Hiển thị các bài đăng có nhãn CHÍNH SÁCH VÀ PHÁP LUẬT VỀ SỞ HỮU. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn CHÍNH SÁCH VÀ PHÁP LUẬT VỀ SỞ HỮU. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Bảy, 8 tháng 8, 2009

BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU DƯỚI GÓC ĐỘ LUẬT SO SÁNH

TS. NGUYỄN HỮU HUYÊN – Bộ Tư pháp

Quyền sở hữu là vấn đề xương sống của luật dân sự, là tiền đề của các quan hệ pháp luật dân sự về tài sản. Chính vì vậy, Bộ luật dân sự của các quốc gia trên thế giới đều coi đây là chế định cơ bản cần tập trung quy định, làm cơ sở cho việc quy định các chế định khác như hợp đồng dân sự, nghĩa vụ dân sự, thừa kế… Bộ luật dân sự của Việt Nam năm 2005 (sau đây gọi tắt là BLDS) đã dành Phần thứ hai với tổng số 117 điều (từ Điều 163 đến Điều 279) để quy định về ‘‘Tài sản và quyền sở hữu’’.

I. Khái niệm quyền sở hữu và bảo vệ quyền sở hữu

Quyền sở hữu là vấn đề xương sống của luật dân sự, là tiền đề của các quan hệ pháp luật dân sự về tài sản. Chính vì vậy, Bộ luật dân sự của các quốc gia trên thế giới đều coi đây là chế định cơ bản cần tập trung quy định, làm cơ sở cho việc quy định các chế định khác như hợp đồng dân sự, nghĩa vụ dân sự, thừa kế… Bộ luật dân sự của Việt Nam năm 2005 (sau đây gọi tắt là BLDS) đã dành Phần thứ hai với tổng số 117 điều (từ Điều 163 đến Điều 279) để quy định về ‘‘Tài sản và quyền sở hữu’’.

Đã có không ít công trình nghiên cứu ở Việt Nam về vấn đề bảo vệ quyền sở hữu. Trong chuyên đề này, chúng tôi tiếp cận vấn đề này theo phương pháp đánh giá tính khả thi của các quy định, chế định về bảo vệ quyền sở hữu trong thời gian qua, đồng thời đặt nó trong mối tương quan so sánh với pháp luật của các nước tiêu biểu cho các hệ thống luật khác nhau trên thế giới, để từ đó rút ra một số đề xuất, kiến nghị nhằm phục vụ cho việc sửa đổi, bổ sung BLDS 2005.

Dưới đây chúng ta cùng xem xét một số khái niệm cơ bản:

1. Quyền sở hữu:

Điều 164 BLDS quy định:

“Quyền sở hữu

Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định của pháp luật.

Chủ sở hữu là cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác có đủ ba quyền là quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt tài sản”.

Như vậy, BLDS đã đưa ra một định nghĩa về quyền sở hữu bằng cách liệt kê những nội dung của quyền sở hữu và chủ thể của quyền này. Đây có thể xem là một phương pháp lập pháp rất riêng của Việt Nam, vì qua nghiên cứu luật dân sự của các nước trên thế giới, chúng tôi thấy họ không đưa ra khái niệm về quyền sở hữu trong Bộ luật dân sự, mà khái niệm này chỉ tồn tại trong khoa học luật.

1.1. Quyền chiếm hữu:

Theo cách hiểu thông thường nhất thì chiếm hữu là sự nắm giữ, chi phối vật về mặt thực tế. Điều 182 BLDS quy định:

“Quyền chiếm hữu là quyền nắm giữ, quản lý tài sản”.

Như vậy, BLDS đã coi chiếm hữu là một quyền năng, là một trong ba bộ phận cấu thành quyền sở hữu. Liên quan đến vấn đề này, ở Việt Nam hiện nay đang còn nhiều tranh luận. Tựu trung lại có hai quan điểm phổ biến sau:

Quan điểm thứ nhất cho rằng quyền sở hữu chỉ bao gồm hai nội dung: quyền sử dụng và quyền định đoạt. Còn chiếm hữu thực ra là một tình trạng chứ không phải là một quyền năng. Chiếm hữu là hình thức biểu hiện ra bên ngoài của quyền sở hữu. Đây cũng là quan điểm trong luật dân sự của đa số các nước trên thế giới như Đức, Pháp, Nhật Bản...

Quan điểm thứ hai cho rằng cách quy định như Điều 173 BLDS hiện nay là hoàn toàn hợp lý. Những người theo quan điểm này lý giải chiếm hữu là sự nắm giữ vật, tuy nhiên do sự phát triển của khoa học kỹ thuật mà hiện nay có những vật không thể nắm giữ được (như năng lượng, sóng truyền hình…). Vấn đề chiếm hữu đã có từ thời nguyên thuỷ, từ khi chưa có pháp luật thì loài người đã chiếm hữu những vật sẵn có trong thiên nhiên. Khi có pháp luật rồi thì mới phát sinh khái niệm quyền chiếm hữu. Muốn chứng minh mình là chủ sở hữu thì tuỳ từng trường hợp: đối với bất động sản phải dựa vào việc đăng ký tài sản, còn đối với động sản thì bản thân sự chiếm hữu cũng là một cách thức để chứng minh. Không nên để ‘‘tình trạng chiếm hữu’’ như là khi xã hội chưa có luật pháp.

Chúng tôi cho rằng, tranh luận chiếm hữu là một tình trạng hay là một quyền sẽ có nguy cơ sa vào tranh luận về mặt học thuật. Vấn đề có ý nghĩa đặt ra là: cách quy định chiếm hữu là một bộ phận của quyền sở hữu như BLDS có ích lợi gì không? Dù chiếm hữu là một tình trạng hay một quyền thì vẫn cần phải có những quy định để bảo vệ sự chiếm hữu đó. Có nghĩa là để đảm bảo sự ổn định của các quan hệ pháp luật dân sự thì nên công nhận tình trạng chiếm hữu thực tế. Nếu không ta sẽ phải chứng minh tình trạng sở hữu tuyệt đối - một điều rất khó thực hiện và nhiều khi làm đảo lộn, thậm chí làm đảo lộn các quan hệ pháp luật dân sự. Qua tìm hiểu pháp luật của các nước trên thế giới (Pháp, Đức, Nhật Bản, Trung Quốc…) chúng tôi thấy các nước đều quy định theo hướng đó và do vậy, các quy định về chiếm hữu là một chế định riêng so tách khỏi chế định sở hữu. Chúng tôi sẽ trở lại vấn đề này trong phần kiến nghị sau.

1.2. Quyền sử dụng:

Điều 192 BLDS quy định:

“Quyền sử dụng là quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản”.

Nói một cách dễ hiểu thì quyền sử dụng là quyền khai thác những lợi ích mang lại từ tài sản.

1.3. Quyền định đoạt:

Điều 195 BLDS quy định: “Quyền định đoạt là quyền chuyển giao quyền sở hữu tài sản hoặc từ bỏ quyền sở hữu đó”.

Quyền định đoạt có thể thực hiện bằng hai cách: quyết định số phận về mặt thực tế hoặc quyết định số phận về mặt pháp lý của tài sản.

2. Bảo vệ quyền sở hữu:

Quyền sở hữu là một trong các quyền cơ bản, quan trọng nhất của công dân, nên pháp luật của bất kỳ quốc gia nào cũng đều có những quy định để bảo vệ quyền sở hữu. Điều 58 Hiến pháp năm 1992 của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã quy định: “Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công dân”.

Theo lý luận truyền thống của luật dân sự thì bảo vệ quyền sở hữu được hiểu là những biện pháp trong khuôn khổ pháp luật tác động đến hành vi xử sự của con người, nhằm phòng ngừa, ngăn chặn những hành vi xâm hại đến quyền sở hữu, khắc phục những thiệt hại vật chất cho chủ sở hữu. Còn phương thức bảo vệ quyền sở hữu là cách thức mà Nhà nước và chủ sở hữu sử dụng để bảo vệ chủ sở hữu khỏi những hành vi xâm hại đến quyền sở hữu, khắc phục những thiệt hại vật chất cho chủ sở hữu. Quyền sở hữu được bảo vệ bằng các biện pháp hình sự,  hành chính hay dân sự. Trong phạm vi chuyên đề này, chúng tôi tập trung đề cập đến bảo vệ quyền sở hữu bằng các biện pháp của dân sự.

BLDS năm 1995 đã dành hẳn Chương XV (Phần thứ hai), bao gồm 7 điều từ Điều 255 đến Điều 261 để quy định về bảo vệ quyền sở hữu. Ngoài ra, quy định về bảo vệ quyền sở hữu còn nằm rải rác ở một số điều khác, theo đó, chủ sở hữu có quyền bảo vệ quyền sở hữu thông qua các phương thức sau:

- Tự mình thực hiện hành vi bảo vệ quyền sở hữu;

- Yêu cầu người có hành vi cản trở trái pháp luật đối với việc thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp phải chấm dứt hành vi vi phạm, bồi thường thiệt hại;

- Yêu cầu Toà án, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khác buộc người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu, quyền chiếm hữu phải trả lại tài sản, chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật việc thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu và yêu cầu bồi thường thiệt hại.

II. Các phương thức bảo vệ quyền sở hữu trong Bộ luật dân sự

1. Chủ sở hữu tự mình thực hiện hành vi bảo vệ quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp

Như chúng ta đã biết, đặc trưng lớn nhất của quyền dân sự là nguyên tắc tự định đoạt. Cũng chính vì lý do này mà luật dân sự được xếp vào luật tư ở những nước có sự phân biệt hệ thống pháp luật thành luật công và luật tư. Theo BLDS thì chủ sở hữu có quyền tự thực hiện các biện pháp để bảo vệ quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp của chính mình. Ví dụ: chủ sở hữu nhà ở xây tường bao xung quanh nhà của mình để bảo vệ nhà của mình khỏi bị xâm phạm từ bên ngoài, chủ vườn cây ăn quả rào vườn và thuê người bảo vệ, trông nom vườn cây của mình…

Quyền của chủ sở hữu tự mình thực hiện hành vi bảo vệ quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp đối với tài sản của mình không phải là tuyệt đối, mà có giới hạn của nó. Giới hạn đó chính là “không được xâm phạm đến lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác”. Các hành vi như: giăng dây điện quanh ao cá, vườn cây để chống trộm, làm hố chông quanh gốc cây ăn quả … dẫn đến làm người khác bị chết (kể cả kẻ trộm), đều bị coi là hành vi trái pháp luật,  phải bồi thường thiệt hại và có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu đủ các yếu tố cấu thành tội phạm.

Các hành vi tự bảo vệ quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp trong thực tế rất đa dạng. Hiệu quả của các biện pháp này đến đâu phụ thuộc vào chính khả năng của bản thân chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp. Vấn đề đặt ra là khi chủ sở hữu không có năng lực hành vi dân sự để có thể tự mình bảo vệ quyền sở hữu, quyền chiếm  hữu hợp pháp đối với tài sản, thì pháp luật dự liệu như thế nào? Cũng giống như Bộ luật dân sự các nước, BLDS đã có một cơ chế để xử lý vấn đề này, đó chính là chế định giám hộ. Theo Điều 65 BLDS, người giám hộ có nghĩa vụ:

“1. Chăm sóc, giáo dục người được giám hộ;

2. Đại diện cho người được giám hộ trong các giao dịch dân sự, trừ trường hợp pháp luật quy định người chưa đủ mười lăm tuổi có thể tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự;

3. Quản lý tài sản của người được giám hộ;

4. Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được giám hộ”.

Tất nhiên, bù lại, người giám hộ sẽ được thanh toán các chi phí cần thiết cho việc quản lý, bảo vệ tài sản của người được giám. Nếu người giám hộ có hành vi vi phạm pháp luật (như lợi dụng việc giám hộ để chiếm đoạt tài sản của người được giám hộ), thì phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình. Trong trường hợp này, việc giám hộ bị chấm dứt để thay thế bằng một quan hệ giám hộ mới, với mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người được giám hộ.

Một biện pháp tự bảo vệ quyền sở hữu rất có hiệu quả của chủ sở hữu là biện pháp đăng ký quyền sở hữu. Cơ sở pháp lý của quyền này là Điều 167 của BLDS. Tuy nhiên, để xác định những loại tài sản nào phải đăng ký thì không chỉ dựa vào Bộ luật dân sự mà còn dựa vào các văn bản pháp luật chuyên ngành (Bộ luật Hàng hải, Luật Đất đai, Luật Hàng không dân dụng...). Thông thường, tài sản đó là nhà ở, quyền sử dụng đất, ô tô, xe máy, tàu thuỷ, thuyền, máy bay... Việc đăng ký tài sản rất có ý nghĩa, vì trong các hợp đồng dân sự đòi hỏi phải đăng ký, nó là thời điểm hoàn tất việc chuyển giao quyền sở hữu, đồng thời là cũng là thời điểm để chủ sở hữu có quyền “đối kháng” với người thứ ba khi tài sản có tranh chấp. Tuy nhiên, cũng phải nói rằng việc đăng ký tài sản ở Việt Nam hiện nay được thực hiện chưa nghiêm túc. Nguyên nhân là do thủ tục hành chính còn rườm rà, lệ phí cao so với mức sống trung bình của người dân, song nguyên nhân chủ yếu là do ý thức chấp hành pháp luật của người dân còn chưa tốt[1]. Đây là một thực tế gây rất nhiều khó khăn trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên khi có tranh chấp xảy ra.

Trên thực tế, biện pháp tự bảo vệ quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp của mình là biện pháp diễn ra phổ biến nhất và cũng có hiệu quả nhất. Người Việt Nam có truyền thống “duy tình”, trường hợp kiện nhau ra Toà cũng không phải là “thói quen” như là một nét văn hoá hết sức bình thường ở các nước phương tây. Tuy nhiên, với sự phát triển của cơ chế thị trường, trong những năm gần đây, các hành vi vi phạm quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp bắt đầu có xu hướng tăng. Trong những trường hợp này, biện pháp tự bảo vệ xem ra không còn phát huy tác dụng, và chủ sở hữu phải sử dụng đến các biện pháp khác để có thể bảo vệ được quyền lợi của mình.

2.2. Chủ sở hữu yêu cầu người có hành vi cản trở trái pháp luật đối với việc thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp phải chấm dứt hành vi vi phạm, bồi thường thiệt hại:

Ví dụ 1: A là chủ sở hữu của một căn nhà. B là hàng xóm của A, trong khi đào móng làm nhà, đã đào sát tường nhà A, làm sụt và nứt tường của nhà A.

Ví dụ 2: C là chủ sở hữu một căn nhà. D là hàng xóm của C đã để ống thoát nước mưa của nhà mình chảy dội sang nhà C, làm ngấm tường của nhà C. Trong một lần mưa to, lượng nước mưa chảy xuống nhiều đã làm hư hỏng bức tranh quý của nhà C treo trên tường.

Các ví dụ trên xảy ra rất phổ biến trong thực tế. Trong các trường hợp trên, A và C với tư cách là chủ sở hữu có quyền gì đối với B và C không? Theo các quy định của BLDS Việt Nam, thì A và C, với tư cách là chủ sở hữu có quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm, có quyền yêu cầu B và C – những người có hành vi cản trở việc thực hiện quyền sở hữu của mình – phải chấm dứt hành vi vi phạm. Tức là A có quyền yêu cầu B phải ngừng việc đào móng sát tường nhà của mình để tìm biện pháp khác; C có quyền yêu cầu D phải dẫn nước thoát theo đường ống khác để nước không chảy và ngấm sang tường nhà mình.

Tuy nhiên, tường nhà của A đã bị sụt và nứt, bức tranh quý của nhà C đã bị hư hỏng. A và C có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại theo cách thức và mức do hai bên thoả thuận.

Đây chính là cơ chế bảo vệ quyền sở hữu trên thực tế thường thông qua con đường các bên “tự dàn xếp”. Như chúng tôi đã nói ở trên, xuất phát từ nguyên tắc tự định đoạt, nên các bên hoàn toàn có quyền tự bàn bạc, thu xếp với nhau mà không cần thông qua các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Cơ chế này tỏ ra rất hữu hiệu trong rất nhiều trường hợp, vì nó có những lợi ích cơ bản sau đây:

Thứ nhất, các bên không phải mất thời gian, chi phí để khởi kiện tại Toà án hoặc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền;

Thứ hai, xét về mặt tình cảm, như chúng tôi đã nói ở trên, với truyền thống duy tình của người Việt Nam, thì phương thức tự dàn xếp này nếu thành công sẽ giữ gìn được mối quan hệ tình cảm tốt đẹp giữa các bên, duy trì được tình làng nghĩa xóm;

Thứ ba, nếu dàn xếp được, thì thông thường là các bên sẽ tự nguyện chấm dứt hành vi vi phạm, khắc phục và bồi thường thiệt hại, khỏi phải thông qua cơ chế thi hành bản án, quyết định dân sự-một vấn đề rất nhức nhối hiện nay khi các bản án, quyết định dân sự còn tồn đọng, không được thi hành trên thực tế còn đang chiếm một tỷ lệ rất lớn;

Thứ tư, có một thực tế ở Việt Nam hiện nay là nhiều vụ án hình sự (giết người, cố ý gây thương tích, cố ý huỷ hoại tài sản...) có nguồn gốc từ các tranh chấp dân sự. Nếu hoà giải thành thì có thể tránh được những trường hợp đau lòng, gây thiệt hại cho các bên đương sự và cho xã hội.

Rõ ràng, cơ chế trên vừa đem lại lợi ích cho các bên cũng như cho Nhà nước. Nhận thức được những lợi ích này, Nhà nước ta đã thiết lập cả một thể chế, thiết chế về hoà giải. Về thể chế, đó là Pháp lệnh về tổ chức và hoạt động hoà giải ở cơ sở và các văn bản hướng dẫn thi hành. Về thiết chế, đó là các Tổ hoà giải ở cơ sở (xóm, thôn, tổ dân phố) dưới sự quản lý và hướng dẫn về chuyên môn nghiệp vụ của Ban Tư pháp xã phường và Uỷ ban mặt trận Tổ quốc cùng cấp. Cũng cần phân biệt cơ chế hoà giải “tiền tố tụng” này với cơ chế hoà giải mang tính tố tụng do Toà án thực hiện sau khi thụ lý vụ kiện. Đây chính là một trong những điểm ưu việt của pháp luật Việt Nam, được các nhà tài trợ quốc tế đánh giá cao.

Cũng giống như biện phápchủ sở hữu tự mình thực hiện hành vi bảo vệ quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp, biện pháp tự dàn xếp này cũng có giới hạn của nó. Giới hạn đó cũng chính là “lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác”. Các hành vi như tự ý tổ chức “cưỡng chế đòi nợ”, thoả thuận dàn xếp với nhau để vi phạm quyền lợi của người thứ ba… đều bị coi là hành vi trái pháp luật và bị xử lý (cả về mặt hình sự hoặc hành chính nếu có đủ yếu tố cấu thành tội phạm hoặc vi phạm). Pháp lệnh hoà giải cũng quy định phạm vi hoà giải không bao gồm các vụ việc có dấu hiệu hình sự hoặc hành chính. Trong những trường hợp trên, việc chủ sở hữu thực hiện các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu của mình đã vượt quá giới hạn cần thiết và do vậy, bị coi là bất hợp pháp.

Cơ chế “tự dàn xếp” sẽ không phát huy tác dụng nếu bên vi phạm vẫn cố tình vi phạm mặc dù chủ sở hữu đã yêu cầu chấm dứt hành vi vi phạm, các bên đương sự không thoả thuận được với nhau về cách thức, mức bồi thường thiệt hại… Trong các trường hợp này, chủ sở hữu nếu muốn thực hiện việc bảo vệ quyền sở hữu của mình, thì chỉ còn cách yêu cầu Toà án hoặc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khác can thiệp.

2.3. Chủ sở hữu yêu cầu Toà án, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khác buộc người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu, quyền chiếm hữu phải trả lại tài sản, chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật việc thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu và yêu cầu bồi thường thiệt hại:

Xét về mức độ can thiệp của Nhà nước vào các quan hệ pháp luật, thì trong quan hệ pháp luật dân sự, sự can thiệp này ở mức độ thấp nhất, xuất phát từ chính bản thân quan hệ pháp luật dân sự là quan hệ mang tính bình đẳng thoả thuận giữa các bên, Nhà nước chỉ can thiệp khi thật cần thiết. Trong trường hợp quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm, mặc dù chủ sở hữu đã yêu cầu người có hành vi vi phạm phải chấm dứt hành vi vi phạm, bồi thường thiệt hại, nhưng không đạt được kết quả như mong muốn, thì chủ sở hữu có quyền yêu cầu Toà án, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khác - với tư cách là cơ quan công quyền - buộc người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu, quyền chiếm hữu phải trả lại tài sản, chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật việc thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu và yêu cầu bồi thường thiệt hại.

2.3.1. Chủ sở hữu yêu cầu Toà án, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khác buộc người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu, quyền chiếm hữu phải chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật việc thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu:

Xét về mặt khoa học luật, người ta thường gọi đây là phương thức kiện buộc chấm dứt hành vi. Trở lại ví dụ đã dẫn ở phần trên:

A là chủ sở hữu căn nhà mình đang ở. B là hàng xóm của A. Trong lúc đào móng làm nhà, do không tuân thủ quy trình, quy phạm kỹ thuật xây dựng, B đã đào móng sát tường của nhà A và đã làm tường nhà A sụt, nứt một đoạn. A đã yêu cầu B chấm dứt việc đào móng nhà để hai bên bàn bạc cách giải quyết, nhưng B vẫn tiếp tục đào móng làm nhà và hậu quả là tường nhà A tiếp tục bị sụt, nứt ngày càng nghiêm trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống bình thường trong gia đình.

Trong trường hợp này, theo quy định của BLDS, A có quyền làm đơn gửi đến Toà án hoặc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền (Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn hoặc Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thành phố thuộc tỉnh)[2] để đề nghị các cơ quan này can thiệp. Theo pháp luật hiện hành thì cần phân biệt 02 trường hợp:

- Nếu A gửi đơn yêu cầu Toà án nhân dân giải quyết, thì Toà án sẽ áp dụng thủ tục tố tụng dân sự (theo Bộ luật tố tụng dân sự) để giải quyết. Trong trường hợp này, theo yêu cầu của A và xét thấy có đủ các điều kiện cần thiết, Toà án sẽ áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời để buộc B ngừng việc xây dựng nhằm đảm bảo quyền lợi cho A. Sau khi có phán quyết của Toà án đã có hiệu lực pháp luật về việc buộc B chấm dứt hành vi đào móng sát tường nhà của A, nếu B không tự nguyện thi hành, thì cơ quan thi hành án dân sự sẽ buộc B phải thi hành bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án.

- Nếu A gửi đơn yêu cầu Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền giải quyết, thì Uỷ ban nhân dân sẽ áp dụng các quy định của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính để giải quyết. Theo Pháp lệnh này cũng có cơ chế áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời, biện pháp xử phạt vi phạm hành chính bằng cách buộc B chấm dứt hành vi đào móng sát tường của nhà A.

Trong thực tế, các tranh chấp có đối tượng là hành vi trái pháp luật như trên chủ yếu liên quan đến bất động sản. Một ví dụ nữa cũng rất điển hình là hành vi xây tường bao hoặc tường rào chắn lối đi của nhà hàng xóm. Qua thực tiễn giải quyết các tranh chấp dạng này tại Toà án hoặc Uỷ ban nhân dân các cấp, có thể rút ra một số nhận xét sau:

- Hành vi là đối tượng của việc kiện phải là hành vi trái pháp luật. Hành vi trái pháp luật ở đây được hiểu không chỉ là trái với các quy định của Bộ luật dân sự, mà còn trái với quy định của các văn bản pháp luật khác (như đất đai, xây dựng…). Đặc điểm chung của các hành vi này là cản trở chủ sở hữu hay người chiếm hữu hợp pháp thực hiện những quyền năng của mình trong khuôn khổ pháp luật.

-Trên thực tế, loại việc này thường liên quan đến bất động sản liền kề như nhà ở, công trình xây dựng, quyền sử dụng đất, lối đi chung...

2.3.2. Chủ sở hữu yêu cầu Toà án, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khác buộc người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu, quyền chiếm hữu phải trả lại tài sản:

Phương thức kiện này được gọi phổ biến là kiện vật quyền (kiện đòi lại tài sản). Loại việc này diễn ra khá phổ biến tại các Toà án trong những năm vừa qua, đặc biệt là kiện đòi nhà, đất.

Liên quan đến vấn đề này, Bộ luật dân sự đã quy định về nghĩa vụ hoàn trả tài sản do chiếm hữu, sử dụng tài sản, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật. Theo đó, trong mọi trường hợp, người chiếm hữu, sử dụng tài sản của người khác mà không có căn cứ pháp luật, thì có nghĩa vụ hoàn trả cho chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp tài sản đó. Điều kiện để thực hiện biện pháp kiện vật quyền là:

+Vật rời khỏi chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp không thông qua quan hệ hợp đồng. Ví dụ: bị mất, bị lấy cắp, bị cướp...

+Người thực tế đang chiếm hữu, sử dụng tài sản là người chiếm hữu, sử dụng không có căn cứ pháp luật.

+Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp phải chứng minh được vật đang bị chiếm hữu, sử dụng không có căn cứ pháp luật là vật thuộc quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp của mình. Trên thực tế, để chứng minh được thì tài sản thường phải là vật đặc định.

+Vật là đối tượng của việc kiện vẫn chưa bị xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu.

Liên quan đến vấn đề thời hiệu, Điều 247 BLDS đã quy định rất rõ ràng:

1. Người chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn mười năm đối với động sản, ba mươi năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.

2. Người chiếm hữu tài sản thuộc hình thức sở hữu nhà nước không có căn cứ pháp luật thì dù ngay tình, liên tục, công khai, dù thời gian chiếm hữu là bao lâu cũng không thể trở thành chủ sở hữu tài sản đó”.

Vấn đề đặt ra là quan hệ pháp luật dân sự diễn ra trong thực tế rất sinh động, không phải trong trường hợp nào tài sản cũng chỉ rời khỏi chủ sở hữu sang người khác và dừng ở đó, mà có rất nhiều trường hợp người chiếm hữu, sử dụng tài sản không có căn cứ pháp luật lại chuyển giao tài sản đó cho người thứ ba. Vậy trong trường hợp này, chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền đòi lại vật hay không? Liên quan đến vấn đề này, Điều 257 và 258 BLDS quy định:

- Điều 257: Chủ sở hữu có quyền đòi lại động sản không phải đăng ký quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình trong trường hợp người chiếm hữu ngay tình có được động sản này thông qua hợp đồng không có đền bù với người không có quyền định đoạt tài sản; trong trường hợp hợp đồng này là hợp đồng có đền bù thì chủ sở hữu có quyền đòi lại động sản nếu động sản đó bị lấy cắp, bị mất hoặc trường hợp khác bị chiếm hữu ngoài ý chí của chủ sở hữu.

- Điều 258: Chủ sở hữu được đòi lại động sản phải đăng ký quyền sở hữu và bất động sản, trừ trường hợp người thứ ba chiếm hữu ngay tình nhận được tài sản này thông qua bán đấu giá hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó người này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị huỷ, sửa.

Qua hai điều luật trên có thể thấy BLDS nghiêng về trường phái bảo vệ quyền sở hữu một cách tuyệt đối. Người thứ ba dù ngay tình hay không ngay tình khi chiếm hữu vật do người chiếm hữu, sử dụng tài sản mà không có căn cứ pháp luật đã chuyển giao cho mình, thì trong mọi trường hợp, khi bị chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp kiện vật quyền, đều phải có nghĩa vụ hoàn trả tài sản (tất nhiên trừ trường hợp xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu).

Về vấn đề này, pháp luật của các nước có quy định rất khác với luật dân sự của Việt Nam:

- Bộ Luật dân sự của Pháp quy định chủ sở hữu có quyền ưu tiên (“droit de référence”) trong việc kiện đòi lại tài sản thuộc sở hữu của mình đã rời khỏi sự chiếm  hữu của mình mà không thông qua quan hệ hợp đồng (không thông qua ý chí của chủ sở hữu). Tuy nhiên, quyền đòi lại vật cũng không phải là tuyệt đối: “Người nào đã đánh mất hoặc đã bị lấy trộm một vật thì có thể đòi lại vật từ người đang giữ trong thời hạn 03 năm kể từ ngày mất, nhưng người giữ vật có thể kiện lại người đã chuyển nhượng vật cho mình” (Điều 2279). Như vậy, trong trường hợp đánh mất hoặc đã bị lấy trộm một vật, thì chủ sở hữu chỉ có thời hạn là 03 năm để thực hiện quyền đòi lại vật.

- Luật dân sự của Nhật Bản cũng quy định theo cách tương tự, nhưng thời hạn là 02 năm.

- Luật dân sự của Đức cũng quy định tương tự[3].

Qua các cuộc trao đổi với các chuyên gia quốc tế, chúng tôi được biết, quy định trên của pháp luật các nước là xuất phát từ mục đích bảo vệ sự ổn định và thúc đẩy sự phát triển của các giao dịch dân sự, mặt khác, tạo cho chủ sở hữu phải có ý thức cảnh giác cao trong việc bảo quản tài sản của mình để không bị mất hoặc bị ăn cắp.

Còn trong Bộ luật dân sự Việt Nam, có thể thấy quyền đòi lại vật của chủ sở hữu là rất mạnh. Trên cơ sở các quy định này, chủ sở hữu có quyền yêu cầu người chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật đối với tài sản thuộc quyền sở hữu của mình phải trả lại tài sản đó, cho dù người thứ ba là người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình. Tất nhiên, phương thức hoàn trả sẽ có sự khác nhau: nếu là không ngay tình thì người chiếm hữu, người sử dụng, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật phải hoàn trả hoa lợi, lợi tức thu được từ thời điểm chiếm hữu, sử dụng tài sản, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật; còn nếu là ngay tình, thì chỉ phải hoàn trả hoa lợi, lợi tức thu được từ thời điểm người đó biết hoặc phải biết việc chiếm hữu, sử dụng tài sản, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật (Điều 606 BLDS). Trong trường hợp người chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình đã bỏ chi phí ra để làm tăng giá trị của tài sản, thì sẽ được thanh toán những chi phí đó khi họ phải hoàn trả tài sản cho chủ sở hữu.

Vậy phải chăng người thứ ba ngay tình không được pháp luật bảo vệ? Họ vẫn được pháp luật bảo vệ, nhưng theo một phương thức khác, đó là kiện đòi bồi thường thiệt hại (kiện trái quyền) mà chúng tôi sẽ trình bày tiếp ở phần sau.

Có thể thấy rằng việc pháp luật quy định người thứ ba ngay tình phải hoàn trả lại tài sản cho chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp sẽ là một bất lợi lớn đối với họ trong rất nhiều trường hợp. Nếu đó là tài sản mà người này đã đầu tư vào kinh doanh (ví dụ máy móc, trang thiết bị kỹ thuật…), thì khi phải trả lại, họ sẽ phải chịu những xáo trộn nhất định trong công việc của mình. Hoặc nếu đó là những tài sản quý hiếm (tranh quý, đồ mỹ nghệ, đồ trang sức…) mà họ đã bỏ tiền ra mua để sưu tập, làm kỷ niệm... nay dù không muốn trả lại thì họ vẫn buộc phải trả lại nếu chủ sở hữu có yêu cầu đòi lại tài sản. Tóm lại là dù không muốn trả lại tài sản vì lý do nào đó, nhưng khi bị chủ sở hữu kiện đòi tài sản, thì người thứ ba ngay tình vẫn phải trả lại tài sản. Rồi để thực hiện quyền và lợi ích hợp pháp của mình, họ lại phải đeo đuổi một vụ kiện khác: kiện người đã giao tài sản cho mình phải bồi thường thiệt hại, mà điều này cũng không phải là dễ dàng nhất là trong trường hợp tài sản đã qua tay nhiều người[4].

2.3.3. Chủ sở hữu yêu cầu Toà án, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khác buộc người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu, quyền chiếm hữu phải bồi thường thiệt hại:

          Phương thức này còn được gọi là kiện trái quyền.

Điều 260 BLDS quy định: “Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu, quyền chiếm hữu của mình bồi thường thiệt hại”.

          Ngoài chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp, người thứ ba ngay tình cũng có quyền khởi kiện yêu cầu người đã xác lập giao dịch với mình phải bồi thường thiệt hại (kiện trái quyền), nếu tài sản bị tịch thu, sung quỹ Nhà nước hoặc trả lại cho người có quyền nhận tài sản đó.

          Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một chế định khá rộng và phức tạp. Trong phạm vi chuyên đề này, chúng tôi chỉ xem xét vấn đề dưới góc độ như là một biện pháp bảo vệ quyền sở hữu, mà không đi sâu phân tích các quy định chi tiết (như năng lực chịu trách nhiệm bồi thường, xác định thiệt hại, bồi thường thiệt hại trong từng trường hợp cụ thể...).

          Trách nhiệm bồi thường thiệt hại về tài sản phát sinh từ hành vi xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân, pháp nhân như làm mất, phá huỷ, huỷ hoại tài sản... Ý nghĩa của chế định bồi thường thiệt hại về tài sản là một mặt, nhằm khôi phục những thiệt hại về vật chất mà người gây thiệt hại đã gây ra cho chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp; mặt khác, giáo dục mọi người ý thức tuân thủ pháp luật, tôn trọng quyền sở hữu tài sản của người khác.

          Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi xâm phạm quyền sở hữu cũng là một loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại, do đó, về nguyên tắc, nó chỉ phát sinh khi có đủ các yếu tố sau đây:

          +Hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật;

          +Có thiệt hại thực tế xảy ra;

          +Có lỗi của người gây thiệt hại;

          +Có mối liên hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra[5].

          Nguyên tắc bồi thường thiệt hại là phải toàn bộ, kịp thời. Các bên có thể thoả thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật, hoặc thực hiện một công việc, về phương thức bồi thường, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Tuy nhiên, người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường, nếu do lỗi vô ý mà gây thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của mình.

          Về cơ bản, các quy định của BLDS về bồi thường thiệt hại đối với tài sản được đánh giá là tương đối hoàn thiện và đã phát huy tác dụng trong thực tiễn áp dụng pháp luật.

III. Thực tiễn trong giải quyết tranh chấp về quyền sở hữu tại Tòa án trong thời gian qua

          Theo báo cáo tổng kết của Toà án nhân dân tối cao, trong những năm vừa qua, các tranh chấp liên quan đến quyền sở hữu có xu hướng ngày càng gia tăng. Năm 1997, Toà án các cấp đã giải quyết 70.832 vụ tranh chấp về dân sự, năm 1998 là 93.266 vụ, năm 1999 là 92.441 vụ, năm 2000 là111.721 vụ[6]; trong số đó chủ yếu là các tranh chấp liên quan đến tài sản và quyền sở hữu. Trong điều kiện án lệ vẫn chưa được thừa nhận là một nguồn của pháp luật, thì việc vận dụng các quy định của Bộ luật dân sự và các văn bản pháp luật có liên quan để giải quyết các tranh chấp thuộc loại này đã phát sinh những khó khăn nhất định. Dưới đây, chúng tôi xin đơn cử một số trường hợp điển hình.

1. Một số vụ kiện điển hình:

*Vụ thứ nhất:

Vụ kiện giữa nguyên đơn: anh Nghiêm Ngọc Q, sinh năm 1961

Bị đơn: ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1942 (ở đây chúng tôi không tiện nêu tên cụ thể).

Gia đình anh Nghiên Ngọc Q ở thửa đất tại xóm Núi, xã Tam Sơn, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh từ năm 1987 đến năm 1991. Do nhu cầu về lối đi nên anh Q đã xin địa phương cho phép mở lối đi ra đường mới liên thôn.

Năm 1995, ông H mua quyền sử dụng đất của bà Loan là hàng xóm của anh Q và xây nhà cho con trai là Hà ra ở. Ông H đã đi vào lối đi mà anh Q đã đi từ trước. Đến tháng 2/2000, anh Q cải tạo lại ngõ và không cho ông H đi nhờ nữa, từ đó hai bên xảy ra xô xát, bất hoà. Anh Q cho rằng lối đi này là của riêng gia đình anh vì đã được chính quyền địa phương công nhận và đã được cấp sổ bìa đỏ từ năm 1998. Còn ông H thì cho rằng trong quyết định giao đất cho ông đã ghi rõ phía bắc giáp ngõ nên gia đình ông cứ đi.

          Anh Q khởi kiện vụ án. Tại án dân sự sơ thẩm số 35 ngày 20/10/2000, Toà án nhân dân huyện Từ Sơn đã quyết định: xác nhận phần đất làm lối đi là đối tượng của tranh chấp có diện tích 60,3 m2 là thuộc quyền sử dụng của anh Q.

          Ông H không đồng ý với bản án sơ thẩm và đã kháng cáo. Tại bản án phúc thẩm dân sự số 90 ngày 15/12/2000, Toà án nhân dân tỉnh Bắc Ninh đã quyết định y án sơ thẩm.

          Án có hiệu lực pháp luật, nhưng gia đình ông H không nghiêm túc thực hiện mà thường xuyên có hành vi cản trở anh Q thực hiện quyền của mình. Ngày 6/1/2001, anh Q xây tường trên phần lối đi cũ, ông H cùng các con xông ra ngăn cản, tháo dỡ, chửi bới nên anh Q không xây dựng được. Đến ngày 26/3/2001, Đội thi hành án Từ Sơn ra quyết định cưỡng chế thi hành án đối với gia đình ông H, nên ngày 29/3/2001, gia đình anh Q mới xây dựng được tường ngăn cao 2m.

          Như chúng tôi đã trình bày ở phần trên, trên thực tế loại việc này thường liên quan đến bất động sản liền kề như nhà ở, công trình xây dựng, quyền sử dụng đất, lối đi chung. Qua trao đổi với các thẩm phán trực tiếp xét xử các loại án này, chúng tôi được biết khó khăn lớn nhất là việc xác định chứng cứ, mà cụ thể là xác định nguồn gốc đất. Trong vụ kiện trên, sở dĩ anh Q thắng kiện là vì anh đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (bìa đỏ). Trong đa số các trường hợp tranh chấp thường bên nguyên đơn không chứng minh được nguồn gốc đất mà mình đang sử dụng vì không có bìa đỏ và các giấy tờ cần thiết khác.

*Vụ thứ hai:

          Vụ kiện đòi nhà giữa ông T và ông B tại tỉnh Tiền Giang. Vụ án có nội dung cụ thể như sau:

          Ngôi nhà tại ấp 4, xã An Hữu, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang được toạ lạc trên tổng diện tích 86,12 m2 nguyên thuộc quyền sở hữu của ông Nguyễn Văn B (diện tích này ông B chưa được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất). Vào năm 1978, ông B cho ông Huỳnh Văn T mượn nền nhà và đất trên để ở tạm. Nay có nhu cầu sử dụng, ông B yêu cầu ông T phải trả nền nhà và đất mà ông đã cho mượn năm 1978, nhưng ông T không thực hiện.

          Sau khi thụ lý và điều tra vụ việc, Toà án nhân dân huyện Cái Bè đã đưa vụ án ra xét xử và đã ra phán quyết (bản án số 129/STDS ngày 22/8/1996) với nội dung: buộc ông T phải trả cho ông B toàn bộ nền nhà trên diện tích đất 86,12m2. Ông B có trách nhiệm thanh toán lại cho ông T tiền chi phí nâng cấp nền nhà, lấp ao, xây dựng... với tổng số tiền là 3.152.920 đồng.

          Ông T không đồng ý với bản án sơ thẩm và kháng cáo. Tại bản án số 159/DSPT ngày 27/5/1997, Toà án nhân dân tỉnh Tiền Giang đã quyết định: bác yêu cầu đòi nền nhà của ông B và cho rằng không có căn cứ hợp pháp (quyết định khác hẳn án sơ thẩm).

          Sau khi có bản án phúc thẩm nói trên, ông B đã gửi đơn khiếu nại lên Toà án nhân dân tối cao. Sau khi xem xét lại toàn bộ vụ kiện, Phó Chánh án Toà án nhân dân tối cao đã kháng nghị bản án phúc thẩm của Toà án nhân dân tỉnh Tiền Giang. Tại bản án giám đốc thẩm số 413 ngày 24/9/1997, Toà Dân sự Toà án nhân dân tối cao đã quyết định: chấp nhận kháng nghị và xử huỷ án phúc thẩm, giữa nguyên quyết định của án sơ thẩm.

          Sau khi có bản án giám đốc thẩm, ông T lại có đơn khiếu nại lên Chánh án Toà án nhân dân tối cao vì ông T cho rằng án giám đốc thẩm là thiếu khách quan, không bảo vệ được quyền lợi hợp pháp của ông.

          Chánh án Toà án nhân dân tối cao đã có văn bản trả lời bản án giám đốc thẩm của Toà Dân sự-Toà án nhân dân tối cao là có căn cứ và đúng pháp luật.

          Qua vụ việc trên có thể thấy, bản án sơ thẩm và giám đốc thẩm chỉ chấp nhận quyền sở hữu đối với nền nhà. Nền nhà là phần có liên quan đến nguyên vật liệu có thể được công nhận quyền sở hữu. Đối với quyền sử dụng đất, do ông B chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hợp pháp nên các bản án không đề cập đến. Đặc trưng của bất động sản là “không di dời được”, nên các bản án chỉ quyết định quyền sở hữu nền nhà trên một khuôn viên đất. Còn quyền sử dụng đất chưa có giấy chứng nhận hợp pháp nên không được Toà án đề cập đến. Quyết định như vậy, theo chúng tôi, là hợp lý, một mặt bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự, mặt khác tránh được sự lợi dụng khi giải quyết tranh chấp hiện nay nhằm hợp pháp hoá quyền sử dụng đất chưa có giấy tờ hợp pháp.

* Vụ thứ ba:

Ngày 2/7/1994, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Bắc Giang (NHNN&PTNT tỉnh Bắc Giang) - Chi nhánh liên xã số 3, lập khế ước cho anh Nguyễn Minh Hồng, ở thị xã Bắc Giang, vay số tiền 9000.000 đồng, thời hạn 01 năm, tài sản thế chấp là toàn bộ căn nhà và đất của anh Hồng và vợ là chị Vũ Thị Đoàn. Sau đó, phía Ngân hàng gia hạn cho anh Hồng trong khế ước, thời điểm thanh toán nợ là 2/7/1997. Đến thời hạn, anh Hồng không thanh toán được nợ và lãi phát sinh.

Năm 1999, Ngân hàng khởi kiện yêu cầu anh Hồng, chị Đoàn phải thanh toán nợ gốc và lãi phát sinh cho Ngân hàng. Trong quá trình thực hiện, tiến hành các thủ tục về việc thế chấp tài sản để vay vốn, anh Hồng đã thế chấp toàn bộ nhà đất thuộc sở hữu chung của vợ chồng. Theo quy định thì tài sản thế chấp thuộc sở hữu chung của nhiều người hoặc sở hữu chung của hộ gia đình thì phải được cam kết bằng văn bản của những đồng sở hữu hoặc của những thành viên đồng sở hữu trong hộ gia đình, đồng ý giao cho người đại diện vay vốn và ký hợp đồng thế chấp tài sản.

Trong trường hợp vụ kiện cụ thể này, tài sản thế chấp thuộc sở hữu của chung của anh Hồng, chị Đoàn. Khi thế chấp, phía Ngân hàng không yêu cầu anh Hồng phải lấy ý kiến đồng ý của đồng sở hữu, dẫn đến việc phát mại tài sản thế chấp để thu hồi vốn gặp rất nhiều khó khăn. Khi giải quyết vụ án, cơ quan Toà án phải mất nhiều thời gian để điều tra, xác minh để xác định việc anh Hồng vay vốn của Ngân hàng và thế chấp tài sản thì chị Đoàn đều biết và không có ý kiến phản đối. Số tiền vay được cũng được sử dụng vào mục đích chung của gia đình. Từ đó Toà án mới ra phán quyết: buộc anh Hồng và chị Đoàn cùng có trách nhiệm trả nợ gốc và lãi phát sinh cho NHNN&PTNT tỉnh Bắc Giang.

2. Một số nhận xét:

Trên đây, chúng tôi chỉ dẫn ra một số ví dụ điển hình. Trong thực tế tranh chấp về quyền sở hữu là hết sức phức tạp. có nhiều vụ phải xử đi xử lại đến hàng chục lần, nhiều người phải mất hơn chục năm trời ôm đơn đi khiếu kiện tại Toà án nhân dân từ địa phương lên trung ương. Trong việc giải quyết các tranh chấp thuộc loại này, Toà án thường gặp một số khó khăn vướng mắc sau:

Thứ nhất, nhiều quy định của pháp luật còn thiếu hoặc chưa rõ ràng nên rất khó vận dụng, đặc biệt là các văn bản pháp luật về đất đai và nhà ở, nên mỗi địa phương vận dụng một kiểu[7];

Thứ hai, vấn đề xác minh nguồn gốc tài sản, đặc biệt là nhà, đất ở Việt Nam hiện nay rất khó, nguyên nhân là tình trạng đất không có bìa đỏ, nhà không có giấy chứng nhận quyền sở hữu đang khá phổ biến. Qua đây chúng tôi muốn nói rằng tình hình triển khai cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trong thời gian qua rất chậm, gây không ít khó khăn cho các bên đương sự và Toà án các cấp trong việc xác định, đánh giá chứng cứ để giải quyết các tranh chấp có liên quan;

Thứ ba, vấn đề xác định tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng khi ly hôn gặp rất nhiều khó khăn. Nguyên nhân là do phong tục tập quán ở Việt Nam quan niệm hôn nhân là việc rất đặc thù, không phải là quan hệ dân sự nên không có chuyện hai bên nam nữ kê khai tài sản chung, tài sản riêng, tài sản có trước hay có sau thời kỳ hôn nhân... Nhưng khi ly hôn, có tranh chấp phát sinh về tài sản, thì các bên thường không đưa ra được chứng cứ để chứng minh tài sản của mình, nhất là trường hợp vợ chồng lại ở chung với cha mẹ (cha mẹ chồng hạc cha mẹ vợ). Trong nhiều trường hợp, Toà án gặp rất nhiều vướng mắc trong việc xác định tài sản và nhiều khi phán quyết của Toà án chưa thực sự bảo vệ được quyền và lợi ích chính đáng của các bên. Thực tế cho thấy người bị thua thiệt thường là người vợ.

Thứ tư  là vấn đề xác định nguồn gốc tài sản là động sản. Như chúng tôi đã nói ở trên, có một tình trạng thực tế ở Việt Nam hiện nay là có những tài sản đã bị chuyển dịch một cách bất hợp pháp qua tay nhiều người, rất khó xác định được cụ thể đã qua tay những ai. Điển hình là việc mua bán xe máy trao tay không qua thủ tục sang tên trước bạ diễn ra khá phổ biến. Khi có tranh chấp, các bên đương sự và toà án các cấp gặp rất nhiều khó khăn để xác minh nguồn gốc của tài sản (có trường hợp một chiếc xe máy đã bị mua đi bán lại hàng chục lần nhưng không qua thủ tục sang tên trước bạ).

Tóm lại, trong số các khó khăn vướng mắc trên, có nguyên nhân xuất phát từ quy định của Bộ luật dân sự và các văn bản hướng dẫn, có nguyên nhân xuất phát từ cơ chế thi hành pháp luật còn kém hiệu quả.

IV. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện chế định về bảo vệ quyền sở hữu trong Bộ luật dân sự

          Qua các phân tích ở trên, dưới góc độ nghiên cứu, chúng tôi xin có một số kiến nghị về chế định bảo vệ quyền sở hữu nhằm phục vụ việc sửa đổi, bổ sung Bộ luật dân sự lần này.

          1. Nên cụ thể hoá hớn quy định về bảo vệ quyền chiếm hữu:

          Rõ ràng, việc coi chiếm hữu là một trong những nội dung của quyền sở hữu kéo theo sự đồng nhất giữa bảo vệ quyền sở hữu và bảo vệ quyền chiếm hữu trong Bộ luật dân sự hiện hành của chúng ta trong thời gian qua đã tỏ ra bất cập. Chế định pháp luật này vô hình trung đã đặt lên vai người đi kiện (nguyên đơn) nghĩa vụ rất nặng nề là họ phải chứng minh được quyền sở hữu của mình đối với tài sản tranh chấp, trong điều kiện nước ta hiện nay việc này không hề đơn giản, nhất là đối với bất động sản (nhà, đất) không có giấy tờ chứng nhận mà trong đa số trường hợp, lỗi không phải do người dân mà do chính cơ quan hành chính Nhà nước triển khai chậm). Chính vì tình trạng cung cấp, xác minh, đánh giá chứng cứ gặp rất nhiều khó khăn mà thời hạn tố tụng bị kéo dài, dẫn đến số lượng án tồn đọng ngày càng tăng, nhiều bản án thiếu khách quan vì không phản ánh đúng bản chất của vụ việc, quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự không được bảo đảm.

Đã đến lúc Bộ luật dân sự cần tách riêng chế định chiếm hữu khỏi chế định sở hữu, kéo theo đó là phải có những quy định riêng về bảo vệ quyền chiếm hữu. Sự chiếm hữu cần phải được suy đoán là chiếm hữu của chủ sở hữu, đó là một nguyên tắc rất quan trọng trong pháp luật của các nước, thể hiện sự tôn trọng của pháp luật đối với công dân trong việc thực hiện quyền của mình.

Vậy người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật hay không có được pháp luật bảo vệ không? Theo các quy định Bộ luật dân sự hiện hành của Việt Nam thì họ không được bảo vệ. Thực ra cũng phải nói rằng cách phân loại chiếm hữu có hay không có căn cứ pháp luật là cách phân loại rất riêng của Việt Nam, còn luật dân sự của  các nước không có sự phân biệt như vậy. Pháp luật các nước trên thế giới từ lâu đã thừa nhận nguyên tắc: sự ngay tình bao giờ cũng được suy đoán; người nào viện dẫn sự không ngay tình thì phải có nghĩa vụ chứng minh. Chúng tôi cho rằng bất luận trong trường hợp nào, người chiếm hữu vẫn có quyền kiện bảo vệ sự chiếm hữu tài sản của mình. Như vậy, kể cả trong trường hợp chiếm hữu không có căn cứ pháp luật (theo cách phân loại riêng của luật dân sự Việt Nam), thì pháp luật vẫn cần phải bảo vệ quyền lợi của họ. Ví dụ:

A là chủ sở hữu chiếc xe máy. B ăn trộm chiếc xe và bán cho C (C biết rõ chiếc xe là của ăn cắp nhưng vẫn mua). C dùng chiếc xe máy này để đi, rồi lại bị D ăn cắp.

Trong ví dụ trên, chúng tôi cho rằng C vẫn có quyền kiện D phải trả lại xe cho mình (tất nhiên là C phải có đầy đủ chứng cứ). Tóm lại là pháp luật cần công nhận tình trạng chiếm hữu trước đã, còn việc xác định ai là chủ sở hữu đích thực thì giải quyết trong một vụ kiện khác nếu các bên có yêu cầu. Quy định này rất có tác dụng trong việc bảo vệ sự ổn định và thúc đẩy sự phát triển của các giao dịch dân sự trong điều kiện kinh tế thị trường. Đây cũng là cách xử lý trong Bộ luật dân sự của nhiều nước trên thế giới.

2. Cần có biện pháp bảo vệ người thứ ba ngay tình mạnh mẽ hơn.

Cho rằng một mặt, vẫn phải bảo vệ chủ sở hữu, nhưng mặt khác cũng phải bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình nhằm đảm bảo sự ổn định của các quan hệ dân sự tránh gây nhiều xáo trộn, đồng thời nhằm thúc đẩy giao lưu dân sự phát triển trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, nên chăng cần tham khảo quy định của pháp luật các nước điển hình trên thế giới: trong trường hợp tài sản bị chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp đánh mất hoặc bị lấy cắp, thì có quyền đòi lại vật từ người chiếm hữu ngay tình trong một thời hạn nhất định (có thể cân nhắc quy định từ 2-3 năm kể từ ngày mất), nhưng người này có quyền kiện lại người đã chuyển giao vật cho mình bồi thường thiệt hại.

3. Hoàn thiện pháp luật và thiết chế đăng ký tài sản:

Việc đăng ký tài sản rất quan trọng, một mặt là cơ sở để chủ sở hữu bảo vệ quyền lợi của mình và đối kháng với người thứ ba khi có tranh chấp phát sinh; mặt khác tạo điều kiện rất thuận lợi cho Toà án trong việc xác định chứng cứ để xét xử các tranh chấp. Bộ luật dân sự cần đưa ra những nguyên tắc chung về đăng kỳ tài sản, giá trị pháp lý của việc đăng ký... Sau đó, cần ban hành Luật về đăng ký tài sản (hoặc nếu chưa có điều kiện thì trước mắt cần ban hành Luật về đăng ký bất động sản) như kinh nghiệm của Nhật Bản và nhiều nước trên thế giới, nhằm pháp điển hoá các quy định về đăng ký tài sản còn đang nằm rải rác ở các văn bản pháp luật chuyên ngành. Hệ thống cơ quan đăng ký tài sản cũng phải được tổ chức và hoạt động có hiệu quả, phù hợp với chủ trương cải cách hành chính và làm sao phải tạo thuận lợi nhất cho người dân.

4. Nâng cao hiệu quả của các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu trong thực tiễn:

Vấn đề này tuy không thuộc phạm vi nghiên cứu của chuyên đề, nhưng chúng tôi cũng xin đề cập qua, vì chúng tôi suy nghĩ rằng vấn đề xây dựng pháp luật và thực hiện pháp luật tuy là hai vấn đề song chúng có mối quan hệ biện chứng với nhau.

Như chúng tôi đã trình bày ở trên, xuất phát từ đặc trưng của bản thân quan hệ pháp luật dân sự, mà mỗi công dân, pháp nhân cần phải tự mình có những biện pháp bảo vệ quyền sở hữu sao cho có hiệu quả nhất và tất nhiên là phải trong khuôn khổ của pháp luật. Trong trường hợp xảy ra tranh chấp, thì các bên cần tận dụng tối đa cơ chế hoà giải, dàn xếp với nhau vì cơ chế này có những lợi ích như chúng tôi đã trình bày ở trên, đặc biệt trong điều kiện ở Việt Nam hiện nay[8].

Cần tăng cường công tác phổ biến giáo dục các quy định của pháp luật về bảo vệ quyền sở hữu đến người dân, đồng thời hoàn thiện và tăng cường năng lực hoạt động của các thiết chế (Toà án, trọng tài, thi hành án, luật sư, công chứng...) nhằm bảo đảm cho các quy định về bảo vệ quyền sở hữu thực sự đi vào cuộc sống.

Đây là những vấn đề rất lớn, đòi hỏi phải có sự nghiên cứu chuyên sâu và đặc biệt là phải có sự quan tâm của Nhà nước theo lộ trình cụ thể để làm sao thực sự nâng cao được hiệu quả của các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu trong thực tiễn./.

Chú thích:

[1] Rất nhiều người dân Việt Nam sinh sống ở nông thôn không chịu kê khai đất mình đang ở để làm thủ tục đăng ký quyền sử dụng đất (cấp bìa đỏ), vì họ suy nghĩ rất đơn giản rằng: “đất này là đất thổ cư do cha ông để lại, cần gì phải đăng ký cho phiền phức và tốn kém!”

[2] Trong phạm vi chuyên đề này, chúng tôi không đi sâu vào vấn đề thẩm quyền giải quyết tranh chấp. Xung quanh vấn đề này ở Việt Nam hiện nay còn tồn tại rất nhiều điểm rất phức tạp trong việc phân định thẩm quyền giải quyết tranh chấp giữa Toà án với Uỷ ban nhân dân các cấp, nhất là các tranh chấp về đất đai.

[3] Xem kỷ yếu Hội thảo do Viện KAS CHLB Đức tài trợ về chủ đề Sở hữu và Hợp đồng (tháng 9/2006).

[4] Có một tình trạng thực tế ở Việt Nam hiện nay là có những tài sản đã bị chuyển dịch một cách bất hợp pháp qua tay nhiều người, rất khó xác định được cụ thể đã qua tay những ai. Điển hình là xe máy: tình trạng mua bán trao tay không qua thủ tục sang tên trước bạ diễn ra  khá phổ biến.

[5] Chúng tôi không đi sâu phân tích 4 yếu tố này, vì nó khá rộng, phức tạp và xa phạm vi nghiên cứu của chuyên đề.

[6] Số liệu lấy từ Báo cáo tổng kết ngành các năm 1997, 1998, 1999, 2000 của Toà án nhân dân tối cao. Chúng tôi chi thống kê các vụ được giải quyết ở cấp  sơ thẩm.

[7] Điển hình nhất là vấn đề cách thức định giá đất khi đền bù hoặc bồi thường trong Bộ luật dân sự cũng chưa được quy định rõ...

[8] Trong các Báo cáo tổng kết ngành Toà án, Toà án nhân dân tối cao bao giờ cũng nhấn mạnh đến lợi ích của cơ chế này và lưu ý các Toà án nhân dân địa phương phải quán triệt nguyên tắc hoà giải.

SOURCE: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ BỘ TƯ PHÁP

Trích dẫn từ:

http://www.moj.gov.vn/p/tag.idempotent.render.userLayoutRootNode.target.n409.uP?uP_root=me&cmd=item&ID=13305

Thứ Bảy, 13 tháng 6, 2009

PHÁT TRIỂN HỢP TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP TRONG THỜI KỲ CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở NƯỚC TA

GS.TS. HỖ VĂN VĨNH

Đổi mới tư duy lý luận làm cơ sở cho đổi mới cơ chế quản lý kinh tế trong nông nghiệp và kinh tế nông thôn được đánh dấu bằng những mốc lịch sử quan trọng, đó là Chỉ thị 100 CT/TW ngày 13-1-1981 của Ban Bí thư Trung ương Đảng; Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị ngày 5-4-1988; sự ra đời của Luật Hợp tác xã được thông qua ngày 20-3-1996 tại Kỳ họp thứ 9 của Quốc hội khóa IX.

Thực hiện đường lối đổi mới hợp tác xã nông nghiệp của Đảng và thi hành Luật Hợp tác xã, tất cả các địa phương đều đã tập trung chỉ đạo chuyển đổi hợp tác xã nông nghiệp kiểu cũ sang hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới cho phù hợp với quy luật kinh tế thị trường và đặc điểm của sản xuất nông nghiệp dựa trên quyền tự chủ sản xuất kinh doanh của hộ nông dân. Xuất phát từ đặc điểm kinh tế - xã hội của từng địa phương, sự vận dụng sáng tạo đường lối đổi mới hợp tác xã nông nghiệp của cấp ủy đảng, chính quyền các cấp, việc chuyển đổi hợp tác xã nông nghiệp đã diễn ra hết sức đa dạng và phong phú. Đáng chú ý là đã xuất hiện nhiều mô hình hợp tác xã nông nghiệp làm ăn có hiệu quả, đáp ứng nguyện vọng và lợi ích của hộ nông dân trong quá trình chuyển đổi sang sản xuất nông nghiệp hàng hóa. Có thể khái quát thành hai cách làm chủ yếu: chuyển đổi hợp tác xã nông nghiệp kiểu cũ sang hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới; thành lập mới hợp tác xã nông nghiệp.

- Trong cách thứ nhất, chuyển đổi hợp tác xã nông nghiệp kiểu cũ thành hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới về cơ bản đã giữ nguyên hợp tác xã nông nghiệp cũ, nhưng đổi mới phương thức tổ chức, quản lý hợp tác xã theo Luật Hợp tác xã bao gồm các nội dung: kiểm kê, xử lý tài sản, công nợ của hợp tác xã cũ, đăng ký lại danh sách xã viên, xây dựng Điều lệ Hợp tác xã, tổ chức lại hệ thống dịch vụ và bộ máy quản lý của hợp tác xã nông nghiệp. Cách làm này khá phổ biến ở các tỉnh phía Bắc và Bắc Trung Bộ. Chẳng hạn, ở tỉnh Thái Bình sau chuyển đổi theo Luật Hợp tác xã đã có 313 hợp tác xã nông nghiệp được chuyển đổi trong số 320 hợp tác xã nông nghiệp cũ với số hộ nông dân tham gia hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới đạt 98,9% tổng số hộ của cả tỉnh; ở tỉnh Hải Dương từ năm 1997 đến năm 2000 đã có 379/382 hợp tác xã thực hiện chuyển đổi, đạt 99,2% số hợp tác xã nông nghiệp và hầu hết số hộ nông dân đều tham gia hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới; ở tỉnh Nam Định có 445 ngàn hộ nông dân tham gia vào 313 hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới, chiếm gần 100% số hộ nông dân của cả tỉnh. Theo kết quả Tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản năm 2001 của Tổng cục Thống kê, cả nước có 7.171 hợp tác xã trong nông nghiệp, trong đó riêng vùng đồng bằng sông Hồng có 3.311 hợp tác xã, chiếm tới 46% số hợp tác xã nông nghiệp cả nước, còn ở 5 tỉnh Bắc Trung Bộ bao gồm từ Thanh Hóa đến Thừa Thiên - Huế có 1.114 hợp tác xã, chiếm 15,5% số hợp tác xã nông nghiệp của cả nước.

Cách chuyển đổi này có nhiều hạn chế, vẫn mang nặng tính hình thức; tổ chức, cơ chế quản lý, cơ chế lợi ích chưa có sự đổi mới căn bản, chưa tạo được động lực phát triển mới và gắn bó lợi ích của các hộ xã viên. Cụ thể số hộ nông dân tham gia hợp tác xã đông vì chủ yếu vẫn theo cách "đánh trống ghi tên", nên họ không góp vốn hoặc góp chiếu lệ, nơi thấp chỉ 30 - 50 ngàn đồng, nơi cao cũng chỉ trên dưới 100 ngàn đồng/mỗi hộ, bản thân xã viên không có động lực kinh tế, hợp tác xã nông nghiệp thì không có nhiều vốn để hoạt động kinh doanh.

- Cách làm thứ hai, thành lập hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới bao gồm thành lập hợp tác xã nông nghiệp mới hoàn toàn và thành lập hợp tác xã nông nghiệp mới trên cơ sở giải thể hợp tác xã nông nghiệp kiểu cũ. Đây là cách làm chủ yếu ở các tỉnh phía Nam bao gồm vùng Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long. Cách làm này có ưu điểm chính là xuất phát từ nhu cầu phát triển kinh tế hộ, bảo đảm tính tự chủ cao, nên nông dân tự nguyện góp vốn lớn để đáp ứng nhu cầu vốn hoạt động kinh doanh của hợp tác xã. Phương thức hoạt động cũng gắn được quyền lợi và trách nhiệm của từng hộ xã viên đối với hợp tác xã nông nghiệp. Những người sáng lập thường có trình độ chuyên môn kỹ thuật và trình độ kinh doanh và trở thành cán bộ quản lý hợp tác xã năng động, sáng tạo, thích ứng được với cơ chế thị trường, phát triển vững chắc và có hiệu quả.

Ở các tỉnh phía Bắc, cũng xuất hiện một số hợp tác xã nông nghiệp thành lập mới theo đúng nguyên tắc của Luật Hợp tác xã thì kinh doanh phát triển và có hiệu quả.

Hạn chế cơ bản của cách làm này, trước hết, có lẽ ở số lượng hợp tác xã và số hộ nông dân tham gia, số hộ nghèo tham gia hợp tác xã nông nghiệp còn quá ít. Chẳng hạn, tại xã Xuân Tây, Xuân Lộc, Đồng Nai có trên 3.000 hộ nông dân, nhưng chỉ có 1 hợp tác xã nông nghiệp với 21 xã viên. Điều này không phù hợp với bản chất và mục đích của hợp tác xã nông nghiệp là nơi để người nghèo, người ít có những lợi thế có điều kiện để giúp đỡ, hỗ trợ lẫn nhau cùng góp sức, góp của thúc đẩy sản xuất hàng hóa, đẩy mạnh phát triển sản xuất kinh doanh, thoát khỏi đói nghèo và từng bước vươn lên khá và giàu.

Điều đó hạn chế mở rộng kinh tế hợp tác trong nông nghiệp, nhất là đối với các tỉnh Nam Bộ, nơi có điều kiện và truyền thống phát triển nông nghiệp hàng hóa, nhưng số hợp tác xã nông nghiệp và số hộ nông dân tham gia hợp tác xã nông nghiệp còn quá ít. Theo kết quả Tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản năm 2001 của Tổng cục Thống kê, vùng Đông Nam Bộ tổng số có 191 hợp tác xã nông nghiệp, trong đó thành lập mới là 45 hợp tác xã; vùng đồng bằng sông Cửu Long có 424 hợp tác xã nông nghiệp, trong đó có 383 hợp tác xã mới thành lập; số lao động trong hợp tác xã nông nghiệp ở hai vùng này lại quá ít: Đông Nam Bộ có 6.978 người, bình quân 36 người/hợp tác xã, đồng bằng sông Cửu Long có 6.355 người, bình quân 15 người/hợp tác xã.

Theo chúng tôi, hợp tác xã nông nghiệp là tổ chức kinh tế do những người nông dân tự nguyện thành lập nhằm mục đích trợ giúp các hoạt động nông nghiệp của họ thông qua việc cung cấp các dịch vụ giá rẻ do lợi thế về quy mô và phân công chuyên môn hóa lao động, dựa trên nền tảng kinh tế của hộ nông dân, mà đa số họ là những người yếu thế về trình độ học vấn, trình độ kỹ thuật - công nghệ và khả năng hạn hẹp về vốn, theo nguyên tắc tự nguyện, dân chủ, cùng có lợi và cần có sự hỗ trợ của Nhà nước. Đây là nét khác cơ bản với kiểu góp vốn của công ty trách nhiệm hữu hạn hay công ty cổ phần.

Mở rộng các hình thức hợp tác trong nông nghiệp nói chung và xây dựng hợp tác xã nông nghiệp nói riêng là một bộ phận của xây dựng quan hệ sản xuất mới bao gồm cả quan hệ sở hữu và hình thức tổ sản xuất và quản lý. Trong đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn hiện nay, chúng ta thực hiện chính sách đa dạng hóa hình thức sở hữu và tổ chức sản xuất - quản lý với mục tiêu nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái. Do đó, trong nông nghiệp, nông thôn tồn tại nhiều thành phần kinh tế có quyền bình đẳng trước pháp luật, cùng hợp tác và cạnh tranh với nhau. Phát triển các loại hình tổ chức sản xuất nông nghiệp đa dạng, từ hộ nông dân tự chủ đến hợp tác xã, kinh tế trang trại, doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp ngoài nhà nước, kể cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài... trong tất cả các khâu của quá trình tái sản xuất xã hội: sản xuất, dịch vụ, chế biến nông sản, thương mại... các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế muốn tồn tại và phát triển đều phải có sự hợp tác với nhau theo quan hệ thị trường.

Khác với trước đây, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ngày nay được quan niệm rộng hơn, toàn diện hơn, chuyển đổi về lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất gắn với thị trường, xây dựng đời sống văn hóa, tinh thần ở nông thôn theo hướng văn minh, hiện đại, bao gồm thủy lợi hóa, cơ khí hóa, điện khí hóa, sinh học hóa, thị trường hóa, hợp tác hóa, nhân văn hóa... Nghĩa là, chuyển đổi nền kinh tế chủ yếu dựa trên cơ sở nông nghiệp sang nền kinh tế chủ yếu dựa trên cơ sở công nghiệp và dịch vụ, xét cả về tỷ trọng giá trị sản phẩm và lao động với phương thức và trình độ cao về phân công và hợp tác lao động xã hội.

Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và ưu tiên công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, phát triển hợp tác xã nông nghiệp vừa là nội dung quan trọng, vừa là tiền đề của công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Mối quan hệ tác động qua lại giữa hợp tác xã nông nghiệp và công nghiệp hóa, hiện đại hóa thể hiện trên những nét sau đây:

Thứ nhất: Phát triển hợp tác xã nông nghiệp sẽ tạo nên sự phân công lao động và tổ chức lao động mới, vừa tạo ra năng suất lao động và năng suất nông nghiệp cao, vừa tạo điều kiện để chuyển dịch lao động từ nông nghiệp sang các ngành công nghiệp, dịch vụ, thúc đẩy phát triển công nghiệp, dịch vụ trong nông thôn. Đó cũng là một nội dung quan trọng của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở nước ta hiện nay.

Thứ hai: Nhờ phát triển hợp tác xã nông nghiệp với sự góp vốn của hộ xã viên thỏa đáng mà hợp tác xã nông nghiệp đủ sức hoạt động kinh doanh và đầu tư xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, kết cấu hạ tầng và có điều kiện ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ vào sản xuất. Đây cũng là một nội dung quan trọng của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.

Thứ ba: Nhờ phát triển hợp tác xã nông nghiệp mới tạo ra quy mô sản xuất hàng hóa lớn thích ứng với nhu cầu của thị trường, hạn chế và khắc phục dần tình trạng sản xuất nhỏ, phân tán, manh mún, mang nặng tính tự cung, tự cấp của kinh tế hộ còn đang phổ biến ở nước ta hiện nay.

Thứ tư: Hợp tác xã nông nghiệp là một tổ chức kinh tế của nông dân đồng thời là một trường học thực tế để nâng cao trình độ của người lao động và đào tạo, rèn luyện những cán bộ quản trị kinh doanh đáp ứng yêu cầu của kinh tế thị trường trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Thứ năm: Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa vừa đặt ra yêu cầu của hợp tác hóa nói chung và phát triển hợp tác xã nông nghiệp nói riêng, vừa tạo điều kiện để thúc đẩy và hỗ trợ hợp tác xã nông nghiệp, nhất là cung cấp phương tiện kỹ thuật và công nghệ cho hợp tác xã nông nghiệp để tiến hành sản xuất kinh doanh có hiệu quả.

Sự phát triển hợp tác xã nông nghiệp trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta đang gặp nhiều mâu thuẫn và khó khăn, trước hết là đang đứng trước một nghịch lý giữa lý luận và thực tiễn. Về lý luận, ai cũng thấy hợp tác nói chung và hợp tác xã nông nghiệp là cần thiết và có lợi cho chính người nông dân, được Đảng và Nhà nước quan tâm (có Nghị quyết số 13-NQ/TW của Hội Nghị Trung ương 5 (khóa IX) về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể và Quốc hội đã có Luật Hợp tác xã năm 1996 và Luật Hợp tác xã sửa đổi bổ sung năm 2003), nhưng trên thực tế việc chuyển đổi hợp tác xã nông nghiệp vẫn mang nặng tính hình thức, phát triển chậm chạp và số hộ nông dân thực sự tham gia còn quá ít. Theo Tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản năm 2001, số lao động thực sự làm việc trong các hợp tác xã nông nghiệp chỉ bằng 0,68% tổng số lao động hiện có trong nông thôn. Tuyệt đại đa số lao động nông nghiệp và nông thôn làm việc trong các hộ nông dân tự chủ, tuy vẫn được hợp tác xã cung ứng các dịch vụ phục vụ sản xuất nông nghiệp, nhưng không là xã viên và do đó thiếu mối quan hệ gắn bó giữa hộ tự chủ với hợp tác xã. Họ có thể sử dụng hoặc không sử dụng dịch vụ của hợp tác xã là tùy thuộc vào giá cả và tinh thần phục vụ. Như vậy, hợp tác xã nông nghiệp chưa tạo được một sức hút mạnh mẽ các hộ nông dân tham gia hợp tác. Trước thực trạng đó, bước đầu, xin được nêu một số nguyên nhân chủ yếu:

1 - Các hộ nông dân chưa có nhu cầu và động lực tham gia hợp tác. Do đất chật người đông, lao động nông nghiệp dư thừa nhiều, thời gian nông nhàn lớn, nhiều hộ nông dân chưa có nhu cầu hợp tác, cộng với tâm lý sợ mất tự chủ trong sản xuất kinh doanh và tâm lý mặc cảm, định kiến và hoài nghi đối với mô hình hợp tác xã nông nghiệp kiểu cũ, trong khi nguyên tắc tham gia hợp tác xã là tự nguyện, dân chủ, hộ nông dân chưa thấy rõ lợi ích kinh tế nên chưa có động lực vào hợp tác xã nông nghiệp.

2 - Bản thân hợp tác xã nông nghiệp hoạt động kinh doanh còn nhiều hạn chế, chưa thích ứng với sản xuất hàng hóa và chưa nêu gương về mô hình tổ chức sản xuất tiên tiến và hiệu quả. Ngoại trừ một số mô hình hợp tác xã nông nghiệp tiên tiến, năng động và kinh doanh có hiệu quả, đại bộ phận hợp tác xã nông nghiệp còn lại vẫn hoạt động theo nếp cũ, chuyển sang làm dịch vụ được chăng hay chớ, chưa quan tâm nhiều đến mục tiêu hiệu quả kinh tế, mà nặng về mặt chính trị - xã hội.

3 - Còn thiếu những cán bộ cốt cán quản lý hợp tác xã nông nghiệp có trình độ, kinh nghiệm và có tâm huyết vì lợi ích của hợp tác xã và xã viên. Chủ nhiệm hợp tác xã, ban quản trị chưa được tuyển chọn, rèn luyện, bồi dưỡng phù hợp với điều kiện quản lý kinh doanh nông nghiệp trong kinh tế thị trường.

4 - Sự chỉ đạo chuyển đổi và phát triển hợp tác xã nông nghiệp còn nhiều mặt hạn chế cả về tuyên truyền giáo dục, tổ chức, cơ chế chính sách, điều hành cụ thể đối với phong trào hợp tác và hợp tác xã nông nghiệp. Chính quyền địa phương nhiều nơi vẫn duy trì hợp tác xã nông nghiệp một cách hình thức với nhiều lý do khác nhau và do đó tạo nên sự trì trệ đối với phát triển hợp tác xã nông nghiệp.

Bởi vậy, để hợp tác xã nông nghiệp phát triển có hiệu quả, phát huy vai trò hỗ trợ đắc lực cho kinh tế hộ và trang trại, gắn với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn cần thực hiện một số giải pháp sau đây:

Một là: Tiếp tục đổi mới nhận thức về hợp tác xã nông nghiệp, nhất là nhận thức đúng đắn vị trí, vai trò và tác dụng của hợp tác xã nông nghiệp trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn và đưa nông nghiệp nước ta phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, trên cơ sở tuân thủ nguyên tắc tổ chức và quản lý: tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi và có sự hỗ trợ của Nhà nước, phù hợp nguyên tắc của Liên minh các hợp tác xã quốc tế nhằm thích ứng với quá trình hội nhập quốc tế. Từ thay đổi nhận thức về hợp tác xã nông nghiệp cần sớm khắc phục những mặc cảm, định kiến với mô hình hợp tác xã nông nghiệp kiểu cũ và đổi mới cơ chế chính sách, chỉ đạo thực tiễn phát triển hợp tác xã nông nghiệp trong mối liên kết hợp tác với các thành phần kinh tế và các loại hình tổ chức sản xuất khác nhằm mục tiêu hiệu quả kinh tế - xã hội.

Hai là: Phát triển kinh tế hộ nông dân theo hướng sản xuất hàng hóa, khắc phục tình trạng manh mún, khép kín, tự cấp tự túc của kinh tế hộ nhằm tạo nhu cầu và động lực tham gia hợp tác xã nông nghiệp của kinh tế hộ. Trên cơ sở tích tụ, tập trung ruộng đất cho sản xuất nông nghiệp hàng hóa mà phân công lao động xã hội, chuyển dịch lao động nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ theo phương châm "Ai giỏi nghề gì làm nghề đó". Nhà nước có chính sách tài chính - tín dụng, chính sách khoa học - công nghệ và khuyến nông, chính sách đầu tư, chính sách thị trường, chính sách lao động... để hỗ trợ cho kinh tế hộ nông dân dần chuyển sang sản xuất hàng hóa bền vững và có hiệu quả.

Ba là: Coi trọng công tác cán bộ cho hợp tác xã nông nghiệp. Thực tế cho thấy rằng, cán bộ chủ chốt của hợp tác xã nông nghiệp, trước hết là chủ nhiệm hợp tác xã có vai trò quyết định đối với sự thành bại của hợp tác xã nông nghiệp. Do đó, việc lựa chọn, đào tạo, bồi dưỡng cũng như cơ chế chính sách đối với chủ nhiệm hợp tác xã và ban quản trị phải được coi trọng và đổi mới cơ bản theo nguyên tắc lấy mục tiêu hiệu quả kinh doanh của hợp tác xã làm tiêu chí xem xét hàng đầu.

Bốn là: Mở rộng liên kết hợp tác giữa hợp tác xã nông nghiệp với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Đặc điểm của kinh tế thị trường là cạnh tranh và hợp tác, do đó từng hợp tác xã nông nghiệp không thể khép kín mà phải mở rộng hợp tác với các hợp tác xã nông nghiệp khác, chủ động tìm kiếm sự hợp tác và hỗ trợ của các doanh nghiệp lớn để nâng cao trình độ kinh doanh và sức cạnh tranh của mình.

Năm là: Tiếp tục đổi mới quản lý nhà nước đối với kinh tế hợp tác và hợp tác xã nông nghiệp, trước hết là triển khai tổ chức Luật Hợp tác xã, đưa Luật Hợp tác xã đi vào cuộc sống. Nhà nước có chức năng quản lý và hỗ trợ hợp tác xã nông nghiệp chủ yếu bằng cơ chế, chính sách và hệ thống tổ chức quản lý. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã thành lập Cục hợp tác xã là một bước tiến quan trọng. Vấn đề đặt ra là thực hiện đúng chức năng và xây dựng hệ thống tổ chức quản lý hợp tác xã nông nghiệp từ trung ương đến cơ sở, nhất là củng cố Liên minh hợp tác xã sao cho thiết thực và có hiệu quả, tránh hành chính hóa để chuyển mạnh sang các hoạt động dịch vụ, hỗ trợ các hợp tác xã trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.

SOURCE: TẠP CHÍ CỘNG SẢN SỐ 81 NĂM 2005

Thứ Hai, 1 tháng 6, 2009

MỘT SỐ SUY NGHĨ VỀ THƯƠNG HIỆU DOANH NGHIỆP

VÕ HƯƠNG

Thời gian trước đây, khi nói về việc xây dựng và phát triển một doanh nghiệp, người ta hay nói đến mục tiêu tiên quyết là lợi nhuận. Nhưng ngày nay đã có nhiều lập luận được đưa ra phản đối lại quan điểm trên. Nhiều chuyên gia cho rằng nguyên nhân để một doanh nghiệp có thể tồn tại hàng trăm năm, nối tiếng ở hàng trăm quốc gia và giữ được lòng mến mộ của hàng triệu khách hàng, đó là Thương hiệu doanh nghiệp và nó đã trở thành một yếu tố cơ bản nhất quyết định sự tồn tại và phát triển của một doanh nghiệp.

Với Việt Nam, một quốc gia đang phát triển và mới bước vào quá trình hội nhập quốc tế, nhưng các nhà lãnh đạo doanh nghiệp đã nhận ra vai trò của thương hiệu trong sự phát triển của doanh nghiệp. Chính vì lý do đó mà ta có thể tự hào khi nhìn thấy các sản phẩm thương hiệu “cà phê Trung Nguyên” được bày bán nhiều nơi trên thế giới, logo “Vietnam Airline” được nhiều người khách nước ngoài nhận biết, và biểu tượng SSI của Công ty cổ phần chứng khoán Sài Gòn được nhiều nhà đầu tư tài chính nước ngoài biết đến,…

Tuy nhiên, ở một bộ phận doanh nghiệp khác của Việt Nam, việc xây dựng và bảo vệ thương hiệu chưa được quan tâm đúng mức trong chiến lược phát triển của doanh nghiệp. Bài viết này xin được cung cấp một cái nhìn sâu hơn về thương hiệu doanh nghiệp, qua đó có thể đóng góp thêm ý kiến về việc xây dựng và phát triển thương hiệu trong tổng thể chiến lược phát triển doanh nghiệp.

Các phương thức tiếp cận và định nghĩa về Thương hiệu

Thực tế cho thấy, một thương hiệu mạnh và hiệu quả sẽ làm gia tăng sự nhận biết, lòng trung thành của khách hàng, doanh số bán hàng, ‘giữ chân’ nhân viên, và ngay cả giá trị cổ phiếu công ty.

Tuy nhiên, nhận biết về thương hiệu đến mức độ nào và chuyển nhận biết đó trong những hành động hàng ngày là một vấn đề rất phức tạp. Một thương hiệu hiệu quả và tồn tại lâu dài không phải xây lên từ một sự tình cờ, mà nó có thể là một nhiệm vụ quan trọng và khó khăn nhất đối với các công ty ngày nay. Do đó, thương hiệu cần được tiếp cận một cách công phu và tinh vi.

Trước hết, không nên hiểu thương hiệu là một thứ gì đó mà có thể nhìn thấy, nghe thấy và sờ thấy như logo công ty, sản phẩm của công ty hay quảng cáo của công ty. Mà nhiều hơn thế, thương hiệu là sự tổng hợp toàn thể mọi yếu tố của công ty, bao gồm các giá trị, hệ thống, quyết định, nguyên tắc hoạt động, môi trường làm việc, hành vi ứng xử của nhân viên và nhiều yếu tố khác. Thương hiệu được định nghĩa thông qua thái độ và hành vi của doanh nghiệp với khách hàng và các sản phẩm, chứ không đơn giản là những thông điệp chúng ta gửi qua các phương tiện truyền thông đại chúng như logo hay quảng cáo.

Thứ hai, do thương hiệu tồn tại rất độc lập trong tâm trí mỗi người (khách hàng, nhà đầu tư, công chúng), nên thương hiệu cần được hiểu là kết quả của một quá trình trao đổi qua lại giữa họ (khách hàng, nhà đầu tư, công chúng) với các nhân viên, các sản phẩm và dịch vụ của công ty. Cụ thể, các sản phẩm và dịch vụ của bạn khiến công chúng cảm nhận như thế nào? Tác động lẫn nhau giữa công ty và nhân viên có ảnh hưởng đến nhận thức của họ (khách hàng, nhà đầu tư, công chúng) đối với công ty như thế nào? Cái gì thúc đẩy khách hàng mua sản phẩm của công ty? Cái gì khiến họ quay lại mua các sản phẩm của công ty?...

Thứ ba, một thương hiệu mạnh không chỉ đơn thuần là thương hiệu khiến công ty hoặc sản phẩm của nó trở nên khác biệt với công ty khác, mà quan trọng hơn, thông qua thương hiệu đó doanh nghiệp xây dựng được mối quan hệ bền lâu giữa doanh nghiệp với con người. Thương hiệu có thể tác động, thúc đẩy hành vi mong muốn sở hữu sản phẩm của công ty.

Thứ tư, xem xét tới các yếu tố như hội nhập quốc tế đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ, công nghệ phát triển nhanh chóng và kiến thức của dân chúng ngày càng được nâng cao, thì thương hiệu trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.

Với các phương thức tiếp cận như trên, thương hiệu sẽ được hiểu là một tập hợp toàn bộ các yếu tố của công ty, bao gồm (i) các vấn đề cốt lõi của công ty như giá trị công ty, triết lý công ty, nhiệm vụ công ty và niềm tin của công ty (hãy nghĩ đến thương hiệu Johnson & Johnson, công ty đã trung thành tuyệt đối với sứ mệnh mang đến sự chăm sóc chu đáo nhất và an toàn nhất cho trẻ em trên toàn thế giới), (ii) hệ thống tổ chức và vận hành, chính sách, quyết định và nguyên tắc hoạt động, môi trường làm việc và cách ứng xử của nhân viên (hãy nghĩ đến công ty General Electric hoặc IBM, họ cam kết thực hiện công việc ‘professional’ nhất), (iii) các sản phẩm, dịch vụ, lựa chọn, chương trình và kế hoạch đầu tư dành cho khách hàng (hãy nghĩ đến Pepsi hay P&G, họ luôn cố gắng để thoả mãn khách hàng một cách tốt nhất) và nhiều yếu tố khác.

Với Owen D. Young, Cựu Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty General Electric (công ty điện tử hàng đầu thế giới), ông quan niệm “Thương hiệu của công ty có thể là vật chất hữu hình nhỏ nhất, nhưng lại mang giá trị tài sản lớn nhất đối với chúng tôi”. Đây có thể là một cách nhìn ngắn gọn nhất về thương hiệu.

Xây dựng và Phát triển thương hiệu

Nội dung trên đã giới thiệu với người đọc về khái niệm ‘Thương hiệu’ và các yếu tố cấu tạo nên nó. Nhìn nhận đúng đắn các vấn đề trên sẽ giúp chúng ta có chiến lược xây dựng thương hiệu hiệu quả hơn. Vì thương hiệu là toàn bộ những vấn đề cốt lõi và nền tảng của công ty, nên để xây dựng được thương hiệu thì điều đầu tiên ta phải hiểu được các vấn đề gồm: Cơ hội của công ty là gì?, Các nhu cầu của khách hàng là gì? Nên làm gì và không nên làm gì để đáp ứng nhu cầu của khách? Nguồn lực của công ty đến đâu, công ty có khả năng làm tốt công việc đó không hay cần tới nhà cung cấp khác?...

Từ những hiểu biết trên, công ty sẽ có quyết định cho riêng mình về nhiệm vụ, giá trị, niềm tin và sứ mệnh của công ty. Đây cũng là những yếu tố cốt lõi để xây dựng nên thương hiệu.

Dựa trên thiết kế về thương hiệu, công ty sẽ xác định được sản phẩm, dịch vụ, thái độ và hành vi ứng xử của nhân viên nhằm thực hiện sứ mệnh, niềm tin đó.

Khi sản phẩm và dịch vụ hoàn thành, công ty cần tới các kênh truyền thông để quảng bá và phát triển thương hiệu. Tuy nhiên, quá trình phát triển của thương hiệu không phụ thuộc hoàn toàn vào các kênh truyền thông quảng bá, mà nó cần được truyền đạt và thấm nhuần ở tất cả các tầng lớp nhân viên trong công ty và được duy trì trong suốt quá trình phát triển của công ty.

Nguồn tham khảo:

- Thuyết trình “Why? Now? How?: Brand-building in challenging times” của Subha đến từ Tông ty ShiftPartner.

- Tài liệu “Taking down the sign: Would anyone recognize you” của Edelman Change and Employee Engagement Group (2007).

- Tài liệu “Combining CSR with Brand Building” của G-H Bank Housing Journal (2008)

- Tài liệu “Dịch vụ tài chính với hoạt động xây dựng thương hiệu” của Thạc sỹ Ngô Minh Cách, giảng viên Bộ môn Marketing - Học viện Tài chính.

- Thuyết trình của Mindshare về “Truyền thông trong việc xây dựng thương hiệu”.

SOURCE: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC

Trích dẫn từ: http://www.sbv.gov.vn/vn/home/tinnghiencuu.jsp?tin=686

BÁO CÁO CỦA CHÍNH PHỦ VỀ CỔ PHẦN HÓA CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC

(Lược ghi) - Cổ phần hoá các DNNN thời gian qua đạt được những kết quả đáng ghi nhận, nhưng việc cổ phần hoá, sắp xếp các doanh nghiệp có quy mô lớn, trong đó các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng thực hiện còn chậm.

Các DNNN đã cổ phần hoá, chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và việc huy động vốn ngoài xã hội trong quá trình cổ phần hoá DNNN còn hạn chế do chưa khuyến khích việc bán cổ phần ra bên ngoài. Chưa có doanh nghiệp nào tính giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp khi cổ phần hoá.

Thời gian thực hiện cổ phần hoá một doanh nghiệp còn dài, làm tiến độ cổ phần hoá chậm.

Theo báo cáo của các Bộ, ngành, địa phương về kết quả hoạt động của 850 doanh nghiệp cổ phần hoá đã hoạt động trên một năm cho thấy: vốn điều lệ bình quân tăng 44%; doanh thu bình quân tăng 23,6%; lợi nhuận thực hiện bình quân tăng 139,76%; trên 90% số doanh nghiệp sau cổ phần hoạt động kinh doanh có lãi; nộp ngân sách bình quân tăng 24,9%; thu nhập của người lao động bình quân tăng 12%.

Vốn nhà nước còn chiếm tỷ trọng lớn trong vốn điều lệ ở nhiều doanh nghiệp không thuộc diện cần giữ cổ phần chi phối, phổ biến nhất là trong các tổng công ty nhà nước thuộc các ngành xây dựng, giao thông.

Việc thu hút cổ đông ngoài doanh nghiệp mới đạt 24,1% vốn điều lệ; mới có trên 20 công ty có cổ đông là nhà đầu tư nước ngoài; các cổ đông chiến lược vì thế cũng không có nhiều cơ hội để tham gia vào phát triển sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Việc người lao động trong một số doanh nghiệp bán bớt cổ phần ưu đãi sau khi mua đã làm giảm tác dụng của chính sách khuyến khích người lao động có cổ phần trong doanh nghiệp.

Nhiều công ty cổ phần chưa có sự đổi mới thực sự trong quản trị công ty; phương pháp quản lý, lề lối làm việc, tư duy quản lý vẫn còn như DNNN. Hạn chế này rõ nhất là ở những doanh nghiệp mà Nhà nước còn giữ cổ phần chi phối, ban lãnh đạo của doanh nghiệp đều từ DNNN trước đó chuyển sang.

Trong một số công ty cổ phần, người lao động - cổ đông phần do nhận thức chưa đầy đủ về quyền và nghĩa vụ của mình, phần do sự hiểu biết pháp luật về công ty cổ phần còn hạn chế, nên có nơi quyền làm chủ chưa được phát huy. Ngược lại có nơi lạm dụng quy định của pháp luật gây khó khăn cho công tác quản lý của Hội đồng quản trị, sự điều hành của giám đốc. Nhiều nội dung của cơ chế, chính sách quản lý công ty cổ phần như: chính sách tiền lương, tiền thưởng… vẫn còn áp dụng như DNNN.

Nguyên nhân

Một bộ phận cán bộ lãnh đạo, đảng viên ở các cấp, người lao động trong doanh nghiệp chưa nhận thức đúng đắn về công cuộc đổi mới, sắp xếp và cổ phần hoá DNNN. Một số khác còn mang nặng tư tưởng bao cấp, lo ngại sau cổ phần sẽ mất đặc quyền, đặc lợi.

Một số Bộ, ngành, địa phương, tổng công ty nhà nước chưa quán triệt sâu sắc và nghiêm chỉnh chấp hành Nghị quyết của Đảng, quy định của Nhà nước, thiếu chương trình, kế hoạch cụ thể, chưa tích cực, sâu sát trong chỉ đạo thực hiện đã làm ảnh hưởng tới tiến độ cổ phần hoá DNNN.

Một số khó khăn, vướng mắc trong chính sách cổ phần hoá chưa được xử lý kịp thời như: đối tượng cổ phần hoá, việc bán cổ phần ra bên ngoài, chính sách bán cổ phần ưu đãi, phương thức bán cổ phần, quy định về xác định giá trị doanh nghiệp; chưa có giải pháp xử lý dứt điểm các tồn tại về tài chính, quy trình cổ phần hoá toàn bộ tổng công ty nhà nước.

Những khó khăn, vướng mắc của DNNN sau cổ phần hoá chưa được xử lý kịp thời, vẫn còn tình trạng phân biệt đối xử trong việc cho thuê đất, chuyển quyền sử dụng đất, di chuyển địa điểm sản xuất, vay vốn kinh doanh…

Phương hướng, nhiệm vụ đến năm 2010

Theo số liệu tổng hợp từ các Bộ, địa phương, tổng công ty 91, đến nay, cả nước còn 2.176 doanh nghiệp 100% vốn nhà nước với tổng số vốn nhà nước gần 260 nghìn tỷ đồng. Trong đó, 1.546 doanh nghiệp hoạt động sản xuất, kinh doanh, 335 doanh nghiệp quốc phòng an ninh và sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích và 295 nông, lâm trường quốc doanh. Phân theo cơ quan chủ sở hữu, có 301 doanh nghiệp thuộc tổng công ty 91; 408 doanh nghiệp thuộc tổng công ty 90; 307 doanh nghiệp thuộc các Bộ, ngành; 1.160 doanh nghiệp thuộc địa phương.

Với những bối cảnh và yêu cầu nêu trên, phấn đấu đến cuối năm 2009, cơ bản hoàn thành việc sắp xếp DNNN. Cụ thể là:

a) Tiếp tục cổ phần hóa các công ty nhà nước độc lập thuộc các Bộ, địa phương :

Đối với các doanh nghiệp kinh doanh: tiến hành cổ phần hóa toàn bộ, kể cả doanh nghiệp hoạt động ở địa bàn khó khăn: hỗ trợ cho doanh nghiệp không phân biệt thành phần kinh tế, thu hút các nhà đầu tư có tiềm năng đến mua cổ phần của các doanh nghiệp cổ phần hoá ở địa bàn này. Những doanh nghiệp có khó khăn về tài chính cần cơ cấu lại trước khi chuyển đổi sở hữu.

Những doanh nghiệp kết hợp kinh tế với quốc phòng, kinh tế với an ninh thuộc Bộ Quốc phòng và Bộ Công an hoạt động trong lĩnh vực may mặc, xây lắp, thương mại... sẽ cổ phần hóa; trường hợp thật cần thiết Nhà nước mới giữ cổ phần chi phối. Có chính sách, chế độ lương hợp lý đối với số sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp làm việc trong các doanh nghiệp cổ phần hoá.

Những công ty không còn vốn nhà nước thì bán, giải thể hoặc phá sản.

Đối với những doanh nghiệp quy mô nhỏ, có cùng ngành nghề hoặc có mối quan hệ về công nghệ, thị trường... với các doanh nghiệp khác thì xem xét sáp nhập, hợp nhất, không phụ thuộc vào doanh nghiệp do địa phương hay do Trung ương quản lý để hình thành những doanh nghiệp quy mô lớn hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con.

Sau khi tổ chức lại sẽ tiến hành cổ phần hóa công ty mẹ. Việc sáp nhập, hợp nhất không được làm ảnh hưởng lớn đến tình hình sản xuất, kinh doanh, tài chính của đơn vị nhận sáp nhập, hợp nhất; phải tiến hành xử lý dứt điểm các tồn tại về tài chính, lao động trước khi thực hiện phương án sáp nhập, hợp nhất. Tránh tình trạng thực hiện sáp nhập một số DNNN quản lý yếu kém, kinh doanh thua lỗ vào các DNNN đang kinh doanh có hiệu quả làm giảm sức mạnh của đơn vị tiếp nhận.

Đối với doanh nghiệp sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích: Chuyển thành công ty trách nhiệm hữu hạn 1 thành viên các doanh nghiệp quốc phòng, an ninh thực hiện sản xuất, cung ứng sản phẩm dịch vụ công ích, nhiệm vụ quốc phòng an ninh ;

Thực hiện cổ phần hóa với lộ trình phù hợp, trước mắt Nhà nước giữ cổ phần chi phối đối với các doanh nghiệp sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích theo phương thức đặt hàng, giao kế hoạch quy định tại Nghị định số 31/2005/NĐ-CP ngày 11 tháng 3 năm 2005.

Cổ phần hóa, Nhà nước không cần nắm giữ cổ phần hoặc chỉ nắm giữ cổ phần ở mức thấp (< 35%) tại các doanh nghiệp cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích theo phương thức đấu thầu, đặt hàng quy định tại Nghị định nói trên.

b) Đẩy mạnh sắp xếp, cổ phần hóa các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước:

Các tổng công ty nhà nước là lực lượng chủ lực trong nền kinh tế quốc dân, chiếm tới 87% tổng vốn nhà nước đầu tư vào các doanh nghiệp, riêng các tổng công ty 91 chiếm 71,6%. Những năm trước đây chúng ta chủ yếu sắp xếp, cổ phần hóa những doanh nghiệp quy mô nhỏ, có một số ít doanh nghiệp quy mô vừa và lớn nhằm thu gọn đầu mối.

Việc cổ phần hóa các tập đoàn, tổng công ty là vấn đề mới mẻ, hệ trọng, khó khăn và phức tạp. Vì vậy, cần phải có quan điểm, phương pháp, bước đi phù hợp, chắc chắn, giữ vững ổn định sản xuất, không gây tác động đến môi trường đầu tư, đời sống người lao động và xã hội. Khẩn trương phân loại rõ những tập đoàn, tổng công ty nhà nước cần nắm giữ 100% vốn; những tập đoàn, tổng công ty cần cổ phần hoá. Nhà nước chỉ nắm giữ 100% vốn đối với các tập đoàn, tổng công ty hoạt động có hiệu quả, được Nhà nước giao quản lý, khai thác và phân phối một bộ phận tài nguyên quốc gia, làm công cụ để Nhà nước điều tiết vĩ mô.

Các tổng công ty nhà nước là những doanh nghiệp có quy mô lớn, đa số hoạt động có hiệu quả, tuy nhiên, vẫn còn một số tổng công ty kết quả sản xuất, kinh doanh còn thấp. Để cổ phần hóa một cách hiệu quả, cần phân thành hai loại: loại hoạt động có hiệu quả thì tiến hành cổ phần hóa ngay, loại hiệu quả chưa cao thì cần làm rõ nguyên nhân để có biện pháp nâng cao hiệu quả trước khi cổ phần hóa như: đầu tư, sắp xếp lại, lành mạnh hóa tình hình tài chính, đổi mới tổ chức cán bộ.

c) Cổ phần hoá các ngân hàng thương mại, các công ty bảo hiểm:

Ngân hàng thương mại nhà nước là loại doanh nghiệp đặc thù, là một kênh cung cấp vốn quan trọng nhất cho các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp nhà nước nói riêng. Tuy nhiên, các ngân hàng thương mại nhà nước có vốn điều lệ và hệ số an toàn vốn còn thấp, năng lực quản lý, trình độ công nghệ còn yếu, các sản phẩm, dịch vụ của ngân hàng còn nghèo, mới tập trung chủ yếu vào hoạt động cấp tín dụng. Ngân hàng thương mại nhà nước nhìn chung chưa thật sự đáp ứng nhu cầu vay vốn, mối quan hệ giữa ngân hàng và doanh nghiệp chưa thật sự bình đẳng, vừa là đối tác, vừa là bạn hàng, gắn bó chặt chẽ với nhau để hoạt động và phát triển. Trong các năm 2007 - 2010, cần tập trung chỉ đạo đổi mới và phát triển ngân hàng thương mại nhà nước theo các hướng sau:

Đối với Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng Phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long, cần khẩn trương thực hiện các công việc mà Thủ tướng Chính phủ đã quyết định, hoàn chỉnh trình Thủ tướng Chính phủ đề án cổ phần hóa ngay trong năm 2006 để hoàn thành cổ phần hóa trong năm 2007.

Đối với ba ngân hàng thương mại còn lại (Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, Ngân hàng Công thương Việt Nam, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam) thì thực hiện cổ phần hóa theo hai bước:

+ Bước 1: nâng cao năng lực tài chính theo hướng đạt các chỉ số lành mạnh tài chính theo chuẩn quốc tế vào cuối năm 2006 đối với Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, Công thương Việt Nam và cuối năm 2007 đối với Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam.

+ Bước 2: từ năm 2007 tiến hành cổ phần hoá Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, Ngân hàng Công thương Việt Nam; từ năm 2008 cổ phần hoá Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam.

Đối với Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam, cần khẩn trương thực hiện đề án cổ phần hóa Tổng công ty này và hình thành Tập đoàn Tài chính bảo hiểm Bảo Việt mà Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt. Đối với Công ty Bảo hiểm Dầu khí, cần xây dựng đề án cổ phần hóa, trình cấp có thẩm quyền phê duyệt ngay trong đầu năm 2007 và đi vào thực hiện. Việc cổ phần hóa hai công ty bảo hiểm nhà nước này phải chú trọng tới ổn định và phát triển thị trường bảo hiểm trong nước, đồng thời có biện pháp nhanh chóng vươn ra thị trường quốc tế.

Đối với các công ty dịch vụ tài chính, cần tiến hành rà soát để đề ra và thực hiện lộ trình cổ phần hóa phù hợp với đặc thù của loại hình doanh nghiệp này và yêu cầu phát triển thị trường tài chính.

Tổng hợp lại, theo phương án trên, từ nay đến hết năm 2010, sẽ cổ phần hóa khoảng 1.500 doanh nghiệp và đến cuối năm 2010 cả nước có 554 doanh nghiệp 100% vốn nhà nước, trong đó 26 tập đoàn, tổng công ty quy mô lớn; 178 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực an ninh, quốc phòng, sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ thiết yếu; 200 nông, lâm trường; 150 doanh nghiệp thành viên các tập đoàn, tổng công ty nhà nước.

SOURCE: CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Chủ Nhật, 31 tháng 5, 2009

MỘT SỐ QUAN ĐIỂM HIỆN TẠI VỀ QUYỀN MUA NHÀ Ở CỦA NGƯỜI VIỆT NAM ĐỊNH CƯ Ở NƯỚC NGOÀI

CIVILLAWINFOR (Tổng hợp)

1. Mở rộng đối tượng kiều bào được mua nhà ở Việt Nam

Năm 2008, đã có gần 400.000 kiều bào được miễn thị thực vào VN. Đây là con số được Ủy ban Nhà nước Về người VN ở nước ngoài (ủy ban) thông tin tại cuộc họp báo ngày 6-1- 2009, tại Hà Nội. Số liệu nêu trên được đánh giá là còn khiêm tốn, vì số lượng Việt kiều truy cập vào trang web của cơ quan đại diện ngoại giao VN ở nước ngoài hay cơ quan xuất nhập cảnh để làm thủ tục nhập cảnh về nước thời gian qua chưa nhiều.

Điều này cho thấy một số kiều bào còn chưa quen với việc vào internet để lấy thông tin hoặc đơn đăng ký miễn thị thực. Khúc mắc nữa là do có những rắc rối trong cách thức kê khai chi tiết về nơi sinh, nơi cư trú trước đây, đặc biệt với những trường hợp xuất thân tại những địa phương nay đã chia tách tỉnh.

Thủ tục xuất nhập cảnh sẽ thuận lợi hơn

Theo ông Nguyễn Thanh Sơn, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, Chủ nhiệm Ủy ban Nhà nước Về người VN ở nước ngoài, ủy ban đang xem xét, thu nhận các ý kiến đóng góp của kiều bào để làm việc với các cơ quan quản lý chức năng trong nước, cải tiến thủ tục để công tác miễn thị thực được thuận lợi hơn.

Mới đây, ủy ban đã đưa mẫu đơn đăng ký miễn thị thực bằng tiếng Anh lên trang web của Bộ Ngoại giao để giúp cho thế hệ kiều bào thứ ba có thể làm thủ tục xin xuất nhập cảnh nhanh hơn, thuận lợi hơn.

Tại cuộc họp báo, lãnh đạo Bộ Ngoại giao và ủy ban cũng cho biết nhân dịp đón Xuân Kỷ Sửu, Bộ Ngoại giao và ủy ban sẽ phối hợp với Đài Truyền hình VN tổ chức một chương trình giao lưu mừng Xuân dành cho kiều bào. Chương trình mang tên Xuân quê hương 2009, được truyền hình trực tiếp từ 4 đầu cầu Hà Nội, Vientiane, San Francisco, Moscow vào tối 18-1 - 2009. Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết sẽ phát biểu lời chào mừng bà con kiều bào từ khắp nơi trên thế giới. Ủy ban cũng khẳng định lượng kiều bào về quê ăn Tết Kỷ Sửu chắc chắn sẽ đông hơn con số nửa triệu người của năm ngoái.

Năm 2009, Bộ Ngoại giao và ủy ban sẽ triển khai hàng loạt hoạt động tích cực thúc đẩy phát triển cộng đồng người VN ở nước ngoài. Đầu tiên là Bộ Xây dựng sẽ trình Quốc hội thông qua dự thảo luật sửa đổi, bổ sung điều 126 của Luật Nhà ở năm 2005, cho phép và mở rộng đối tượng người VN ở nước ngoài được sở hữu nhà tại VN.

Bên cạnh đó, bộ sẽ phối hợp với Bộ Tư pháp và các bộ, ngành liên quan nghiên cứu, dự thảo các văn bản dưới luật hướng dẫn thực thi một số điều có liên quan đến người VN ở nước ngoài của Luật Quốc tịch sửa đổi năm 2008. Đồng thời, hoàn tất thủ tục thành lập Hiệp hội Doanh nhân VN ở nước ngoài, tổ chức đại hội lần thứ nhất của hiệp hội.

Cuối năm nay, ủy ban sẽ tổ chức hội nghị về người VN ở nước ngoài toàn thế giới lần thứ nhất. Hội nghị dự kiến mời đại diện kiều bào ưu tú các thế hệ trên khắp thế giới đóng góp sáng kiến, trí tuệ của mình cho công cuộc phát triển đất nước.

2. Việt kiều sở hữu nhà tại VN: Rối rắm do... từ ngữ!

Các đại biểu Quốc hội đang tranh luận về vấn đề sở hữu nhà ở trong nước đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài (sau đây xin gọi tắt là Việt kiều). Trên thực tế, tại nhiều diễn đàn nhà đất thời gian qua, chúng tôi không ghi nhận được sự lo lắng thái quá nào nếu mở rộng chính sách bán nhà cho Việt kiều như một số đại biểu Quốc hội đang lo ngại.

Trước đây, chỉ riêng việc xác định đối tượng Việt kiều để cho phép sở hữu nhà cũng đã có nhiều ý kiến trái ngược. Nhiều người cho rằng Luật Nhà ở quy định hạn hẹp đối tượng dẫn đến tình trạng sau tám năm triển khai chủ trương cho Việt kiều mua nhà ở, chỉ có khoảng hơn 140 Việt kiều được mua nhà, chiếm chưa tới 0,2% so với nhu cầu, theo Bộ Xây dựng.

Tại điều 126 Luật Nhà ở, đối tượng người Việt Nam định cư ở nước ngoài được quyền sở hữu nhà ở trong nước chỉ được nêu gói gọn trong hai khoản: Khoản 1 bao gồm người về nước đầu tư, người có công với đất nước, người hoạt động văn hóa, khoa học thường xuyên tại Việt Nam, người hồi hương và các đối tượng khác do Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định; Khoản 2 bao gồm các đối tượng khác đã về Việt Nam cư trú với thời hạn được cấp phép từ sáu tháng trở lên.

Đến lượt Nghị định 90/2006 hướng dẫn thi hành Luật Nhà ở, điều 65 nêu định nghĩa người Việt Nam định cư ở nước ngoài là “công dân Việt Nam” hoặc “người gốc Việt Nam” cư trú, làm ăn sinh sống lâu dài ở nước ngoài theo quy định của Luật Quốc tịch Việt Nam.

Tuy nhiên, sau khi nêu định nghĩa, ở các nội dung sau đó, nghị định này không có sự phân biệt nào giữa “công dân Việt Nam” hay “người gốc Việt Nam” bằng cách chỉ dùng chung một khái niệm theo Luật Nhà ở là “người Việt Nam định cư ở nước ngoài”, và đương nhiên người tham khảo luật tự hiểu luật không phân biệt giữa “công dân Việt Nam” và “người gốc Việt Nam”.

Sự phân biệt xuất hiện trong Nghị định 90 đó là giữa người Việt Nam định cư ở nước ngoài “không bị hạn chế về số lượng nhà ở được sở hữu” (khoản 4 điều 65) với người Việt Nam định cư ở nước ngoài chỉ “được sở hữu một nhà ở riêng lẻ hoặc căn hộ” (khoản 5 điều 65).

Theo đó, đối tượng thứ nhất gồm những người được quy định tại khoản 1 điều 126 của Luật Nhà ở và đối tượng thứ hai là những người còn lại, được quy định tại khoản 2 điều 126 Luật Nhà ở.Với cách diễn đạt này của nghị định, Bộ Tư pháp hiểu là chỉ những đối tượng quy định tại khoản 1 điều 126 Luật Nhà ở mới được sở hữu nhà ở tại Việt Nam giống như công dân trong nước.

Trong khi Bộ Xây dựng thì cho rằng quy định tại khoản 1 điều 126 Luật Nhà ở chỉ áp dụng đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài gốc Việt Nam, còn những người Việt Nam định cư ở nước ngoài là công dân Việt Nam thì đương nhiên được hưởng những quyền lợi và nghĩa vụ như công dân trong nước, vì Hiến pháp không phân biệt công dân sống trong nước với công dân sống ở nước ngoài.

Tuy nhiên, theo Bộ Xây dựng, việc này không được nêu rõ ràng, cụ thể trong luật khiến các địa phương thiếu cơ sở thực hiện, làm hạn chế số lượng nhà bán ra cho Việt kiều.

Do đó, tại Tờ trình về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 90 trình Chính phủ hồi tháng 3-2008, Bộ Xây dựng đã kiến nghị sửa đổi điều 65 theo hướng phân biệt rõ ba trường hợp: (1) người Việt Nam định cư ở nước ngoài là công dân Việt Nam (có quốc tịch Việt Nam, theo Luật Quốc tịch Việt Nam) thì được sở hữu nhà ở như người Việt ở trong nước, tức không hạn chế về số lượng nhà ở; (2) người Việt Nam định cư ở nước ngoài là người gốc Việt (không có quốc tịch Việt Nam nhưng chứng minh được là đã từng có quốc tịch Việt Nam, hoặc có cha mẹ đẻ, ông bà nội, ngoại đang có hoặc từng có quốc tịch Việt Nam, theo Luật Quốc tịch Việt Nam) thuộc nhóm đối tượng quy định tại khoản 1 điều 126 Luật Nhà ở thì được sở hữu nhà ở tại Việt Nam như người Việt ở trong nước; (3) người Việt Nam định cư ở nước ngoài là người gốc Việt không thuộc các nhóm đối tượng quy định tại khoản 1 điều 126 Luật Nhà ở thì chỉ được sở hữu một nhà ở riêng lẻ hoặc một căn hộ.

Bản dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung do Bộ Xây dựng soạn thảo cũng đã mất khá nhiều thời gian tham khảo ý kiến đóng góp và nhận được sự đồng tình cao của các bộ ngành liên quan, bao gồm ý kiến thẩm định của Bộ Tư pháp trước khi trình Chính phủ hồi năm ngoái, đã được Ủy ban Thường vụ Quốc hội thảo luận trong các phiên họp vào trung tuần tháng trước và đang được các đại biểu Quốc hội họp bàn tại kỳ họp Quốc hội đang diễn ra.

Thực ra, những kiến nghị điều chỉnh, bổ sung trong bản dự thảo không phải sự đột phá gì to tát mà chủ yếu chỉ góp phần làm rõ ràng, cụ thể hơn những nội dung của Nghị định 90/2006 với mong muốn cải thiện hiệu quả việc thực thi luật pháp trong thực tế, đồng thời tìm kiếm một sự thống nhất khả dĩ giữa luật và nghị định hướng dẫn thi hành luật.

Thông tin gần đây nhất được đăng tải trên các phương tiện truyền thông cho thấy có hai đối tượng được mở rộng nhưng theo giới quan sát, các đối tượng này không “quá rộng” như một số người e ngại và cũng không tạo ra sự thay đổi lớn về số lượng Việt kiều được sở hữu nhà ở so với các quy định trước đó.

Bên cạnh đó, chuyện cần bàn về hai đối tượng mới xem ra cũng khá đơn giản.(1) “Người gốc Việt Nam có chuyên môn kỹ năng đặc biệt mà Việt Nam có nhu cầu”. Đối tượng này có điều kiện tương đồng với nhóm đối tượng là “nhà văn hóa, nhà khoa học về hoạt động thường xuyên tại Việt Nam” để được xếp vào diện ưu đãi, không hạn chế số lượng nhà được sở hữu; (2) “Người gốc Việt Nam có vợ hoặc chồng là công dân Việt Nam đang sinh sống ở trong nước”.

Thực ra, nếu gọi đây là diện mở rộng thì chỉ là mở rộng cho những người gốc Việt không có điều kiện chứng minh mình là gốc Việt. Nếu chiếu theo tinh thần của Luật Nhà ở là nhằm tạo điều kiện về chỗ ở cho Việt kiều khi về nước thì đối tượng này nhiều khả năng thuộc nhóm chỉ được sở hữu một căn nhà riêng lẻ hoặc căn hộ.

Xét cả câu chuyện về việc cần điều chỉnh đối tượng người Việt Nam định cư ở nước ngoài được sở hữu nhà ở trong nước có vẻ như chỉ là vấn đề giải quyết sự rối rắm của từ ngữ, của sự thiếu rõ ràng trong các văn bản pháp quy vốn là nhược điểm cố hữu của các bộ luật. Nhược điểm này không chỉ tạo ra cách hiểu thiếu thống nhất mà còn gây lãng phí thời gian, công sức của nhiều người bàn thảo, họp hành, chỉnh sửa.

Chứ nếu ngay từ đầu, luật diễn đạt rõ ràng như quan điểm và lập luận của Bộ Xây dựng trong dự thảo nghị định sửa đổi, bổ sung thì có thể đối tượng Việt kiều được sở hữu nhà đã không bị giới hạn như thực tế thời gian qua.

Tại kỳ họp Quốc hội lần này, người dân còn hướng sự quan tâm vào hai vấn đề: (1) Mức độ đồng thuận của các đại biểu về “độ mở” đối với quyền sở hữu nhiều nhà ở dành cho Việt kiều và “độ hạn chế” các quyền sử dụng đất của họ như quyền chuyển nhượng, bảo lãnh bằng tài sản, góp vốn, được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất... Một số đại biểu nêu quan điểm không cho phép bất kỳ diện Việt kiều nào được mua hai căn nhà, sợ phát sinh tệ nạn đầu cơ, sợ thị trường bất động sản sẽ bị náo loạn.

Tuy nhiên, hãy cứ thử nhìn vào giá nhà đất trong nước và cách tiêu xài của phần lớn kiều bào so với số đông người thu nhập cao ở trong nước, chắc nhiều người cũng đồng tình là nên tìm cách ngăn chặn nạn đầu cơ ở trong nước trước đã! Mặt khác, có ý kiến cho rằng việc hạn chế một số quyền của Việt kiều liên quan đến đất đai là điều không nên, nó thể hiện sự phân biệt không cần thiết. (2) Luật pháp dù có được chỉnh sửa, hoàn thiện đến đâu mà không cải thiện khâu thực thi pháp luật thì cũng bằng không!

Một ví dụ: Dự thảo điều chỉnh luật lần này đã rút ngắn thời gian cư trú được cấp phép của Việt kiều (một điều kiện để được phép sở hữu nhà) từ sáu tháng xuống còn ba tháng.

Theo Nghị định 90, Bộ Ngoại giao và Bộ Công an được giao phối hợp hướng dẫn cụ thể việc xác minh thời hạn cư trú nhưng đã hơn hai năm, nghe đâu hai bộ này vẫn còn lúng túng việc xác minh theo giấy phép hay theo thực tế, thời hạn cư trú liên tục hay có thể ngắt quãng... Nếu cứ đà này thì dẫu thời hạn là sáu tháng hay ba tháng, ách tắc vẫn hoàn ách tắc!

3. Thêm quyền cho Việt kiều mua nhà tại VN

Ngày 22-5 - 2009, Quốc hội (QH) thảo luận tại tổ về dự án luật sửa đổi, bổ sung điều 126 của Luật Nhà ở và điều 121 của Luật Đất đai. Hầu hết các đại biểu (ĐB) đồng tình với chủ trương “mở cửa” đối với người VN định cư ở nước ngoài được phép sở hữu nhà ở tại VN nhưng nhiều ĐB cho rằng nên mở rộng quyền của kiều bào đối với việc sở hữu nhà ở.

Theo tờ trình của Bộ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Hồng Quân, hiện nay có khoảng hơn 3 triệu người VN định cư ở nước ngoài. Sau gần 3 năm triển khai thực hiện Luật Nhà ở, nay mới có hơn 140 Việt kiều được công nhận quyền sở hữu nhà ở tại VN. Nguyên nhân chính là tại điều 126 của Luật Nhà ở có quy định hạn chế đối tượng thuộc diện được sở hữu nhà ở tại VN. Theo đó, Việt kiều phải thuộc 5 nhóm đối tượng (người về đầu tư lâu dài; người có công với đất nước; nhà văn hóa, nhà khoa học có nhu cầu về hoạt động thường xuyên tại VN; người có nhu cầu về sống ổn định tại VN và người được phép cư trú tại VN từ 6 tháng trở lên) mới được sở hữu nhà ở tại VN. Sự bó hẹp này đã không khuyến khích kiều bào về VN làm việc, sinh sống nên việc sửa đổi là cần thiết.

Đối với điều 121 Luật Đất đai, Chính phủ cũng đề xuất sửa đổi lại theo hướng bổ sung hai quyền đối với Việt kiều mua nhà ở VN, đó là quyền cho thuê và ủy quyền quản lý nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở trong thời gian tạm thời không sử dụng nhà ở.

Theo báo cáo thẩm tra dự án luật sửa đổi, bổ sung điều 126 của Luật Nhà ở và điều 121 của Luật Đất đai, đa số các ý kiến của Ủy ban Kinh tế của QH nhất trí với các nhóm đối tượng được sở hữu nhà ở tại VN theo quy định của dự thảo luật và thống nhất việc bổ sung ba nhóm đối tượng so với quy định, đó là: người có gốc VN; người có gốc VN có chuyên môn, kỹ năng đặc biệt và người gốc VN có vợ hoặc chồng là công dân VN đang sinh sống trong nước.

Tại phiên thảo luận, hầu hết ĐB đều đồng thuận với tờ trình của Chính phủ. Hai ĐB Nguyễn Đăng Trừng và Trần Du Lịch (TPHCM) cho rằng QH nên xem xét việc sửa đổi mở rộng diện được mua nhà của kiều bào nhưng hạn chế quyền được bồi thường khi Nhà nước thu hồi là chưa đúng. “Việt kiều mua nhà ở hợp pháp mà không được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là vô lý, do vậy cần phải bổ sung quyền này” — ĐB Trần Du Lịch đề xuất.

Cùng ngày, QH cũng nghe tờ trình về dự án luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ và luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hóa.

Giảm quy định cư trú còn 3 tháng

Dự thảo dự án luật sửa đổi, bổ sung điều 126 của Luật Nhà ở và điều 121 của Luật Đất đai đề xuất sửa đổi như sau: Người VN định cư ở nước ngoài thuộc các đối tượng sau đây được cơ quan có thẩm quyền của VN cho phép cư trú từ 3 tháng trở lên (trước đó là 6 tháng) thì có quyền sở hữu nhà ở để bản thân và thành viên trong gia đình sinh sống tại VN: Người có quốc tịch VN; người gốc VN thuộc diện người về đầu tư trực tiếp tại VN; người có công đóng góp cho đất nước; nhà văn hóa, khoa học, người có chuyên môn, kỹ năng đặc biệt mà VN có nhu cầu và đang làm việc tại VN; người có vợ hoặc chồng là công dân VN sinh sống trong nước mà có nhà ở thuộc tài sản chung của vợ chồng.

Người gốc VN không thuộc các đối tượng quy định trên nhưng được cơ quan có thẩm quyền của VN cấp giấy miễn thị thực và được phép cư trú tại VN từ 3 tháng trở lên thì có quyền sở hữu một nhà riêng lẻ hoặc một căn hộ chung cư.

 

4. Việt kiều sẽ được mua nhiều nhà?

Việt kiều còn giữ quốc tịch Việt Nam cư trú trong nước từ ba tháng trở lên được mua nhà như công dân trong nước.

Chờ văn bản hướng dẫn Luật Quốc tịch để xác định rõ đối tượng Việt kiều được mua nhà.

Sắp tới, nếu dự án Luật sửa đổi, bổ sung Điều 126 Luật Nhà ở và sửa đổi, bổ sung Điều 121 Luật Đất đai được thông qua thì cánh cửa mua nhà cho Việt kiều sẽ mở ra rất rộng. Tại hội nghị góp ý dự luật này do Đoàn đại biểu Quốc hội TP.HCM tổ chức hôm qua (7-4 - 2009), hầu hết các đại biểu đều đồng tình với sự sửa đổi này.

Mua nhiều nhà: Điều tiết bằng thuế

“Việc mở rộng đối tượng Việt kiều mua nhà trong nước là phù hợp với Luật Quốc tịch mới. Ước tính có khoảng 70% trong ba triệu kiều bào ở nước ngoài được giữ quốc tịch Việt Nam nếu có yêu cầu”. Tiến sĩ Trần Du Lịch, Phó Trưởng đoàn đại biểu Quốc hội TP.HCM, cho biết.

Để được sở hữu nhà ở tại Việt Nam, Việt kiều phải được phép cư trú tại Việt Nam từ ba tháng trở lên. Liệu việc mở rộng đối tượng Việt kiều mua nhà có làm thị trường bất động sản xáo trộn hay không? Các đại biểu đều cho rằng khả năng này khó xảy ra. Theo bà Nguyễn Thị Cẩm Vân - Trưởng phòng Kế hoạch (Sở Tài nguyên và Môi trường TP): “Nếu đầu tư nhà ở tại Việt Nam thì Việt kiều cũng phải lời ăn lỗ chịu vì có phải lúc nào thị trường cũng lên đâu”. Ông Trần Hòa Phương, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Về người Việt Nam ở nước ngoài TP, đồng tình: “Đối với người có khả năng mua được nhiều nhà, pháp luật có thể điều chỉnh bằng thuế, bằng chính sách”.

Tiến sĩ Đỗ Thị Loan, Tổng Thư ký Hiệp hội Bất động sản TP, phân tích: “Giá nhà ở Việt Nam còn mắc hơn ở Mỹ và không phải người Việt Nam ở nước ngoài nào cũng đủ điều kiện để mua nhà trong nước. Do đó, đừng sợ xáo trộn thị trường”. Bà Loan dẫn chứng ở các nước như Mỹ, Singapore, Malaysia..., người trong nước hay người ngoại quốc đều dễ dàng mua được nhà và được vay ngân hàng với lãi suất ưu đãi. Việc thu hút đồng vốn đổ vào bất động sản cũng là liều thuốc kích thích nền kinh tế phát triển. Bà Loan đề nghị bất kỳ ai có nhu cầu mua nhà thì nên mở cửa cho họ mua. Trong tương lai, nếu thị trường bất động sản có phát sinh “sốt” do đối tượng Việt kiều hay người nước ngoài đầu cơ gây nên thì nhà nước có thể xem xét điều chỉnh lại luật.

Cần sớm hướng dẫn Luật Quốc tịch mới (Luật Quốc tịch mới đã được ban hành - CIVILLAWINFOR)

“Bà con kiều bào rất mừng trước khả năng được mua nhà trong nước. Dù đi đâu tâm lý ai cũng muốn cuối đời được trở về quê cha đất tổ. Tuy nhiên, việc mua nhà của Việt kiều có liên quan đến Luật Quốc tịch (theo dự luật trên, người có quốc tịch Việt Nam được mua nhà trong nước - PV). Do đó, nếu không có văn bản hướng dẫn Luật Quốc tịch thì sẽ có nhiều vướng mắc” - ông Trần Hòa Phương nói. Theo ông Phương, dù dự luật có nêu ra ba nhóm đối tượng được mua nhà nhưng có nhiều trường hợp không rõ sẽ được xử lý ra sao.

Ông Phương dẫn chứng: Một người gốc gác ở Lạng Sơn được sinh ra ở nước ngoài, cha mẹ đã chết. Vậy những trường hợp không có giấy tờ gì chứng minh mình là người Việt Nam như vậy có được xem là “người có gốc Việt Nam” như dự luật không? Ngoài ra, đến ngày 1-7 tiến hành đăng ký lại quốc tịch cho kiều bào ở nước ngoài, nếu kiều bào về nước thì đăng ký ở đâu? Để điều luật đi vào cuộc sống còn cần đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính hơn nữa. Ông Phương kể: “Vừa rồi một bà cụ trên 80 tuổi đến chỗ tôi cứ ngồi khóc. Bà cụ sinh sống ở Pháp đã mấy chục năm nhưng vẫn đang mang quốc tịch Việt Nam. Cụ bảo cụ mua một căn hộ của Hoàng Anh Gia Lai, tiền đã đóng rồi nhưng không được đứng tên vì thủ tục khó khăn quá”. Ông Phương kết luận: “Có giảm các thủ tục hành chính thì kiều bào hồi hương mới yên tâm mua nhà”.

Ông Phương cũng cho rằng dự luật nêu điều kiện Việt kiều phải được phép cư trú tại Việt Nam từ ba tháng trở lên là hơi khắt khe. “Ít ai đáp ứng được điều kiện này, trừ người già về định cư hẳn tại Việt Nam. Đối tượng có khả năng đặc biệt (nhà khoa học, nhà văn hóa...) mỗi lần đi về công tác họ chỉ ở được khoảng một, hai tuần. Theo tôi, cần xem xét lại thời hạn này” - ông nói.

Có cho Việt kiều mua đất ở?

Để phù hợp sự sửa đổi Điều 126 Luật Nhà ở thì Điều 121 Luật Đất đai về quyền và nghĩa vụ sử dụng đất ở của Việt kiều được sở hữu nhà ở tại Việt Nam cũng phải được sửa đổi cho tương thích. Tuy nhiên, dự luật ghi “Người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuộc các đối tượng quy định (...) có quyền sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất tại Việt Nam”. Theo bà Nguyễn Thị Cẩm Vân, Trưởng phòng Kế hoạch (Sở Tài nguyên và Môi trường TP), như vậy có thể hiểu Việt kiều chỉ được mua nhà ở chứ không được mua đất ở. Trong khi đó, có nhiều trường hợp muốn mua đất của các dự án nhà ở rồi sau đó mới tự xây nhà. Vậy trường hợp này có được cho phép không?

Cũng để tương thích cho việc sửa đổi Điều 126 Luật Nhà ở, bà Võ Thị Kim Hoàng - Phó phòng Cấp chủ quyền nhà (Sở Xây dựng TP) cho rằng phải sửa đổi cả Điều 12 Luật Nhà ở vì có liên quan với nhau. Điều 12 Luật Nhà ở quy định: “Trường hợp có vợ hoặc chồng không thuộc diện được sở hữu nhà ở tại Việt Nam theo quy định của pháp luật thì chỉ ghi tên người có quyền sở hữu nhà ở tại Việt Nam”. Bà Hoàng kiến nghị hiện có rất nhiều Việt kiều đang có nhà ở tại Việt Nam nhưng họ không đứng tên trên giấy chủ quyền. Trong đó có nhiều trường hợp nhà xây cất từ trước năm 1975 chưa có giấy tờ. Do đó, ngoài việc mở rộng đối tượng được sở hữu nhà ở tại Việt Nam, dự luật cũng nên mở rộng luôn hình thức sở hữu.

(Trích dự án Luật sửa đổi, bổ sung Điều 126 Luật Nhà ở và sửa đổi, bổ sung Điều 121 Luật Đất đai)

5. Việt kiều sở hữu nhà tại Việt Nam: Không nên “mở” trước, “thắt” sau

Mặc dù đã qua nhiều lần bàn thảo, lấy ý kiến, tiếp thu, chỉnh sửa theo hướng mở rộng đối tượng cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài được sở hữu nhà tại Việt Nam, song “mở” đến đâu, “ thắt” thế nào vẫn là vấn đề gây nhiều tranh cãi xung quanh dự án luật sửa đổi bổ sung điều 126 của Luật Nhà ở.

“Mở” đến mức nào?
So với quy định hiện hành, dự thảo luật mở rộng hơn về đối tượng được sở hữu nhà ở tại Việt Nam. Đối tượng được sở hữu nhiều nhà ở cũng tăng lên.
Theo đó, người được quyền sở hữu nhà ở như công dân trong nước (tức là không hạn chế số lượng) là người Việt Nam định cư ở nước ngoài có quốc tịch Việt Nam; người gốc Việt Nam thuộc 5 diện: về đầu tư lâu dài tại Việt Nam; có công đóng góp với đất nước; nhà văn hóa, nhà khoa học mà Việt Nam có nhu cầu; người có kỹ năng đặc biệt mà Việt Nam có nhu cầu; người kết hôn với công dân ở trong nước.
Tại cuộc họp của Thường trực Hội đồng Dân tộc và các ủy ban của Quốc hội sáng 10/3, Thứ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Trần Nam thông tin: nếu theo quy định của dự thảo thì sẽ có khoảng 2 triệu trong số hơn 3 triệu người Việt Nam đang định cư ở nước ngoài có thể sở hữu nhiều nhà ở như người trong nước.
Tuy nhiên, nếu “khuôn” lại đối tượng là những người được cấp hộ chiếu thì sẽ giảm xuống khoảng 750 ngàn người, ông Nam nói.
Giải trình này chưa làm các vị đại biểu Quốc hội yên tâm.
Theo Phó chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội, ông Ngô Quang Xuân, thì việc xin hộ chiếu rất dễ, nhất là khi gần đây quy định đã thông thoáng hơn. Vậy nên việc sở hữu nhà phải có sự phân biệt, nhưng phân biệt công bằng, có “khóa” nhưng mà “lỏng”.
Phó chủ tịch Quốc hội Uông Chu Lưu cũng cho rằng, phạm vi sửa đổi của luật như vậy hơi quá rộng so với điều kiện thực tế của nước ta. Việc quy định phải có hộ chiếu cũng không chặt chẽ, không hợp lý, vì hộ chiếu có thời hạn. Nhiều nước trên thế giới cũng có hạn chế về số lượng nhà được sở hữu chứ không phải nước nào cũng sở hữu thoải mái.
Đại biểu Nguyễn Minh Thuyết, Phó chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng của Quốc hội phát biểu: mục đích sửa luật để làm gì? Nếu là để tập hợp kiều bào tham gia đóng góp xây dựng đất nước thì mỗi người chỉ cần sở hữu một nhà là đủ. Không nên “mở” trước “thắt” sau, ông Thuyết góp ý.

Không sợ dài, chỉ sợ không minh bạch

Tuy chỉ đặt vấn đề sửa một điều của Luật Nhà ở, song hầu hết ý kiến thảo luận cho rằng dự thảo luật hơi “ tiết kiệm” câu chữ nên còn nhiều điều chưa rõ ràng, chưa minh bạch, gây nên những băn khoăn, thắc mắc.
Nhiều đại biểu đặt câu hỏi: luật quy định người gốc Việt Nam cư trú tại Việt Nam từ ba tháng trở lên có quyền sở hữu một nhà ở riêng lẻ hoặc một căn hộ chung cư tại Việt Nam, vậy một lần ở liền ba tháng hay tổng cộng nhiều lần đủ ba tháng?
Hay “người có kỹ năng đặc biệt” là thế nào?
Hay người gốc Việt Nam kết hôn với công dân Việt Nam ở trong nước có quyền sở hữu nhà tại Việt Nam, thế kết hôn xong sang Mỹ ở thì có được mua nhà không?
Phó chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Kiên nhắc nhở: đừng sợ luật dài, nếu sửa điều 126 mà không chứa đựng nổi hết các vấn đề thì có thể thêm điều 126a; đừng tiết kiệm từ, luật càng rành mạch càng tốt.
Cái gì đưa được vào trong luật thì đưa đến mức tối đa, nghị định chỉ hướng dẫn cái gì luật bảo hướng dẫn thôi, Phó chủ tịch nhấn mạnh.
Thường trực Ủy ban Kinh tế đề nghị quy định thời điểm có hiệu lực của luật từ ngày 1/9/2009 thay vì 1/7/2009 như đề nghị.

6. Việt kiều sở hữu nhà ở tại VN: Cho sở hữu mà hạn chế quyền là phi lý

Chiều qua (22-5 - 2009), đại biểu QH thảo luận ở tổ về dự án Luật sửa đổi, bổ sung Điều 126 Luật Nhà ở và Điều 121 Luật Đất đai về nội dung quyền sử dụng đất, sở hữu nhà ở cho Việt kiều.

Luật sư Nguyễn Đăng Trừng (TP.HCM) cho rằng dự luật quy định Việt kiều khi sở hữu nhà không được hưởng một số quyền như cho thuê lại, góp vốn, đem bảo lãnh, bồi thường khi nhà nước thu hồi đất... là phi lý. “Tôi đề nghị đã cho sở hữu thì phải công nhận mọi quyền lợi cho người ta” - ông Trừng nói.

Tuy nhiên, theo quan điểm của TS Trần Du Lịch (TP.HCM), mục đích của luật này là tạo điều kiện cho bà con có nhà ở khi về Việt Nam chứ không khuyến khích kinh doanh. “Vì vậy, có thể quy định họ không có một số quyền như cho thuê lại, góp vốn... vì nó liên quan đến mục đích kinh doanh. Nhưng không thể từ chối quyền được bồi thường khi nhà nước thu hồi. Năm nay người ta bỏ tiền ra mua nhà, đất, có khi cái nhà đó chỉ là nhà cấp bốn, còn đất mới có giá trị lớn, năm sau nhà nước giải tỏa thì người ta mất trắng à?” - ông Lịch thắc mắc.

Về việc kiều bào được sở hữu một hay nhiều nhà, Giám đốc Sở Tư pháp TP.HCM Ngô Minh Hồng nêu quan điểm: “Tôi nghĩ rằng nếu chúng ta dè dặt thì nên quy định tất cả đối tượng chỉ được sử dụng một nhà để ở chứ không nên chia ra các loại đối tượng khác nhau và quy định có loại thì chỉ được mua một nhà, còn loại đối tượng khác thì để mở. Sau này, pháp luật về kinh doanh bất động sản, thuế nhà đất, thuế thu nhập cá nhân... hoàn thiện hơn thì chúng ta sẽ mở ra. Quy định chỉ được sở hữu một nhà cũng phù hợp với chính sách “dùng để ở” như dự luật nêu”.

7. Việt kiều chỉ được mua nhà tại Việt Nam để ở?

Ngày 22/5/2009, sau khi nghe Chính phủ trình dự án luật sửa đổi, bổ sung điều 126 của Luật Nhà ở và điều 121 của Luật Đất đai, Quốc hội đã thảo luận ở tổ về nội dung này.

Trước khi trình Quốc hội, dự án luật chỉ gồm hai điều và có độ dài chưa đến hai trang này đã được “mổ xẻ” kỹ lưỡng ở nhiều diễn đàn. Thảo luận tại phiên họp Ủy ban Thường vụ Quốc hội tháng 4 vừa qua, một số ý kiến vẫn lo ngại về sự “ mở toang” của dự luật này.
Theo dự luật đã được chỉnh sửa để trình Quốc hội lần này có thêm ba nhóm đối tượng được bổ sung so với quy định hiện hành, đó là:người có quốc tịch Việt Nam; người gốc Việt Nam có chuyên môn, kỹ năng đặc biệt; người gốc Việt Nam có vợ hoặc chồng là công dân Việt Nam đang sinh sống ở trong nước.
Về số lượng nhà ở, theo Chính phủ, để tránh hiện tượng đầu cơ, mua nhiều nhà nhằm mục đích kinh doanh, dự án luật đã quy định rõ người Việt Nam định cư ở nước ngoài chỉ được sở hữu nhà để bản thân và các thành viên trong gia đình sinh sống tại Việt Nam.
Liên quan đến việc sửa đổi, bổ sung Điều 121 của Luật Đất đai, theo Bộ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Hồng Quân, so với quy định hiện hành thì người Việt Nam định cư ở nước ngoài sẽ có thêm hai quyền về sử dụng đất ở gắn với nhà ở (quyền cho thuê và uỷ quyền quản lý nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở trong thời gian tạm thời không sử dụng nhà ở).
Nhưng so với công dân Việt Nam ở trong nước thì các đối tượng này bị hạn chế hơn ở một số quyền, đó là quyền góp vốn và quyền bảo lãnh bằng tài sản là nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất. Theo thẩm tra của Ủy ban Kinh tế thì các đối tượng này cũng không được quyền bồi thường khi nhà nước thu hồi đất.
Đồng tình với sự cần thiết sửa luật, song nhiều đại biểu còn băn khoăn về độ “thắt, mở” của các quy định cụ thể. Bên cạnh các ý kiến đề nghị người Việt định cư ở nước ngoài sở hữu nhà ở Việt Nam cũng có đầy đủ quyền về nhà ở như công dân trong nước vẫn còn không ít ý kiến băn khoăn, lo ngại.
Theo đại biểu Nguyễn Ngọc Đào (Hà Nội) thì luật này chưa sửa đổi đến cùng của vấn đề, cứ “mở ra rồi lại trói vào”.Vị đại biểu này nhận định, cứ bỏ mọi hạn chế thì may ra vài năm nữa mới có nhiều người mua nhà, vì “đất đắt đến mức độ không tưởng tượng được”.
Đại biểu Phạm Thị Loan (Hà Nội) cũng nhất trí khi đã cho mua nhà thì phải có đầy đủ quyền, đặc biệt là quyền bồi thường khi nhà nước thu hồi, nếu không có cái quyền đó thì “cực kỳ nguy hiểm”. Một số ý kiến thuộc đoàn Tp.HCM cũng cho rằng không được quyền bồi thường thì “kỳ quá”.
Tuy nhiên, cũng có vị đại biểu tâm tư: “Tôi nhận điện thoại của cử tri có lúc đến 1 tiếng đồng hồ, họ không đồng ý việc Quốc hội tới đây thông qua việc cho Việt kiều mua nhà”.

SOURCE: TUỔI TRẺ, PHÁP LUẬT TPHCM, THỜI BÁO KINH TẾ VIỆT NAM, NGƯỜI LAO ĐỘNG

Bài đăng phổ biến