến cuối năm 2007, khi chi nhánh được chuyển thành một đơn vị hạch toán phụ thuộc EMICO thì ông mới nộp đơn kiện ra TAND quận 5 nơi chi nhánh có văn phòng. Sau đó, EMICO đã làm giấy ủy quyền cho giám đốc chi nhánh giải quyết.

Phải nhận lại và bồi thường

Ông H. đòi bồi thường rất nhiều khoản. Ngoài tiền lương 35 tháng không làm việc còn có tiền cơm, tiền điện thoại, tiền làm thêm giờ... Ngoài ra, ông yêu cầu EMICO phải đăng báo xin lỗi trên ba số liên tiếp và bồi thường danh dự, tổn thất tinh thần cho ông tám triệu đồng. Ông còn cho rằng khi vào làm việc, ông đã nộp cho chi nhánh hai cuốn sổ bảo hiểm xã hội nhưng chỉ được trả lại một. Nay ông yêu cầu EMICO phải ghi gộp thời gian làm việc vào sổ bảo hiểm...

Tháng 6-2009, TAND quận 5 đã xử sơ thẩm, tuyên hủy quyết định cho thôi việc, buộc EMICO phải nhận ông H. vào làm việc lại, bồi thường 35 tháng lương cùng tiền vi phạm thời hạn báo trước 45 ngày (tổng cộng khoảng 65 triệu đồng).

Tòa không chấp nhận các yêu cầu bồi thường về tiền cơm, tiền điện thoại... do không có trong các phần phụ cấp lương theo pháp luật lao động, cũng không có trong quy định của EMICO. Về việc sửa sổ bảo hiểm, ông H. phải liên hệ với cơ quan bảo hiểm xã hội để nơi này hướng dẫn giải quyết. Tòa cũng bác yêu cầu buộc EMICO đăng báo xin lỗi và bồi thường danh dự vì quyết định cho nghỉ việc tuy sai pháp luật lao động nhưng không xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm của ông H.

Không đồng ý, EMICO kháng cáo. Tại phiên phúc thẩm, TAND TP phân tích: Theo luật, nếu hết hợp đồng ngắn hạn mà không ký tiếp hợp đồng mới nhưng người lao động vẫn làm việc thì sau 30 ngày được xác định là hợp đồng không thời hạn. Đơn của ông H. là đơn xin du học chứ không phải đơn xin nghỉ việc nên giám đốc chi nhánh ra quyết định cho nghỉ việc là sai.

Chưa phục, giám đốc chi nhánh yêu cầu tòa xác định hợp đồng không thời hạn trên vô hiệu bởi theo điều lệ công ty, chi nhánh chỉ được quyền ký hợp đồng ngắn hạn 3-6 tháng chứ không được ký hợp đồng dài hạn. Tòa giải thích: Chi nhánh chỉ được ký hợp đồng theo ủy quyền bởi công ty mới là pháp nhân sử dụng lao động. Khi hết hạn hợp đồng, lẽ ra chi nhánh phải báo cáo lên công ty biết để ký tiếp hợp đồng mới nhưng lại không báo là có lỗi...

Cuối cùng, TAND TP đã tuyên y án sơ thẩm, riêng phần bồi thường có sửa lại là trừ đi phần tiền vi phạm thời hạn báo trước 45 ngày vì công ty đã trả cho ông H. rồi.
PhapluatTPHCM

Thứ Sáu, 25 tháng 9, 2009

Toàn văn Thông tư 17/2009/TT-BYT hướng dẫn công tác kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo của Thủ trưởng cơ quan y tế


BỘ Y TẾ
------------
Số: 17/2009/TT-BYT

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Hà Nội, ngày 25 tháng 9 năm 2009
  THÔNG TƯ
Hướng dẫn công tác kiểm tra, thanh tra,
giải quyết khiếu nại, tố cáo của Thủ trưởng cơ quan y tế 

Căn cứ Luật Khiếu nại, tố cáo ngày 02 tháng 12 năm 1998; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo năm 2004, năm 2005;
Căn cứ Luật Thanh tra ngày 15 tháng 6 năm 2004;
Căn cứ Luật Phòng, chống tham nhũng ngày 29 tháng 11 năm 2005;
Căn cứ Nghị định số 77/2006/NĐ-CP ngày 03 tháng 08 năm 2006 của Chính phủ qui định về tổ chức và hoạt động của Thanh tra y tế;
Căn cứ Nghị định số 188/2007/NĐ-CP ngày 27 tháng 12 năm 2007 của Chính phủ qui định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Y tế;
Bộ Y tế hướng dẫn công tác kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo của Thủ trưởng cơ quan y tế như sau:
Chương I
QUY ĐỊNH CHUNG 
Điều 1. Phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng
1. Thông tư này hướng dẫn công tác kiểm tra, thanh tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo của Thủ trưởng cơ quan y tế.
2. Thông tư này áp dụng đối với các đơn vị sản xuất kinh doanh, các cơ quan hành chính sự nghiệp trực thuộc Bộ Y tế, các cơ quan y tế thuộc Sở Y tế, Chi Cục Dân số – Kế hoạch hoá Gia đình (DS – KHHGĐ), Chi Cục An toàn Vệ sinh thực phẩm (ATVSTP).
Điều 2. Giải thích từ ngữ
Thông tư này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
1. Cán bộ Thanh tra của Thủ trưởng cơ quan y tế (gọi tắt là Thanh tra của Thủ trưởng) là người được giao trách nhiệm giúp Thủ trưởng cơ quan y tế tổ chức thực hiện chế độ giám sát, kiểm tra, thanh tra theo chế độ trách nhiệm của Thủ trưởng cơ quan y tế được quy định trong Thông tưnày.
2. Trưởng bộ phận là Trưởng Phòng, Trưởng Ban, Trưởng Khoa, Trưởng Bộ môn, Phân Xưởng trưởng tại cơ quan y tế như: Bệnh viện, Viện nghiên cứu, Học viện, Trường y, dược, Chi Cục Dân số – KHHGĐ, Chi Cục An toàn Vệ sinh thực phẩm.
3. Thủ trưởng cơ quan y tế là Giám đốc, Viện trưởng, Hiệu trưởng, Chi Cục trưởng, phụ trách các đơn vị sản xuất, kinh doanh, đơn vị hành chính sự nghiệp trực thuộc Bộ Y tế, các cơ quan y tế trực thuộc Sở Y tế, Chi Cục DS – KHHGĐ, Chi Cục ATVSTP. 
Chương II
CÔNG TÁC KIỂM TRA, THANH TRA, GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI,
TỐ CÁO CỦA THỦ TRƯỞNG CƠ QUAN Y TẾ 
Điều 3. Trách nhiệm kiểm tra, thanh tra
1. Tổ chức, cá nhân thuộc cơ quan y tế có trách nhiệm tự kiểm tra việc chấp hành chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, chức trách công vụ, kế hoạch được giao và chịu sự kiểm tra, thanh tra của Thủ trưởng cơ quan, các cấp quản lý y tế và các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
2. Trưởng bộ phận của cơ quan có trách nhiệm tự kiểm tra (thường xuyên, định kỳ, đột xuất) việc thực hiện chức trách nhiệm vụ được giao của cán bộ, viờn chức, người lao động thuộc quyền quản lý trực tiếp của mình.
3. Thủ trưởng cơ quan y tế có trách nhiệm tổ chức và chỉ đạo thực hiện công tác kiểm tra, thanh tra (khi được yêu cầu phối hợp), việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ được giao theo kế hoạch định kỳ, đột xuất và giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền quản lý.
Điều 4. Nội dung kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo
1. Việc chấp hành các chính sách, pháp luật của Nhà nước có liên quan đến hoạt động của đơn vị thuộc quyền quản lý của ngành.
2. Việc tổ chức thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, đơn vị và chức trách công vụ của cán bộ, công chức, viên chức, người lao động ngành y tế về quản lý các nguồn lực, các quy trình, quy chế chuyên môn.
3. Việc chỉ đạo, tổ chức thực hiện nhiệm vụ theo kế hoạch được giao của các tổ chức, cá nhân thuộc quyền quản lý của Thủ trưởng cơ quan.
4. Việc tổ chức thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở tại cơ quan, đơn vị; Thực hiện công tác tiếp công dân, công tác xét giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân theo quy định của pháp luật.
5. Việc tổ chức thực hiện các kết luận, kiến nghị của kiểm tra, thanh tra và việc khắc phục những yếu kém, sai phạm đã được phát hiện trong kỳ kiểm tra, thanh tra trước.
6. Việc thực hiện Luật Phòng, chống tham nhũng; Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và các văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ và Bộ Y tế về triển khai thực hiện Luật Phòng, chống tham nhũng, Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.
Điều 5. Nguyên tắc, trình tự kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo
Thủ trưởng cơ quan y tế trực tiếp tổ chức, chỉ đạo công tác kiểm tra, thanh tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo:
1. Hàng năm các Trưởng bộ phận của cơ quan và Thanh tra của Thủ trưởng giúp Thủ trưởng cơ quan xây dựng kế hoạch kiểm tra, thanh tra và thông báo đến các đơn vị trực thuộc, cán bộ, công chức, viên chức, người lao động của cơ quan, đơn vị.
2. Hướng dẫn các đơn vị và cán bộ, công chức, viên chức, người lao động trong cơ quan, đơn vị chủ động thực hiện kế hoạch công tác kiểm tra, thanh tra theo chức trách, nhiệm vụ được giao.
3. Tiến hành kiểm tra, thanh tra, phúc tra giải quyết khiếu nại, tố cáo:
a) Đối tượng kiểm tra, thanh tra phải báo cáo kết quả tự kiểm tra đánh giá việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ được giao; nêu cụ thể những nội dung làm được, chưa làm được, nguyên nhân, biện pháp và thời gian khắc phục.
b) Thủ trưởng cơ quan y tế tổ chức kiểm tra, thanh tra các Trưởng bộ phận và cán bộ, công chức, viên chức, người lao động những nội dung kiểm tra, thanh tra (nêu tại Điều 5) theo kế hoạch kiểm tra, thanh tra của cơ quan đã hướng dẫn, đánh giá ưu khuyết điểm, nguyên nhân yếu kém, sai phạm, những vấn đề cần khắc phục, nêu rõ biện pháp và thời gian khắc phục, báo cáo kết quả với Thủ trưởng cơ quan quản lý cấp trên và Thanh tra Bộ Y tế, Thanh tra Sở Y tế theo quy định.
c) Nếu phát hiện tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật thì báo cáo Thủ trưởng cơ quan quản lý cấp trên và Thanh tra Bộ Y tế, Thanh tra Sở Y tế theo thẩm quyền để xem xét giải quyết theo quy định của pháp luật.
d) Theo dõi và đôn đốc thực hiện các quyết định, kiến nghị sau kiểm tra, thanh tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo; lưu và quản lý hồ sơ kiểm tra, thanh tra, phúc tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo. 
Chương III
CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN
THANH TRA CỦA THỦ TRƯỞNG 
Điều 6. Thanh tra của Thủ trưởng
1. Thanh tra của Thủ trưởng phải là người trung thực, thẳng thắn, liêm khiết; có phẩm chất và bản lĩnh chính trị vững vàng; có trình độ chuyên môn, am hiểu thực tế, nắm vững chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước, có hiểu biết công tác về quản lý Nhà nước; hàng năm được bồi dưỡng về nghiệp vụ thanh tra.
2. Thanh tra của Thủ trưởng phải nắm vững chức năng, nhiệm vụ của cơ quan và đơn vị trong cơ quan; chức trách của cán bộ, công chức, viên chức người lao động trong cơ quan, đơn vị; việc tổ chức và triển khai thực hiện kế hoạch của cơ quan, đơn vị; công tác kiểm tra, thanh tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định.
Điều 7. Chức năng Thanh tra của Thủ trưởng
1. Giúp Thủ trưởng cơ quan xây dựng và triển khai thực hiện kế hoạch công tác kiểm tra, thanh tra, công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền của Thủ trưởng cơ quan.
2. Khi được Thủ trưởng cơ quan uỷ quyền, có trách nhiệm tổ chức kiểm tra, thanh tra các đơn vị và cá nhân thuộc quyền quản lý của Thủ trưởng cơ quan về việc thực hiện kế hoạch kiểm tra, thanh tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp luật.
Điều 8. Nhiệm vụ Thanh tra của Thủ trưởng
1. Xây dựng kế hoạch (năm, quý, tháng) công tác kiểm tra, thanh tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo trình Thủ trưởng cơ quan phê duyệt và đôn đốc việc thực hiện kế hoạch đó. Kế hoạch kiểm tra, thanh tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo cần nêu rõ mục tiêu, nội dung, đối tượng, phương pháp và thời gian tiến hành.
2. Tổ chức triển khai kế hoạch công tác kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại tố cáo và những công việc khác liên quan đến hoạt động thanh tra theo chỉ đạo của Thủ trưởng cơ quan. Thông báo nội dung kế hoạch từ đầu năm cho các đơn vị và cán bộ, công chức, nhân viên trong cơ quan; yêu cầu các đơn vị triển khai thực hiện công tác quản lý và công tác tự kiểm tra của đơn vị; hướng dẫn việc tổ chức kiểm tra, thanh tra, xét giải quyết khiếu nại, tố cáo và các công việc khác có liên quan đến công tác thanh tra của Thủ trưởng.
3. Đôn đốc, giám sát việc tổ chức thực hiện kế hoạch kiểm tra, thanh tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo của các đơn vị trong cơ quan. Khi được Thủ trưởng cơ quan uỷ quyền, tổ chức Đoàn kiểm tra, phúc tra việc thực hiện kế hoạch đó. Đôn đốc thực hiện các quyết định sau kiểm tra, thanh tra của Thủ trưởng cơ quan.
4. Giúp Thủ trưởng cơ quan tổ chức, chỉ đạo việc tiếp công dân, việc giải quyết khiếu nại tố cáo có liên quan đến cán bộ, công chức, nhân viên và chức năng nhiệm vụ của đơn vị, cơ quan theo quy định của pháp luật và hướng dẫn của Bộ Y tế theo cỏc nội dung sau đõy:
a) Đề xuất bố trí phòng tiếp công dân của cơ quan. Xây dựng và đôn đốc thực hiện lịch tiếp công dân của Thủ trưởng cơ quan và các Trưởng bộ phận. Tổ chức thường trực tiếp công dân của cơ quan và ghi chép các ý kiến của công dân. Báo cáo kết quả tiếp công dân với Thủ trưởng cơ quan để trực tiếp giải quyết; trường hợp cần thiết có thể báo cáo Thanh tra Bộ Y tế, Thanh tra Sở Y tế.
b) Tiếp nhận và đề xuất giải quyết khiếu nại, tố cáo có liên quan đến cán bộ, công chức, nhân viên và chức năng, nhiệm vụ của đơn vị theo quy định của pháp luật và hướng dẫn của Bộ Y tế.
5. Giúp Thủ trưởng cơ quan thực hiện nhiệm vụ phòng ngừa và đấu tranh phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật.
6. Tổng hợp và chuẩn bị báo cáo về hoạt động công tác kiểm tra, thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, kế hoạch được giao, công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân tại cơ quan trình Thủ trưởng cơ quan để báo cáo với cơ quan quản lý cấp trên và Thanh tra Bộ Y tế, Thanh tra Sở Y tế theo quy định.
Điều 9. Quyền hạn Thanh tra của Thủ trưởng
1. Thanh tra của Thủ trưởng đề xuất kế hoạch kiểm tra, thanh tra các hoạt động của cơ quan.
2. Tham gia các cuộc họp bàn về việc lập kế hoạch công tác kiểm tra, sơ kết, tổng kết, xét khen thưởng, kỷ luật của cơ quan; hướng dẫn nghiệp vụ chuyên môn, triển khai các chủ trương, chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, kế hoạch của cấp trên trong cơ quan.
3. Tham gia các đoàn kiểm tra của cơ quan, đơn vị; tham gia đoàn kiểm tra của cơ quan quản lý cấp trên hoặc Đoàn thanh tra của Thanh tra Bộ Y tế, Thanh tra Sở Y tế, Thanh tra Tổng Cục DS – KHHGĐ và Thanh tra Cục ATVSTP khi được yêu cầu.
4. Đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện các kết luận, kiến nghị, quyết định của tổ chức thanh tra, Đoàn thanh tra hoặc Thanh tra viên đối với cơ quan, đơn vị mình; xét giải quyết khiếu nại, tố cáo do Thủ trưởng cơ quan giao.
5. Kiến nghị với Thủ trưởng cơ quan hình thức xử lý kỷ luật các tổ chức, cá nhân thuộc cơ quan có hành vi vi phạm pháp luật và những biện pháp tăng cường công tác quản lý của Thủ trưởng cơ quan.
Chương IV
MỐI QUAN HỆ THANH TRA CỦA THỦ TRƯỞNG 
Điều 10. Với Thủ trưởng cơ quan
Thanh tra của Thủ trưởng chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Thủ trưởng cơ quan về công tác kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân trong cơ quan.
Điều 11. Với các Trưởng bộ phận của cơ quan
1. Cùng phối hợp nắm thông tin để phát hiện các mặt tích cực, tiêu cực trong các mặt hoạt động của cơ quan, cùng đề xuất với Thủ trưởng cơ quan các biện pháp quản lý nhằm phỏt huy mặt tớch cực, phòng tránh các hiện tượng tiêu cực và các hành vi vi phạm pháp luật trong cơ quan.
2. Đôn đốc, giám sát, kiểm tra việc thực hiện công tác kiểm tra và việc chấp hành các kiến nghị, quyết định của Thủ trưởng cơ quan và các cơ quan quản lý Nhà nước cấp trên đối với các tổ chức, cá nhân có sai phạm trong đơn vị.
3. Kiểm tra, thanh tra các vụ việc (theo quyết định của Thủ trưởng cơ quan).
Điều 12. Với Ban thanh tra nhân dân
1. Phối hợp chặt chẽ trong việc giám sát thực hiện chính sách, pháp luật của Nhà nước.
2. Phối hợp thực hiện thanh tra vụ việc theo quyết định của Thủ trưởng; giám sát các tổ chức, cá nhân trong cơ quan thực hiện các kiến nghị, quyết định về thanh tra.
3. Tham mưu cho Thủ trưởng cơ quan đề nghị Thanh tra Bộ Y tế, Thanh tra Sở Y tế hướng dẫn nghiệp vụ cho Ban Thanh tra Nhân dân của cơ quan mình.
Điều 13. Với các Đoàn thể trong cơ quan (Công đoàn, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Ban nữ công)
1. Phối hợp tham gia giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật và các hoạt động quản lý của cơ quan.
2. Phối hợp thực hiện kế hoạch thường xuyên giáo dục pháp luật, tăng cường công tác quản lý của đoàn thể và cơ quan để mọi cán bộ, công chức, nhân viên thực hiện tốt chức trách và nhiệm vụ được giao.
Điều 14. Với Thanh tra Bộ Y tế và Thanh tra Sở Y tế
1. Chịu sự chỉ đạo về nghiệp vụ công tác thanh tra của Thanh tra Bộ Y tế; Thanh tra Sở Y tế.
2. Phối hợp tổ chức thực hiện các hoạt động kiểm tra, thanh tra của Thanh tra Bộ Y tế, Thanh tra Sở Y tế và cơ quan thanh tra chuyên ngành: Thanh tra Tổng Cục DS – KHHGĐ; Thanh tra Cục ATVSTP.
3. Tham dự các hội nghị giao ban, tổng kết, tập huấn nghiệp vụ khi được Thanh tra Bộ Y tế, Sở Y tế triệu tập.
4. Thanh tra Bộ Y tế và Thanh tra Sở Y tế làm đầu mối tổ chức hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện Thông tư (tập huấn, đào tạo nghiệp vụ thanh tra, kiểm tra); Định kỳ chế độ báo cáo công tác 6 tháng đầu năm, cả năm; Hàng năm định kỳ tổ chức đánh giá tổng kết công tác việc thực hiện Thông tư này. 
Chương V
ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH 
Điều 15.Thông tư này có hiệu lực sau 45 ngày, kể từ ngày ký;
Bãi bỏ Quyết định số 2442/2001/QĐ-BYT ngày 25/6/2001 của Bộ trưởng Bộ Y tế về việc ban hành “Quy chế công tác kiểm tra, thanhtra, giải quyết khiếu nại, tố cáo của Thủ trưởng cơ quan y tế”.
Điều 16. Các ông, bà: Chánh Văn phòng Bộ, Vụ trưởng, Cục trưởng, Tổng Cục trưởng, Chánh Thanh tra Bộ, Thủ trưởng các cơ quan, đơn vị trực thuộc Bộ Y tế, Giám đốc Sở Y tế có trách nhiệm tổ chức thực hiện Thông tư này.
Trong quá trình thực hiện, nếu có khó khăn, vướng mắc các cơ quan, đơn vị phản ánh kịp thời về Bộ Y tế – 138A Giảng Võ, Ba Đình, Hà Nội ( Thanh tra Bộ) để nghiên cứu, giải quyết./. 

BỘ TRƯỞNG 
(đã ký)  
Nguyễn Quốc Triệu

Thứ Năm, 17 tháng 9, 2009

CẦN CÓ ĐỊNH CHẾ CHO PHÉP XÂY DỰNG VÀ ÁP DỤNG ÁN LỆ NHƯ LÀ NGUỒN BỔ SUNG LUẬT PHÁP TRONG XÉT XỬ

LS. NGUYỄN ĐĂNG NGHIÊM

Án lệ (tiếng pháp là Jurisprudence) được định nghĩa là: “Đường lối giải thích và áp dụng luật pháp của các tòa án về một điểm pháp lý, đường lối này đã được coi như một tiền lệ, khiến các thẩm phán sau đó có thể noi theo trong các trường hợp tương tự”.

Theo luật gia Trần Thúc Linh, cũng là cựu thẩm phán Tòa Thượng thẩm Sài Gòn cũ trước ngày giải phóng, trong hệ thống tòa xét xử ở các nước tư bản cũng như của chế độ Sài Gòn trước đây thì: “Sở dĩ có được án lệ là nhờ ở Tòa Thượng thẩm (Cour d’appel) và Tòa Phá án (Cour de cassation) là những cơ quan kiểm soát lại các bản án tòa dưới, tòa phá án bảo đảm một sự thống nhất trong việc giải thích luật pháp vì lâu dần các tòa án sẽ hướng theo các án lệ của Tòa Phá án.”

Trong thế kỷ 20 và hiện nay, trong công tác xét xử và kiểm soát xét xử, các tòa án thuộc hệ thống tư pháp các nước châu Âu đã vận dụng xây dựng án lệ để phục vụ cho việc xét xử được linh hoạt, vừa đảm bảo việc áp dụng luật pháp gắn với thực tiễn cuộc sống mà chỉ có đội ngũ thẩm phán xét xử mới nắm bắt kịp thời các sơ hở, thiếu sót của các văn bản luật pháp, trong khi các nhà lập pháp không có điều kiện để xâm  nhập tìm hiểu thực tiễn, hoặc muốn sửa đổi bổ sung những khiếm khuyết của các văn bản luật cũng đòi hỏi một quá trình tu chỉnh, sửa đổi khá lâu lắc, trong khi thân phận những đối tượng bị điều chỉnh bởi luật pháp lại mang tính tức thời trong các vụ án đang đăng đàn xét xử.

Việc xây dựng án lệ theo quan điểm xét xử của các tòa án có thẩm quyền xem xét bản án của tòa dưới đã góp phần bổ sung tốt sự thiếu sót của các qui định luật pháp trong thực tiễn. Ở Anh Quốc, việc vận dụng án lệ kể cả tục lệ pháp được thực hiện khá phổ biến. Chính vì vậy, mà các nhà luật học thường cho rằng hệ thống luật pháp ở Anh Quốc là theo luật mềm, không chỉ căn cứ cứng nhắc vào các văn bản pháp luật do Quốc hội ban hành, mà có sự vận dụng linh hoạt đúng luật vừa phù hợp với thực tiễn, bằng cả nguồn tập quán, tục lệ phù hợp lẽ phải và công bằng xã hội. Hệ thống luật pháp của chế độ Sài Gòn cũ trước năm 1975 vốn chịu ảnh hưởng của luật pháp châu Âu, nhất là luật pháp của Pháp quốc, đặc biệt là về dân luật, cũng rất quan tâm việc xây dựng án lệ.

Ngay bộ Dân luật do chế độ Sài Gòn ban hành ngày 20/12/1972, đã có  qui định liên quan đến yêu cầu áp dụng án lệ trong xét xử, từ Điều 8 và Điều 9 của bộ luật này. Điều 8 ghi: “Thẩm phán nào không chịu xét xử vì lẽ luật không định hay luật tối nghĩa, thiếu sót, sẽ có thể bị truy tố về tội bất khẳng thụ lý”. Điều 9 còn bổ sung thêm: “Gặp trường hợp không có điều luật nào có thể dẫn dụng, thẩm phán sẽ quyết định theo tục lệ; nếu không có tục lệ, sẽ theo công bằng và lẽ phải mà xét xử và phải chú trọng đến ý định của các đương sự”.

Trong thực tế xét xử hiện nay ở nước ta, đã có một số tòa án đã từ chối xét xử một số vụ kiện, đặc biệt đối với các vụ kiện dân sự, hành chính, với lý do viện dẫn là thiếu qui định luật pháp điều chỉnh vụ việc liên quan. Việc từ chối thụ lý vụ việc này có thể dẫn đến hậu quả thiệt hại cho một bên tranh chấp, lại làm lợi cho một bên khác trong vụ kiện. Nên chăng vì thiếu quy định luật, mà từ chối thụ lý vụ việc khiếu kiện do người dân đưa đến tòa, làm người dân lúng túng không tìm được chỗ dựa pháp luật để giải quyết các vấn đề bức xúc của mình, mặc dù về mặt tín lực nội tâm của đương sự xác tín là quyền lợi của mình bị xâm phạm (có thể là quyền lợi vật chất hay quyền lợi tinh thần), tòa án cứ mạnh dạn vận dụng sáng tạo luật pháp để thụ lý, xét xử, miễn là không trái với lẽ phải, sự khách quan công bằng với tâm nghiêm chính của thẩm phán.

Chính vì vậy, tại các nước, đều có qui định mở rộng vận dụng sáng tạo của các tòa án, của các thẩm phán (nhất là các thẩm phán lão làng) trong việc áp dụng luật pháp, để đưa ra quan điểm xét xử theo luật kết hợp với thực tiễn cuộc sống, để đưa ra các bản án mẫu, trở thành án lệ có thể theo đó áp dụng cho các vụ án tương tự về sau. Đây cũng là cách thích hợp tạo điều kiện cho thẩm phán, những người có kinh nghiệm thực tiễn xét xử, tham gia làm luật, góp phần bổ sung luật pháp ngày một hoàn chỉnh hơn.

Hiện nay, hầu hết các nước có nền luật pháp tiên tiến, đều có vận dụng án lệ trong xét xử ở hệ thống tòa án, cũng xuất phát từ yêu cầu thực tiễn xét xử, với nguyên tắc “Tòa án không được quyền từ chối thụ lý bất cứ yêu cầu khởi kiện nào của công dân” và đồng thời cũng có nguyên nhân sâu xa từ sự hội nhập của hai hệ thống luật pháp Anglo Saxon và Continental, kể cả hệ thống pháp luật XHCN về sau.

Chẳng hạn như ở CHLB Đức, phương pháp xây dựng án lệ đã tạo điều kiện cho Tòa án Đức vai trò sáng tạo khá lớn, được giải thích luật “căn cứ vào câu chữ của qui phạm, ngữ cảnh của qui phạm, mục đích của qui phạm, kể cả căn cứ vào quá trình soạn thảo qui phạm đó”. Tòa án ở Đức còn có quyền lựa chọn cách giải thích phù hợp nhất với hiến pháp. Cách làm của Tòa án Đức có ảnh hưởng áp dụng đến cả các qui phạm pháp luật của Liên minh châu Âu. Và ở Đức, hiệu lực án lệ được hình thành từ việc giải thích một qui phạm pháp luật cũng có giá trị, hiệu lực gần như chính qui phạm pháp luật. Rõ ràng án lệ có giá trị không những về thực tiễn, mà còn có giá trị không thua gì một qui phạm pháp luật. Thẩm quyền xây dựng án lệ ở Đức được giao cho các tòa án bảo hiến liên bang và các Tòa án cấp liên bang khác, có giá trị bắt buộc các tòa án cấp dưới có nghĩa vụ phải thực hiện các án lệ này, nếu không các bản án của các tòa cấp dưới có thể bị giám đốc thẩm.

Ở Ý, thẩm quyền xây dựng án lệ được giao cho tòa án bảo hiến để đảm bảo cơ chế tập trung quyền lực ở Trung ương. Ở Tây Ban Nha, chịu ảnh hưởng của luật La Mã, vẫn coi án lệ như một nguồn luật, có giá trị bổ sung trật tự pháp lý thông qua luận thuyết được tòa án tối cao áp dụng trong quá trình giải thích và áp dụng luật, tập quán, kể cả các nguyên tắc chung của luật pháp. Ở Anh Quốc, vai trò sáng tạo của án lệ rất quan trọng, được thể hiện theo quy tắc của tiền lệ pháp đã xuất hiện từ đầu thế kỷ  thứ XIX được khái niệm là “Qui tắc đã được lập ra trong một phán quyết ban hành trước đó chỉ có hiệu lực ràng buộc đối với các thẩm phán khi xét xử các vụ kiện tương tự” v.v...

Riêng ở Việt Nam, thông qua thực tiễn hoạt động xét xử của hệ thống tòa án, có thể nói các văn bản phát biểu quan điểm xét xử của tòa án nhân dân tối cao khi trả lời các đề nghị của tòa án cấp dưới về việc hướng dẫn vận dụng qui phạm pháp luật trong xét xử ở một số vụ án cụ thể có thể coi như là án lệ, để các tòa án cấp dưới rút kinh nghiệm trong xét xử, nhưng chưa có một quy định bắt buộc rõ ràng để các tòa án cấp dưới phải tuân thủ trong việc xét xử các vụ án tương tự.

Ở Việt Nam, có ưu điểm là hàng năm Tòa án Nhân dân Tối cao đều có tổng kết rút kinh nghiệm thực tiễn, hướng dẫn công tác xét xử cho các cấp Tòa án trong việc vận dụng các qui phạm pháp luật trong việc xét xử, nhưng việc chờ đợi các hướng dẫn chỉ đạo này không đảm bảo tính kịp thời và nhiều khi tính ràng buộc việc tuân thủ cũng không được qui định chặt chẽ. Có lẽ chính vì nguyên nhân về yếu tố thời gian chậm trễ và tính bắt buộc tuân thủ không được thể hiện chặt chẽ, cụ thể mà nhiều vụ án ở VN bị giám đốc thẩm, thậm chí giám đốc thẩm hơi tràn lan.

Thỉnh thoảng ở nước ta, cũng đã có ban hành những thông tư liên tịch giữa các ngành tòa án tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ công an, Bộ Tư pháp (như một văn bản lập quy dưới luật) để giải thích, hướng dẫn, chỉ đạo cho các cơ quan tố tụng của ngành tư pháp (trong đó có tòa án) trong việc giải quyết vụ án có liên quan việc vận dụng cụ thể các qui phạm pháp luật, các văn bản pháp luật. Việc làm đó của các cơ quan ngành tư pháp cũng có mặt tích cực nhất định, nhưng rõ ràng chưa thể hiện được tính thực tiễn, sinh động, cụ thể, kịp thời so với việc xây dựng và áp dụng án lệ theo kinh nghiệm của các nước.

Nên chăng, đã đến lúc trên tiến trình cải cách và đổi mới hệ thống pháp luật và hệ thống tư pháp, xét xử của VN hiện nay, trong khi chờ đợi sự chuyển đổi cụ thể hệ thống tòa án của nước ta, cần sớm đưa vào thí điểm việc xây dựng và áp dụng án lệ, để tạo điều kiện cho tòa án và các thẩm phán tích cực tham gia sáng tạo, bổ sung luật pháp trong quá trình kinh qua thực tiễn xét xử của họ, vốn là một yêu cầu thực tiễn của tình trạng thiếu luật hoặc có nhiều khe hở, sơ sót của các văn bản pháp luật, hoặc tính lạc hậu nhanh của một số văn bản luật pháp không theo kịp thực tiễn phát triển quá nhanh, có tính bùng nổ của nền kinh tế xã hội của đất nước. Ngoài vai trò của TANDTC nên chọn những tòa án nhân dân cấp tỉnh vốn có đội ngũ thẩm phán tài giỏi, lão làng được giao thẩm quyền thí điểm đưa ra các bản án điển hình (trong quá trình xét xử thực tiễn các vụ án) được coi như án lệ, mẫu mực bắt buộc các tòa án cấp dưới phải tuân thủ vận dụng trong các vụ án tương tự mà các tòa này thụ lý.

Và cũng nên cho in ấn, xuất bản một loại “tập san pháp lý” để tập hợp những bản án điển hình vận dụng sáng tạo luật pháp, những án lệ này để làm tài liệu pháp lý thực tiễn để các tòa án, các thẩm phán nghiên cứu vận dụng, kể cả đội ngũ luật sư cũng cần qua đó học tập, nâng cao kiến thức luật pháp của mình trong dịch vụ bào chữa cho bị can, bị cáo hoặc bảo vệ thân chủ của mình trước tòa vậy. Yêu cầu xây dựng án lệ cũng đi đôi với việc đổi mới việc xây dựng, đào tạo đội ngũ thẩm phán chuyên nghiệp, lâu năm, thâm niên yêu nghề và được sống với “nghề thẩm phán” suốt đời (chỉ ngoại trừ khi sức khỏe, cả về thể chất hay tinh thần không cho phép đảm nhiệm), chứ không về hưu theo tuổi giống qui định công chức như hiện nay. Đó cũng là một đòi hỏi rất cần thiết về yêu cầu vận dụng sáng tạo, thực tiễn trong công tác xét xử của thẩm phán và đảm bảo các án lệ được chất lượng. Tất cả đòi hỏi phải tiến tới một định chế cụ thể, có giá trị pháp luật, mới thực hiện được, dù ở giai đoạn thí điểm cũng vậy.
Tài tham khảo:
1. Các hệ thống Pháp luật cơ bản trên thế giới (của tác giả Michel Fromont, Giáo sư đại học Panthéon Sorbon – Paris I). Dịch giả: Trương Quang Dũng, hiệu đính: Nguyễn Văn Bình (do nhà Pháp luật Việt Pháp và NXB Tư pháp HN ấn hành 2006)
2. Danh từ pháp luật lược giải, tác giả: Trần Thúc Linh, thẩm phán Tòa Thượng thẩm Sài Gòn cũ, nhà sách Khai Trí ấn hành năm 1965.
3. Bộ Dân Luật (do tối cao pháp viện của chính quyền Sài Gòn xuất bản năm 1973)
4. Tự điển pháp luật Anh-Việt, tác giả: nhóm luật sư, Thẩm phán, chuyên gia kinh tế: Nguyễn Thế Kỳ, Phạm Quốc Toản, Lương Hữu Định, Quốc Minh Vương, Mary C.Downey, Cham W.Louie (NXB Khoa học xã hội – 1994).

SOURCE: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ ĐOÀN LUẬT SƯ TPHCM

Trích dẫn từ:

‘http://www.hcmcbar.org/index.php?option=com_contentlist&task=detail&cat=4&type=2&id=224

Bài đăng phổ biến