Hiển thị các bài đăng có nhãn CHÍNH SÁCH VÀ PHÁP LUẬT VỀ SỞ HỮU TRÍ TUỆ. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn CHÍNH SÁCH VÀ PHÁP LUẬT VỀ SỞ HỮU TRÍ TUỆ. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Hai, 6 tháng 7, 2009

HỘI NHẬP QUỐC TẾ VÀ ĐỔI MỚI CƠ CHẾ THỰC THI, BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ Ở VIỆT NAM

LÊ XUÂN THẢO

Theo đánh giá của các đối tác kinh tế quan trọng, Việt Nam đã và đang có nhiều nỗ lực trong việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về sở hữu trí tuệ nhưng vấn đề thực thi đang cần một lộ trình và giải pháp phù hợp.

1- Sự cần thiết của việc bảo hộ quốc tế các quyền sở hữu trí tuệ trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế

Ngày 11-1-2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Điều này mở ra cơ hội to lớn trong việc phát triển kinh tế đất nước nhưng chúng ta phải đối mặt với nhiều thách thức đặc biệt là tuân thủ các cam kết quốc tế về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Việc bảo hộ các quyền sở hữu trí tuệ trước hết là do nhu cầu của sự phát triển và giao lưu quốc tế, đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hoá, khu vực hoá về kinh tế, thương mại diễn ra ngày càng sôi động. Bảo hộ quốc tế quyền sở hữu trí tuệ là một hoạt động có tính tất yếu, khách quan, không ngừng được phát triển, thể hiện trên hai hướng: mở rộng phạm vi các đối tượng được bảo hộ bằng các thiết chế quốc tế và không ngừng chi tiết hoá nội dung bảo hộ. Điều này, ngày càng gắn chặt với quan hệ thương mại song phương, khu vực và toàn cầu. Việc gắn bảo hộ sở hữu trí tuệ với thương mại quốc tế, một mặt, sẽ tạo điều kiện để có những cơ chế bảo hộ quốc tế hữu hiệu hơn về sở hữu trí tuệ, mặt khác, cũng sẽ gây ra rất nhiều sức ép và khó khăn cho các nước có trình độ khoa học công nghệ thấp, đang trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực hay toàn cầu phải thực thi các cam kết quốc tế về sở hữu trí tuệ.

2- Vấn đề thực thi và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực

Việc hội nhập sâu hơn vào các quá trình kinh tế quốc tế được coi là một trong những nhiệm vụ chiến lược cấp bách và có tầm quan trọng hàng đầu hiện nay của Nhà nước ta. Sau hơn 20 năm đổi mới, đến nay Nhà nước ta đã thiết lập được một hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ khá đầy đủ. Xét ở phương diện lập pháp, hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của Việt Nam không khác biệt nhiều lắm so với các hệ thống hiện có tại nhiều nước, kể cả các nước phát triển.

Cho đến nay, Việt Nam đã tham gia các điều ước quốc tế quan trọng cũng như đã ký kết các điều ước quốc tế song phương về quyền sở hữu trí tuệ như Công ước Paris. Hệ thống pháp luật trong nước về bảo hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ ngày càng hoàn thiện. Một số điều ước quốc tế đa phương khác mà Việt Nam đã và sẽ tham gia là: Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học (Việt Nam tham gia từ năm 2004); Công ước Paris về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp (Việt Nam tham gia từ ngày 8-3-1949); Công ước Rome về bảo hộ người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, tổ chức phát sóng; Thoả ước Madrid về đăng ký quốc tế nhãn hiệu hàng hóa, Việt Nam tham gia từ ngày 8-3-1949 và Nghị định thư liên quan đến Thoả ước Madrid (tham gia tháng 10/2006); Hiệp ước Hợp tác Patent (PCT) được ký tại Washington năm 1970 (Việt Nam tham gia từ ngày 10-3-1993); Thoả ước Lahay về Đăng ký quốc tế kiểu dáng công nghiệp; Hiệp ước luật nhãn hiệu hàng hoá được thông qua ngày 27-10-1994 tại Geneva: Hiệp ước Budapest về sự công nhận quốc tế đối với việc nộp lưu chủng vi sinh: Công ước quốc tế về bảo hộ giống cây trồng mới (Công ước UPOV); Hiệp ước Washington về sở hữu trí tuệ đối với bố trí mạch tích hợp; Hiệp định thương mại về Quyền Sở hữu trí tuệ (TRIPS) trong hệ thống các hiệp định của WTO; Công ước thành lập Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) bắt đầu có hiệu lực từ năm 1970 (Việt Nam trở thành thành viên của WIPO từ ngày 02-07-1976)...

Tuy nhiên, xét về tính hiệu quả, hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của Việt Nam đang đứng trước những thách thức và đòi hỏi lớn, cần được tiếp tục hoàn thiện. Việc đổi mới tổ chức, cơ chế và phương thức bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam phải được giải quyết trên cơ sở phân tích một cách khách quan thực trạng hệ thống bảo hộ sở hữu trí tuệ hiện có, rút ra những nguyên nhân, đánh giá các ưu điểm và nhược điểm của hệ thống này và kinh nghiệm quốc tế; từ đó đề xuất các giải pháp nâng cao và hoàn thiện cơ chế thực thi quyền sở hữu trí tuệ cũng như toàn bộ hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở nước ta.

3- Thực thi các điều ước quốc tế về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và những vấn đề đặt ra đối với hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ Việt Nam

Những nội dung cơ bản thể hiện phạm vi điều chỉnh của TRIPS cũng như những điểm mới, tiến bộ của TRIPS và WTO so với các điều ước quốc tế, đó là: về nguyên tắc, WTO (TRIPS) đưa ra những giới hạn tối thiểu trong lĩnh vực bảo hộ sở hữu trí tuệ. Các quốc gia có thể có cơ chế bảo hộ rộng hơn các quy định của TRIPS theo hướng có lợi cho các chủ thể của quyền, nhưng không hẹp hơn. TRIPS tham gia bảo hộ hầu hết các đối tượng của sở hữu trí tuệ như đối với quyền tác giả, và các quyền có liên quan, bên cạnh việc chấp nhận các quy định của Công ước Berne, TRIPS đã có thêm những điểm khác, tiến bộ. Trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp, TRIPS cũng có những điểm hoàn thiện hơn nhiều so với Công ước Paris 1967...

Các quy định của TRIPS về các biện pháp bảo đảm thực thi quyền sở hữu trí tuệ có nhiều điểm khác hẳn, tiến bộ hơn so với các điều ước quốc tế về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đã tồn tại từ trước đó. Các biện pháp bảo đảm thực thi mà TRIPS đưa ra bao gồm cả các biện pháp có tính chất hành chính, dân sự, hình sự và cả các biện pháp thực thi tại biên giới. TRIPS áp dụng cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại đa phương nói chung của WTO, tạo ra sự ràng buộc chung trong việc tôn trọng tất cả các hiệp định thương mại đa phương của WTO. Người có quyền về sở hữu trí tuệ được tạo điều kiện để dựa vào pháp luật nhằm có được các quyền và lợi ích hợp pháp đối với tài sản sở hữu trí tuệ và sự bảo đảm là khi quyền và lợi ích đó bị xâm phạm thì sẽ có cơ chế hữu hiệu ngăn chặn và xử lý thích đáng sự xâm phạm đó.

4- Pháp luật Việt Nam đáp ứng các yêu cầu của TRIPS

Ngày 29-11-2005, Quốc hội đã thông qua Luật Sở hữu trí tuệ, ngày 21 và 22-9-2006, Chính Phủ đã ban hành các Nghị định hướng dẫn thực hiện Luật Sở hữu trí tuệ. Như vậy, đối với yêu cầu chung, Việt Nam đã có các quy định về thủ tục và chế tài, kể cả biện pháp khẩn cấp tạm thời. Các thủ tục đều đúng đắn, công bằng, cũng không quá phức tạp và không quá tốn kém; mọi quyết định xử lý đều dựa vào bản chất vụ việc và được làm thành văn bản; quyền khiếu kiện hành chính (cần sửa đổi quy định về quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng để bảo đảm quyền khiếu kiện tại toà án).

- Các thủ tục tố tụng dân sự và hành chính: Các biện pháp hành chính đã đầy đủ.

- Các biện pháp và thủ tục dân sự về cơ bản đáp ứng yêu cầu của TRIPS.

- Các biện pháp khẩn cấp tạm thời: Các quy định đã đáp ứng về cơ bản yêu cầu của TRIPS...

- Biện pháp kiểm soát biên giới: Các quy định đã đáp ứng về cơ bản yêu cầu của TRIPS... Tuy nhiên, còn thiếu hướng dẫn cụ thể của Chính Phủ và cơ quan có thẩm quyền để thực thi.

- Các thủ tục hình sự: Các quy định đã đáp ứng về cơ bản yêu cầu của TRIPS...

Ở Việt Nam hiện nay, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ và vi phạm pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ngày càng có dấu hiệu trở thành phổ biến, và, mức độ phức tạp, nghiêm trọng của tình hình xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ ngày càng có dấu hiệu gia tăng. Nhìn chung, bức tranh toàn cảnh của hoạt động thực thi và bảo đảm thực thi quyền sở hữu trí tuệ vẫn còn nhiều điểm tối. Những người có quyền hưởng quyền sở hữu trí tuệ chỉ tạo ra tác phẩm nhưng chưa quan tâm thực sự đến việc bảo vệ quyền của mình thông qua cách đăng ký bảo hộ tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Các thiết chế hỗ trợ thực thi quyền sở hữu trí tuệ chưa thật sự vào cuộc. Nhiều tổ chức hiệp hội chưa nhận thức được sự cần thiết phải đứng ra bảo vệ quyền lợi của các thành viên, ý thức chấp hành pháp luật của phần lớn nhân dân trong xã hội chưa cao. Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền chưa quan tâm đúng mức đến việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Việc xử lý các hành vi vi phạm của các cơ quan, tổ chức chưa được thực hiện một cách nghiêm túc. Cơ chế phối hợp giữa các cơ quan chưa đồng bộ, thiếu kinh nghiệm và chưa đủ mạnh mẽ về chuyên môn cũng như các phương tiện cần thiết để có khả năng xử lý các vi phạm một cách hữu hiệu. Vai trò các cơ quan thực thi pháp luật chưa được phát huy một cách có hiệu quả. Việc xét xử các tranh chấp về quyền tác giả và quyền sở hữu công nghiệp tại Toà án chiếm tỷ lệ khiêm tốn so với các tranh chấp xảy ra trong thực tế. Những tồn tại trên có nguyên nhân chính là do: cơ chế bảo đảm thực thi chưa hoàn thiện, chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tế; phương thức tổ chức các hoạt động và sự phối hợp của các thiết chế trong hệ thống bảo đảm thực thi chưa thực sự hiệu quả; sự hiểu biết và ý thức pháp luật của cộng đồng xã hội đối với vấn đề của bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ còn nhiều hạn chế; bản thân các chủ thể hưởng quyền sở hữu trí tuệ chưa thực sự tích cực, chủ động trong việc bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của mình...

5- Hoàn thiện pháp luật thực thi sở hữu trí tuệ trong lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế cần tập trung vào một số công việc cụ thể

Hoàn thiện cơ chế bảo đảm thực thi quyền sở hữu trí tuệ trong pháp luật dân sự. Hoàn thiện các quy định về việc xác định các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ; nâng cao vai trò của Toà án dân sự trong việc giải quyết các tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ. Xây dựng hệ thống các tiêu chuẩn thực thi quyền sở hữu trí tuệ một cách kịp thời và có hiệu quả. Xác định rõ thẩm quyền vụ việc của Toà án trong việc xét xử các tranh chấp về sở hữu trí tuệ, bổ sung những quy định chi tiết về các chế tài đủ mạnh để chống lại các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, tham khảo một số biện pháp khẩn cấp tạm thời đã được áp dụng trong thực tiễn giải quyết tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ ở một số nước trên thế giới.

Hoàn thiện cơ chế bảo đảm thực thi quyền sở hữu trí tuệ trong pháp luật hành chính. Chính phủ đã ban hành Nghị định số 106/2006/NĐ-CP, ngày 22/9/2006, quy định xử phạt hành chính về sở hữu công nghiệp; Nghị định 100/2006/NĐ-CP, ngày 21/9/2006, quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Dân sự, Luật Sở hữu trí tuệ thay thế các Nghị định đã hết hiệu lực pháp luật. Quy định theo hướng mở rộng thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính trong bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ cho Tòa án (tương ứng với cơ chế thực hiện quyền khiếu kiện hành chính theo yêu cầu của TRIPS). Xây dựng và ban hành những quy định, hướng dẫn riêng về thủ tục tố tụng và những vấn đề cụ thể, riêng biệt cần được áp dụng trong quá trình giải quyết các khiếu kiện hành chính về sở hữu trí tuệ.

Hoàn thiện cơ chế bảo đảm thực thi quyền sở hữu trí tuệ trong pháp luật hình sự. Ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành các quy định của Bộ luật Hình sự có liên quan tới việc xét xử các vụ án hình sự về xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ.

SOURCE: TẠP CHÍ CỘNG SẢN SỐ 4 (124) NĂM 2007

Thứ Hai, 1 tháng 6, 2009

MỘT SỐ SUY NGHĨ VỀ THƯƠNG HIỆU DOANH NGHIỆP

VÕ HƯƠNG

Thời gian trước đây, khi nói về việc xây dựng và phát triển một doanh nghiệp, người ta hay nói đến mục tiêu tiên quyết là lợi nhuận. Nhưng ngày nay đã có nhiều lập luận được đưa ra phản đối lại quan điểm trên. Nhiều chuyên gia cho rằng nguyên nhân để một doanh nghiệp có thể tồn tại hàng trăm năm, nối tiếng ở hàng trăm quốc gia và giữ được lòng mến mộ của hàng triệu khách hàng, đó là Thương hiệu doanh nghiệp và nó đã trở thành một yếu tố cơ bản nhất quyết định sự tồn tại và phát triển của một doanh nghiệp.

Với Việt Nam, một quốc gia đang phát triển và mới bước vào quá trình hội nhập quốc tế, nhưng các nhà lãnh đạo doanh nghiệp đã nhận ra vai trò của thương hiệu trong sự phát triển của doanh nghiệp. Chính vì lý do đó mà ta có thể tự hào khi nhìn thấy các sản phẩm thương hiệu “cà phê Trung Nguyên” được bày bán nhiều nơi trên thế giới, logo “Vietnam Airline” được nhiều người khách nước ngoài nhận biết, và biểu tượng SSI của Công ty cổ phần chứng khoán Sài Gòn được nhiều nhà đầu tư tài chính nước ngoài biết đến,…

Tuy nhiên, ở một bộ phận doanh nghiệp khác của Việt Nam, việc xây dựng và bảo vệ thương hiệu chưa được quan tâm đúng mức trong chiến lược phát triển của doanh nghiệp. Bài viết này xin được cung cấp một cái nhìn sâu hơn về thương hiệu doanh nghiệp, qua đó có thể đóng góp thêm ý kiến về việc xây dựng và phát triển thương hiệu trong tổng thể chiến lược phát triển doanh nghiệp.

Các phương thức tiếp cận và định nghĩa về Thương hiệu

Thực tế cho thấy, một thương hiệu mạnh và hiệu quả sẽ làm gia tăng sự nhận biết, lòng trung thành của khách hàng, doanh số bán hàng, ‘giữ chân’ nhân viên, và ngay cả giá trị cổ phiếu công ty.

Tuy nhiên, nhận biết về thương hiệu đến mức độ nào và chuyển nhận biết đó trong những hành động hàng ngày là một vấn đề rất phức tạp. Một thương hiệu hiệu quả và tồn tại lâu dài không phải xây lên từ một sự tình cờ, mà nó có thể là một nhiệm vụ quan trọng và khó khăn nhất đối với các công ty ngày nay. Do đó, thương hiệu cần được tiếp cận một cách công phu và tinh vi.

Trước hết, không nên hiểu thương hiệu là một thứ gì đó mà có thể nhìn thấy, nghe thấy và sờ thấy như logo công ty, sản phẩm của công ty hay quảng cáo của công ty. Mà nhiều hơn thế, thương hiệu là sự tổng hợp toàn thể mọi yếu tố của công ty, bao gồm các giá trị, hệ thống, quyết định, nguyên tắc hoạt động, môi trường làm việc, hành vi ứng xử của nhân viên và nhiều yếu tố khác. Thương hiệu được định nghĩa thông qua thái độ và hành vi của doanh nghiệp với khách hàng và các sản phẩm, chứ không đơn giản là những thông điệp chúng ta gửi qua các phương tiện truyền thông đại chúng như logo hay quảng cáo.

Thứ hai, do thương hiệu tồn tại rất độc lập trong tâm trí mỗi người (khách hàng, nhà đầu tư, công chúng), nên thương hiệu cần được hiểu là kết quả của một quá trình trao đổi qua lại giữa họ (khách hàng, nhà đầu tư, công chúng) với các nhân viên, các sản phẩm và dịch vụ của công ty. Cụ thể, các sản phẩm và dịch vụ của bạn khiến công chúng cảm nhận như thế nào? Tác động lẫn nhau giữa công ty và nhân viên có ảnh hưởng đến nhận thức của họ (khách hàng, nhà đầu tư, công chúng) đối với công ty như thế nào? Cái gì thúc đẩy khách hàng mua sản phẩm của công ty? Cái gì khiến họ quay lại mua các sản phẩm của công ty?...

Thứ ba, một thương hiệu mạnh không chỉ đơn thuần là thương hiệu khiến công ty hoặc sản phẩm của nó trở nên khác biệt với công ty khác, mà quan trọng hơn, thông qua thương hiệu đó doanh nghiệp xây dựng được mối quan hệ bền lâu giữa doanh nghiệp với con người. Thương hiệu có thể tác động, thúc đẩy hành vi mong muốn sở hữu sản phẩm của công ty.

Thứ tư, xem xét tới các yếu tố như hội nhập quốc tế đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ, công nghệ phát triển nhanh chóng và kiến thức của dân chúng ngày càng được nâng cao, thì thương hiệu trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.

Với các phương thức tiếp cận như trên, thương hiệu sẽ được hiểu là một tập hợp toàn bộ các yếu tố của công ty, bao gồm (i) các vấn đề cốt lõi của công ty như giá trị công ty, triết lý công ty, nhiệm vụ công ty và niềm tin của công ty (hãy nghĩ đến thương hiệu Johnson & Johnson, công ty đã trung thành tuyệt đối với sứ mệnh mang đến sự chăm sóc chu đáo nhất và an toàn nhất cho trẻ em trên toàn thế giới), (ii) hệ thống tổ chức và vận hành, chính sách, quyết định và nguyên tắc hoạt động, môi trường làm việc và cách ứng xử của nhân viên (hãy nghĩ đến công ty General Electric hoặc IBM, họ cam kết thực hiện công việc ‘professional’ nhất), (iii) các sản phẩm, dịch vụ, lựa chọn, chương trình và kế hoạch đầu tư dành cho khách hàng (hãy nghĩ đến Pepsi hay P&G, họ luôn cố gắng để thoả mãn khách hàng một cách tốt nhất) và nhiều yếu tố khác.

Với Owen D. Young, Cựu Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty General Electric (công ty điện tử hàng đầu thế giới), ông quan niệm “Thương hiệu của công ty có thể là vật chất hữu hình nhỏ nhất, nhưng lại mang giá trị tài sản lớn nhất đối với chúng tôi”. Đây có thể là một cách nhìn ngắn gọn nhất về thương hiệu.

Xây dựng và Phát triển thương hiệu

Nội dung trên đã giới thiệu với người đọc về khái niệm ‘Thương hiệu’ và các yếu tố cấu tạo nên nó. Nhìn nhận đúng đắn các vấn đề trên sẽ giúp chúng ta có chiến lược xây dựng thương hiệu hiệu quả hơn. Vì thương hiệu là toàn bộ những vấn đề cốt lõi và nền tảng của công ty, nên để xây dựng được thương hiệu thì điều đầu tiên ta phải hiểu được các vấn đề gồm: Cơ hội của công ty là gì?, Các nhu cầu của khách hàng là gì? Nên làm gì và không nên làm gì để đáp ứng nhu cầu của khách? Nguồn lực của công ty đến đâu, công ty có khả năng làm tốt công việc đó không hay cần tới nhà cung cấp khác?...

Từ những hiểu biết trên, công ty sẽ có quyết định cho riêng mình về nhiệm vụ, giá trị, niềm tin và sứ mệnh của công ty. Đây cũng là những yếu tố cốt lõi để xây dựng nên thương hiệu.

Dựa trên thiết kế về thương hiệu, công ty sẽ xác định được sản phẩm, dịch vụ, thái độ và hành vi ứng xử của nhân viên nhằm thực hiện sứ mệnh, niềm tin đó.

Khi sản phẩm và dịch vụ hoàn thành, công ty cần tới các kênh truyền thông để quảng bá và phát triển thương hiệu. Tuy nhiên, quá trình phát triển của thương hiệu không phụ thuộc hoàn toàn vào các kênh truyền thông quảng bá, mà nó cần được truyền đạt và thấm nhuần ở tất cả các tầng lớp nhân viên trong công ty và được duy trì trong suốt quá trình phát triển của công ty.

Nguồn tham khảo:

- Thuyết trình “Why? Now? How?: Brand-building in challenging times” của Subha đến từ Tông ty ShiftPartner.

- Tài liệu “Taking down the sign: Would anyone recognize you” của Edelman Change and Employee Engagement Group (2007).

- Tài liệu “Combining CSR with Brand Building” của G-H Bank Housing Journal (2008)

- Tài liệu “Dịch vụ tài chính với hoạt động xây dựng thương hiệu” của Thạc sỹ Ngô Minh Cách, giảng viên Bộ môn Marketing - Học viện Tài chính.

- Thuyết trình của Mindshare về “Truyền thông trong việc xây dựng thương hiệu”.

SOURCE: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC

Trích dẫn từ: http://www.sbv.gov.vn/vn/home/tinnghiencuu.jsp?tin=686

Thứ Sáu, 22 tháng 5, 2009

TĂNG CƯỜNG BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ Ở VIỆT NAM

PGS.TS. PHẠM QUỐCTRUNG

Ngày nay, tri thức đã trở thành một “nguồn của cải mới”, động lực mới tạo ra sự thịnh vượng trong xã hội. Lợi thế cạnh tranh chủ yếu của mỗi nền kinh tế ngày càng phụ thuộc vào khả năng phát triển và ứng dụng khoa học - công nghệ vào sản xuất. Xu thế này đã khẳng định tài sản trí tuệ và quyền sở hữu tài sản trí tuệ ngày càng trở nên quan trọng, bảo hộ sở hữu trí tuệ (SHTT) được xem là một nguyên tắc cơ bản trong sự vận động của nền kinh tế thế giới. Thực tế này cũng đặt ra yêu cầu phải gia tăng mối quan tâm tới vấn đề SHTT cả trên phương diện lý luận lẫn thực tiễn cho mỗi quốc gia nếu muốn tồn tại và hội nhập thành công. 

Vai trò và ý nghĩa của SHTT đối với phát triển kinh tế - xã hội

Có thể khái quát vai trò của SHTT đối với phát triển kinh tế - xã hội trên những khía cạnh sau:

Thứ nhất, SHTT là nhân tố đem lại sự tăng trưởng kinh tế ngoạn mục cho chủ thể sở hữu và xã hội

Nhìn vào lịch sử phát triển của các quốc gia, nhất là các nước công nghiệp phát triển, SHTT được đánh giá là loại tài sản chiếm vị trí quan trọng nhất đối với sự tăng trưởng của đất nước. Với mỗi phát minh, sáng chế ra đời và được bảo hộ, chủ thể sở hữu sản phẩm trí tuệ đó không những có được tỷ lệ tiền bản quyền cao hơn và có giá trị thị trường cao hơn nhiều lần so với các tài sản vô hình khác, mà chính người mua quyền SHTT đó và người xin cấp giấy phép sử dụng cũng vui lòng trả nhiều tiền hơn do có sự bảo hộ. Việc bảo hộ này nhằm giảm rủi ro trong các giao dịch thương mại về quyền SHTT, nhưng đồng thời cũng tạo nguồn thu cho nhà nước thông qua việc cung cấp các hiệp định bảo hộ và nhân lên nhiều lần giá trị sử dụng của các tài sản trí tuệ đã được bảo hộ đó bằng việc thương mại hoá chúng, chính việc thương mại hoá các tài sản trí tuệ đã đem lại cho chủ thể sở hữu cũng như những người mua quyền sử dụng tài sản trí tuệ đó những lợi ích kinh tế. Ví như với việc mỗi năm có đến hàng trăm các phát minh, sáng chế mới ra đời, NOKIA không chỉ thu được lợi nhuận khổng lồ từ những sản phẩm trí tuệ mới này được cung cấp bởi chính hãng mà còn thu được nhiều tỷ USD từ việc bán bản quyền. Theo tài liệu của Tổ chức SHTT thế giới thì tổng thu nhập từ bản quyền về sáng chế trên toàn thế giới tăng từ 10 tỷ USD năm 1990 lên 110 tỷ USD năm 2000; riêng hãng máy tính IBM (Mỹ) năm 2000 đã thu được 1,7 tỷ USD.

Thứ hai, SHTT là công cụ cạnh tranh hữu hiệu cho doanh nghiệp cũng như nền kinh tế quốc gia trong hội nhập

Hiện nay, với mỗi quốc gia, doanh nghiệp, năng lực SHTT là một trong những năng lực nội sinh quan trọng hàng đầu để phát triển bền vững. Quốc gia, doanh nghiệp nào có được càng nhiều quyền SHTT thì năng lực cạnh tranh của quốc gia, doanh nghiệp đó càng cao.

Với các nước đang phát triển, năng lực cạnh tranh thường thấp, khả năng tiếp cận thị trường hạn chế, cho nên để có thể phát triển bền vững và hội nhập hiệu quả, cần thiết phải đánh giá đúng vị trí quan trọng của SHTT. Cách tốt nhất là phải tiếp cận các chuẩn mực quốc tế về SHTT nhằm xây dựng hệ thống SHTT có hiệu quả. Điều đó làm cho hoạt động SHTT xét trên phạm vi quốc gia ngày càng có khuynh hướng tiến gần hơn tới chuẩn mực chung của thế giới.

Thứ ba, SHTT là phương tiện đảm bảo sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia cũng như từng doanh nghiệp

Bất kỳ tài sản hữu hình nào cũng đều có giới hạn và cùng với thời gian, không gian khối lượng và giá trị của các tài sản hữu hình này không chỉ bị thu hẹp về quy mô, số lượng mà còn có khả năng bị thay thế bởi các sản phẩm mới do tri thức tạo ra. Do đó, sở hữu các tài sản hữu hình là sở hữu cái có giới hạn, còn sở hữu tri thức, trí tuệ của nhân loại là sở hữu cái vô hạn, vì vậy sẽ là vô cùng bền vững nếu chúng ta biết khai thác và sử dụng một cách hiệu quả - có thể nói SHTT là sở hữu một thứ tài sản đặc biệt, khi sử dụng không những không mất đi mà còn có khả năng kiến tạo những sản phẩm trí tuệ cao hơn, là những tiền đề cho sự phát triển mạnh mẽ và bền vững đối với những chủ thể sở hữu và xã hội.

Việt Nam đã ký kết nhiều điều ước quốc tế (song phương và đa phương) về bảo vệ quyền SHTT. Hiện nay, chúng ta đã là thành viên của các Điều ước quan trọng như Công ước Paris, Thoả ước Madrid, Nghị định thư Madrid về đăng ký quốc tế nhãn hiệu hàng hoá, Hiệp ước hợp tác Patent, Công ước Benre về bản quyền... và đặc biệt là Hiệp định TRIPS. Ngoài ra, các Điều ước quốc tế đa phương và song phương liên quan đến việc khiếu nại, xét xử, trọng tài, thi hành bản án, quyết định, tương trợ tư pháp... giữa Việt Nam và các nước là những cơ sở quan trọng trong công tác thực thi quyền SHTT ở Việt Nam.

Thực tiễn cho thấy, lợi nhuận lớn thường đổ dồn về những doanh nghiệp nào biết quan tâm đầu tư và khai thác sản phẩm trí tuệ của mình hay những quốc gia sở hữu nhiều phát minh, sáng chế của nhân loại. Vì lẽ đó mà hàng năm, hãng sản xuất danh tiếng như Nokia đầu tư hàng tỷ USD và huy động nhiều ngàn lao động trí tuệ trong nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới, mỗi năm hãng này đệ trình đăng ký bảo hộ sáng kiến và giải pháp mới cho 500 pháp minh các loại.

Thứ tư, tuân thủ hệ thống quản lý SHTT là cách thức để các nước đang phát triển tiếp cận bền vững hơn với các hoạt động đầu tư, chuyển giao công nghệ và hội nhập hiệu quả.

Việc tạo dựng và củng cố giá trị của mọi đối tượng SHTT là một quá trình đầu tư tốn kém về vật chất và trí tuệ. Do vậy, việc sao chép, mô phỏng, thậm chí đánh cắp nguyên vẹn các thành quả sáng tạo kỹ thuật - kinh doanh của đối thủ cạnh tranh là biện pháp hấp dẫn nhất để đạt mục tiêu lợi nhuận và chiến thắng. Nguy cơ chiếm đoạt các sản phẩm trí tuệ là nguy cơ thường xuyên và ngày càng nghiêm trọng trong các nền kinh tế công nghiệp hoá. Bởi vậy, việc ngăn chặn nguy cơ này là vấn đề ám ảnh đối với các nhà đầu tư nước ngoài, họ sẽ chỉ chấp nhận chuyển giao công nghệ và thực hiện các biện pháp đầu tư, nếu họ nhận thấy đủ cơ hội khai thác an toàn, hiệu quả công nghệ đó ở quốc gia dự định đầu tư.

Cho nên, sẽ là thiển cận, nếu cho rằng vì lạc hậu về kỹ thuật và công nghệ mà không cần phải có một sự bảo hộ công nghệ nào ở các nước đang phát triển. Cần thấy rằng, các nhà đầu tư nước ngoài có xu hướng lo sợ rằng bảo hộ SHTT lỏng lẻo sẽ dẫn đến việc thiếu kiểm soát đối với công nghệ được chuyển giao và như vậy công nghệ chuyển giao này sẽ dễ trở thành mục tiêu bị vi phạm bản quyền. Vì lẽ đó, xác lập được một hệ thống bảo hộ SHTT hiệu quả và việc tuân thủ hệ thống quản lý bảo hộ SHTT một cách nghiêm túc sẽ là một điều kiện tiên quyết tác động đến quyết định đầu tư và chuyển giao của các công ty nước ngoài.

Thứ năm, một hệ thống bảo hộ quyền SHTT hiệu quả là một yếu tố để chống lại nguy cơ tụt hậu và phát triển đất nước

Kinh nghiệm phát triển của Nhật Bản cho thấy, một quốc gia hoàn toàn có thể phát triển mạnh mẽ mà không nhất thiết phải có nguồn lực vật chất dồi dào, mà vấn đề là nhận thức được giá trị thực sự của tài sản trí tuệ và việc bảo hộ các tài sản trí tuệ đó. Cựu Thủ tướng Nhật Bản Tanzan Ishibashi đã từng nói: “ Tôi tin chắc rằng, đây là bí quyết phát triển công nghiệp của chúng tôi từ thời Meiji. Chỉ trong một nước đã nhận ra giá trị thực sự của hệ thống bảo hộ sáng chế và quyết tâm dùng mọi sức lực của nó để xây dựng hệ thống đó, người ta mới có thể hy vọng công nghiệp phát triển ”.

Một khi cơ sở hạ tầng và khả năng kỹ thuật cho việc cải tiến công nghệ đã được thiết lập ở một nước, nhất là ở các nước đang phát triển, hệ thống bảo hộ sáng chế sẽ thành một yếu tố thúc đẩy sự nghiệp cải tiến kỹ thuật. Bởi vậy, câu hỏi đặt ra cho các nước đang phát triển không phải là có thiết lập hệ thống bảo hộ SHTT hay không, mà phải là thiết lập như thế nào và vào lúc nào trong quá trình phát triển kinh tế, kỹ thuật của đất nước sẽ là phù hợp cho việc áp dụng một hệ thống bảo hộ toàn diện và hiệu quả.

Bảo hộ quyền SHTT ở Việt Nam

Việt Nam bắt đầu tham gia với cộng đồng quốc tế về vấn đề SHTT khá sớm. Từ năm 1949, Việt Nam đã tham gia Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp và Thoả ước Madrid về đăng ký quốc tế nhãn hiệu hàng hoá. Đến năm 1976, Việt Nam tham gia công ước Stockholm về thành lập tổ chức SHTT thế giới. Nhưng quá trình tham gia và xác lập quyền SHTT của Việt Nam mới đi vào thực chất kể từ khi nền kinh tế Việt Nam tích cực hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới, đặc biệt là khi Việt Nam bắt đầu thực hiện tiến trình gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).

Theo đó, nhiều các văn bản, quy phạm pháp luật đã được ban hành nhằm hiện thực hoá việc xác lập quyền SHTT trong điều kiện Việt Nam. Bộ Luật Dân sự năm 1995 đã dành phần IV với 61 điều đề cập đến vấn đề SHTT và chuyển giao công nghệ, tiếp đó là hàng loạt các văn bản pháp quy về SHTT đã được ban hành. Ví dụ như Nghị định 63/CP của Chính phủ ban hành ngày 24/10/1996 về việc bảo hộ sáng chế, các giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp và nhãn hiệu cũng như xuất xứ hàng hoá; Nghị định số 76/CP ngày 29/11/1996 nhằm giải thích các quy định nêu tại phần IV bộ Luật Dân sự; Nghị định số 54/2000/NĐ-CP ngày 3/10/2000 quy định về việc bảo hộ bí mật kinh doanh, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh liên quan tới sở hữu công nghiệp; Nghị định 6/2001 bổ sung các quy định về đăng ký quyền đối với sở hữu công nghiệp (kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá, các phát minh, sáng chế, tên gọi xuất xứ hàng hoá); Nghị định 13/2001/NĐ-CP ngày 20/4/2001 về bảo hộ giống cây trồng mới; Công ước Berne chính thức có hiệu lực trên lãnh thổ Việt Nam từ 10/2004 ...

Với tư cách là thành viên chính thức của WTO, Việt Nam đã và đang tiêu chuẩn hoá và thực hiện các cam kết về khung pháp luật bảo vệ quyền SHTT. Trong đó có 2 vấn đề cơ bản mà Việt Nam phải thực hiện trong hoạt động này đó là: (i) phải có một khung pháp lý về SHTT hoàn thiện, đầy đủ và đạt tiêu chuẩn theo quy định của Hiệp định TRIPS và tham gia một loạt các điều ước quốc tế khác như bản quyền, sử dụng tín hiệu vệ tinh...; và (ii) Việt Nam phải có một hệ thống thực thi quyền SHTT hiệu quả.

Cho đến hiện nay, nếu so với yêu cầu của TRIPS thì về cơ bản hệ thống bảo hộ quyền SHTT của Việt Nam đã được hình thành tương đối đầy đủ, Luật SHTT được ban hành năm 2005, có hiệu lực từ 01/7/2007 đã thay thế toàn bộ các Nghị định và văn bản hướng dẫn về từng lĩnh vực của SHTT trước đó, đồng thời cũng thống nhất và tập hợp các quy định riêng lẻ đó vào trong Luật SHTT với sự phân định rõ ràng thành 3 lĩnh vực: bản quyền, sở hữu công nghiệp và giống cây trồng.

Tuy nhiên, trên thực tế việc thực thi quyền SHTT còn nhiều hạn chế, hiệu lực của hệ thống các quy định về bảo hộ quyền SHTT còn thấp, tính minh bạch và sự nghiêm minh trong thực thi luật còn nhiều vấn đề cần xem xét... dẫn đến trình trạng vi phạm, xâm phạm quyền SHTT đang diễn ra khá phổ biến. Hầu như mọi chủng loại sản phẩm hàng hoá đều có hàng nhái, hàng có chứa yếu tố vi phạm quyền sở hữu.. .Do vậy, vấn đề đặt ra là cần có một định hướng rõ ràng, hiệu quả nhằm nâng hiệu lực của việc thực thi quyền SHTT trong thực tế. Trong phạm vi bài viết này, tác giả có một số kiến nghị sau nhằm tăng hiệu lực của việc thực thi quyền SHTT tại Việt Nam:

Một là, cần có mức xử phạt đủ nặng về mặt kinh tế và pháp lý đối với các hành vi vi phạm, xâm phạm quyền SHTT để tăng tính nghiêm minh và thực thi có hiệu quả các quy định của Luật SHTT.

Hai là, các cơ quan chức năng phải chi tiết, cụ thể từng quy định đã được ban hành và hình thành khung mức phạt cụ thể cho từng hành vi vi phạm, xâm phạm.

Ba là, phải xây dựng được hệ thống cơ chế giám sát mang tính liên ngành nhằm phòng, chống một cách hiệu quả các hành vi vi phạm, xâm phạm quyền SHTT. Trong đó lưu ý đến việc chuẩn bị đủ lực lượng thực hiện và phải thực hiện một cách nghiêm túc, thường xuyên, tránh tình trạng phát động theo phong trào.

Bốn là, thúc đẩy thương mại hoá các hoạt động SHTT, tuyên truyền và nâng cao nhận thức về giá trị kinh tế và những lợi ích hợp pháp của việc thương mại hoá các sản phẩm trí tuệ cũng như việc tuân thủ nghiêm túc Luật SHTT.

Năm là, ngoài việc tiếp tục hoàn thiện các văn bản pháp quy về SHTT, cần quy định rõ cơ quan đầu mối quan lý và có chế tài xử lý thích hợp đối với các vi phạm của cả người thực thi cũng như người quản lý việc thực thi.

Sáu là, để phát triển bền vững trong hội nhập và hội nhập hiệu quả trên phương diện bảo vệ hợp pháp quyền SHTT, cần đẩy mạnh đào tạo và đào tạo theo quy chuẩn quốc tế nguồn nhân lực về SHTT.

Sự tồn tại của hệ thống bảo hộ công nghệ đóng vai trò quan trọng trong các quyết định chuyển giao công nghệ trong hoạt động đầu tư trực tiếp. Một hệ thống bảo hộ có hiệu quả ở một nước đang phát triển sẽ tạo được niềm tin đối với nhà đầu tư, đặc biệt là trong các quyết định chuyển giao công nghệ, đồng thời sẽ góp phần cải thiện vị thế của quốc gia đó trong cuộc cạnh tranh khu vực cũng như quốc tế về vốn đầu tư và chuyển giao công nghệ. Bảo hộ SHTT như vậy sẽ trở thành động lực chuyển giao và ứng dụng công nghệ ở các nước đang phát triển đồng thời cũng là cách thức để tiến trình hội nhập quốc tế của các nước đang phát triển hiệu quả hơn, vững vàng hơn./.

SOURCE: TẠP CHÍ KINH TẾ VÀ DỰ BÁO SỐ 8 (424) THÁNG 4 NĂM 2008

LUẬT PHÁP CÁC NƯỚC: ĐƯỢC CẢI BIÊN TÁC PHẨM NẾU GÂY CƯỜI

NGUYỄN HẢI VÂN (Pháp)

Sửa đổi lời bài hát, biếm họa tranh của các họa sĩ, đóng nhại nhân vật của một tác phẩm sân khấu... là chuyện thường thấy trong sinh hoạt đời thường. Những chế, nhại này xét theo vẻ bề ngoài như là vô thưởng vô phạt, vì chủ yếu cũng chỉ để vui cười. Thông thường, ít ai quan tâm đến khía cạnh pháp lý của hành vi này. Trong chừng mực các quy định pháp luật về quyền sở hữu trí tuệ của VN, cải biên tác phẩm nghệ thuật chính là đang xâm phạm quyền tác giả, chí ít là quyền về nhân thân của tác giả.

Tạo sự vui vẻ cho công chúng

Pháp luật một số nước trên thế giới cho phép cải biên và có những quy định chặt chẽ cụ thể trong luật hoặc trong án lệ. Xin giới thiệu một ví dụ trong Luật sở hữu trí tuệ của Pháp. Luật này quy định khi một tác phẩm được công bố, tác giả không thể ngăn cấm việc nhại, chế, cải biên tác phẩm đó bởi vì tuân theo quy luật cần thiết, tính đa dạng của sở thích.

Tác phẩm cải biên khác với tác phẩm gốc có thể là do có thêm tính khôi hài hay tính phê phán (trên tinh thần xây dựng). Nếu cải biên dựa trên cơ sở quyền tự do bày tỏ ý kiến mà làm tổn hại, đôi khi nghiêm trọng, đến quyền của tác giả về tài sản cũng như tinh thần (nhân thân) thì vẫn được cho phép như một ngoại lệ.

Khi cải biên, cần tuân thủ một số điều kiện. Ðó là thiện chí tạo sự vui vẻ cho công chúng, do đó tác phẩm cải biên không thể gây buồn phiền. Nói cách khác, mục đích gây cười phải được thể hiện thật rõ ràng và đặc biệt phải tránh xa sự phỉ báng. Nhìn ở góc độ lập pháp, thiện chí này được coi là điều kiện cần để thực hiện cải biên. Xét theo các án lệ, khi mọi hành vi bắt chước các tác phẩm nghệ thuật gây cười được sẽ không bị chế tài.

Trong vụ án "Tarzoon, niềm tủi hổ của núi rừng", tòa đã dựa theo ngoại lệ quy định của luật 1957, bác đơn kiện của đạo diễn Picha vì các nhân vật chính được xây dựng ngược hẳn với tính cách của nhân vật chính trong truyện gốc. Ví dụ Tarzan thì mạnh mẽ, đẹp trai, can đảm, cao thượng... thì Tarzoon thấp bé, xấu trai, bẳn tính. Nhân vật vợ cũng được xây dựng theo cung cách đó. Trong khi Jane, vợ Tarzan luôn dịu dàng, trung thành thì June, vợ Tarzoon như mụ hó lúc nào cũng la ó, đành hanh, thích chỉ huy, lại lẳng lơ...

Chính sự khác biệt có thể nói là sự đối ngược của hai tính cách, hai ngoại hình tạo nên sự khác biệt giữa tác phẩm gốc và tác phẩm nhại theo và cũng dựa trên yếu tố gây cười mà bộ phim đó được coi là cải biên hợp pháp.

Quyền sở hữu trí tuệ là một quyền quan trọng đối với cá nhân cũng như pháp nhân (các tổ chức, doanh nghiệp) nhưng trên thực tế chưa được đánh giá và bảo vệ đúng, mặc dù Luật sở hữu trí tuệ VN có hiệu lực hơn hai năm.

Vụ tranh chấp giữa những người thừa kế Margaret Mitchell, tác giả Cuốn theo chiều gió và Régine Desforges (nhà văn Pháp), tác giả Xe đạp xanh (đã dựng thành phim và chiếu trên truyền hình VN) là một ví dụ khác về việc được phép cải biên. Tòa phúc thẩm Paris đã phán xử rằng các ý tưởng của Cuốn theo chiều gió không được bảo hộ.

Cho dù Xe đạp xanh được coi là phóng tác của Cuốn theo chiều gió nhưng tác giả Desforges đã giữ tác phẩm của mình có khoảng cách nhất định với tác phẩm đàn chị, bằng cách cho nhân vật nữ chính của mình đọc Cuốn theo chiều gió rồi hâm mộ nhân vật Scarlet và lấy đó làm gương sống giàu nghị lực. Ðiểm nhấn này tuy nhỏ nhưng đã làm tác phẩm sau (Xe đạp xanh) khác so với tác phẩm trước (Cuốn theo chiều gió).

Trong vụ tranh chấp này, việc tác phẩm sau có gây nhầm lẫn hay không lại không còn quan trọng, chủ yếu là "thiện chí thích đùa" mà tác giả Desforges dành cho tác phẩm nổi tiếng của Margaret Mitchell!

Phê phán sinh hoạt chính trị - xã hội

Tuy vậy, trên thực tế có trường hợp cải biên vẫn được chấp nhận khi hoàn toàn không có một ý định gây cười dù nhỏ nào. Ðó là vụ kiện Les feuilles mortes. Họa sĩ thiết kế sân khấu Jacques Faizant đã vẽ biếm họa Yves Montand, trong buổi ca nhạc tổ chức nhân ngày ca sĩ lừng danh đó qua đời. Hình biếm họa mô tả Yves Montand đang hát trên sân khấu, và họa sĩ này đã sửa chút ít lời bài hát Les feuilles mortes với ý định thể hiện sự tiếc thương ca sĩ được nhiều yêu mến này.

Tòa án thẩm quyền rộng Paris(*) ra phán quyết không coi "sự vay mượn lời ca" này là một hình thức cải biên hợp pháp vì không có tính hài hước. Nhưng tòa phúc thẩm Paris lại cho rằng mục đích chính của tác phẩm cải biên là để vinh danh người quá cố và không hề gây nhầm lẫn với tác phẩm gốc, do đó việc cải biên hoàn toàn hợp pháp.

Cho tới nay, theo thực tiễn xét xử, luật của Pháp đã cho một kết luận mới. Trước đây, việc cải biên một tác phẩm nghệ thuật không bị xử phạt chỉ với một điều kiện duy nhất là có thiện chí gây cười. Nhưng giờ thì khác, bởi vì cải biên để phê phán sinh hoạt chính trị - xã hội, thậm chí không gây cười, cũng đã được phép, thông qua các án lệ.

Tuy nhiên, cũng cần nhấn mạnh rằng nếu cải biên mang tính chất bôi nhọ, phỉ báng nhằm vào tác giả thì sẽ không được khoan nhượng, nhất là khi với ít nhiều ác ý. Trong trường hợp này, tòa án sẽ xem xét việc cải biên có yếu tố kiếm lợi (động cơ) hay không và mức kiếm lợi bao nhiêu để ra mức xử phạt..

(*) Tribunal de grande instance: tòa dân sự phụ trách xét xử những vụ tranh chấp có giá trị trên 10.000 euro.

SOURCE: BÁO TUỔI TRẺ

Trích dẫn từ:

http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=285174&ChannelID=6

Thứ Năm, 7 tháng 5, 2009

VƯỚNG MẮC TRONG ĐĂNG KÝ TÊN DOANH NGHIỆP

LG. ĐỖ VĂN HÀO

Luật Doanh nghiệp áp dụng gần ba năm nhưng vẫn còn nội dung thực thi gây vướng mắc, khó khăn cho doanh nghiệp. Ông Lê Cao Thắng, một người bạn của tôi, bức xúc khi nộp hồ sơ đăng ký kinh doanh Công ty TNHH một thành viên Cao Thắng của mình tại tỉnh B. Cán bộ Phòng đăng ký kinh doanh nói rằng tên Cao Thắng của công ty trùng với tên danh nhân Cao Thắng, hẹn anh 10 ngày sau sẽ trả lời vì phải trao đổi với cấp trên.

Đến hẹn, anh bị từ chối cấp giấy đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệp dù anh đã giải thích rằng chỉ lấy tên anh đặt tên cho doanh nghiệp. Anh được đề nghị đặt tên khác hoặc lấy cả họ và tên Lê Cao Thắng đặt cho doanh nghiệp.

Về những điều cấm trong đặt tên doanh nghiệp, điều 32, khoản 3, Luật Doanh nghiệp 2005 quy định: “Không được sử dụng từ ngữ, ký hiệu vi phạm truyền thống lịch sử, văn hóa, đạo đức và thuần phong mỹ tục của dân tộc”. Điều 11, khoản 3, Nghị định số 88/2006/NĐ-CP quy định: “Không được sử dụng từ ngữ, ký hiệu vi phạm truyền thống lịch sử, văn hóa, đạo đức và thuần phong mỹ tục của dân tộc, tên danh nhân để đặt tên riêng cho doanh nghiệp”.

Thế nào là dùng từ ngữ, ký hiệu vi phạm truyền thống lịch sử, văn hóa, đạo đức và thuần phong mỹ tục của dân tộc đã không được Nghị định số 88/2006/NĐ-CP giải thích cụ thể, trái lại còn cấm “dùng tên danh nhân để đặt tên riêng cho doanh nghiệp”. Quy định “không dùng tên danh nhân để đặt tên riêng cho doanh nghiệp” còn nhiều điều phải bàn.

Thứ nhất, từ “dùng” được hiểu như thế nào cho đúng? Một người đặt tên doanh nghiệp theo tên của mình có khác với việc dùng tên danh nhân để đặt cho doanh nghiệp?

Thứ hai, “tên danh nhân” được hiểu như thế nào? Theo tập quán của Việt Nam, tên được hiểu chỉ là âm tiết cuối cùng trong dòng chữ bao gồm cả họ và tên. Nhà làm luật phải quy định rõ “không được dùng họ và tên đầy đủ của danh nhân để đặt tên cho doanh nghiệp” mới đúng.

Thứ ba, giới hạn phạm vi được hiểu là danh nhân như thế nào? Một danh nhân (nhất là các danh nhân thời xưa, các vị vua chúa...) thường có nhiều tên gọi khác nhau (ví dụ vua Quang Trung còn có tên khác là Bắc Bình Vương, Nguyễn Huệ...), vậy danh nhân được lấy theo tên nào, hay lấy tất cả các tên gọi được sử dụng? Theo Từ điển tiếng Việt do NXB Văn hóa Thông tin phát hành năm 2005, “danh nhân” được hiểu là “người nổi tiếng”. Vậy những người nổi tiếng như thế nào, đến mức nào, ở phạm vi nào, lĩnh vực nào, từ năm bao nhiêu thì được gọi là người nổi tiếng?

Thứ tư, việc “không dùng tên danh nhân đặt tên cho doanh nghiệp” chỉ áp dụng cho các doanh nghiệp đăng ký và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp 2005 hay áp dụng cho cả các chủ thể kinh doanh khác như: hộ kinh doanh cá thể, hợp tác xã...? Hiện nay, có rất nhiều biển hiệu như nhà sách Nguyễn Văn Cừ, kính mắt Phạm Ngọc Thạch, phòng vé Đinh Tiên Hoàng... mà không thấy cơ quan có trách nhiệm can thiệp! Doanh nghiệp bị cấm dùng tên danh nhân để đặt tên, còn các cơ sở giáo dục, tổ chức khác thì sao?

Quy định chung chung về việc đặt tên cho doanh nghiệp đã dẫn đến tình trạng tùy tiện xử lý của các cơ quan đăng ký kinh doanh và phụ thuộc vào “cảm quan” của cán bộ tiếp nhận hồ sơ, gây khó khăn cho doanh nghiệp.

SOURCE: THỜI BÁO KINH TẾ SÀI GÒN

Trích dẫn từ: http://www.thesaigontimes.vn/Home/diendan/bandocviet/18540/

Thứ Hai, 27 tháng 4, 2009

DOANH NGHIỆP VÀ THƯƠNG HIỆU

RICHARD MOORE ASSOCIATES

1. Thương hiệu là gì?

Tại Mỹ, thuật ngữ “thương hiệu” được dùng hiện nay có nguồn gốc từ dấu sắt nung in trên mình gia súc thả rông để đánh dấu quyền sở hữu của người chủ đối với đàn gia súc. Tại Việt Nam, thuật ngữ này mới xuất hiện trong khoảng thời kỳ đổi mới.

Hiện nay, từ “thương” trong “thương hiệu” được biết đến rộng rãi với ý nghĩa liên quan đến thương mại. Tuy nhiên, theo Giáo sư Tôn Thất Nguyễn Thiêm, nguồn gốc tiếng Hán của từ này có nghĩa là “san sẻ, bàn tính, đắn đo cùng nhau”, một nét nghĩa có lẽ phù hợp hơn với giá trị của thương hiệu đối với doanh nghiệp.
Giá trị hơn vẫn là cách thức mà một thương hiệu mạnh liên hệ về mặt cảm xúc với khách hàng thông qua các mối liên tưởng khác nhau.
Để giải thích về thương hiệu, hãy thử nghĩ tới bạn bè xung quanh và những mối quan hệ công việc mà bạn có. Nếu họ có chút gì đó giống với các mối quan hệ quen biết của tôi, thì bạn cũng sẽ ngạc nhiên khi nhận ra rằng, tất cả họ đều khác nhau, mỗi người có những nét tính cách riêng, đó là chưa kể đến đặc điểm khác biệt về ngoại hình. Và cũng như tôi, có lẽ bạn cũng đã tạo dựng mối quan hệ với từng người trong số đó theo những cách thức khác nhau.
Thương hiệu cũng rất giống với những người quen mà bạn vừa nghĩ đến. Đằng sau mỗi logo là một thói quen hành xử mà bạn thấy có thể chấp nhận được hay thậm chí bạn rất ưa thích. Giống như các mối quan hệ, thương hiệu thường trở nên đáng ưa trong mắt bạn chỉ khi chúng phù hợp tương ứng với nhu cầu trong cuộc sống của bạn và giữ được điều đó nhất quán cùng với thời gian.
Tôi nhận thấy, việc nghĩ về thương hiệu như thể đó là một con người sẽ rất hiệu quả, bởi điều này giúp chúng ta hiểu rõ cách thức hoạt động của thương hiệu. Thậm chí, ngay cả sau khi đã trải qua hơn 30 năm giúp các doanh nghiệp phát triển thương hiệu, tôi vẫn nhận thấy có những điểm tương đồng mới giữa thương hiệu và con người. Giống như con người, thương hiệu được hỗ trợ bởi một tính cách được phối hợp tổng hòa, bởi đặc tính hoạt động tin cậy và hiển thị rõ nhất là nhờ có diện mạo đẹp. Hơn nữa, cũng giống như con người, lý do mạnh mẽ nhất khiến chúng ta xây dựng các mối quan hệ lâu dài với thương hiệu chính là yếu tố cảm xúc.
Câu nói “Hãy cho tôi biết bạn bè của bạn, tôi sẽ cho biết bạn là người như thế nào” đúng trong mối quan hệ của chúng ta với thương hiệu cũng như với bạn bè và các mối quen biết khác. Một người đàn ông có thể hút thuốc Marlboro, đi xe Mercedes Benz và dùng điện thoại iPhone không chỉ vì những đặc tính riêng của những sản phẩm đó, mà còn vì muốn thể hiện cho người khác thấy anh ta là người như thế nào.
Dĩ nhiên, thương hiệu không phải là con người. Đó là tập hợp những gì con người tạo ra, nhằm thực hiện một hành vi mang tính xã hội mà chúng ta gọi là “kinh doanh”. Và khi công việc kinh doanh phát triển và lớn rộng, bên cạnh những kỹ năng liên quan đến việc tạo ra sản phẩm và dịch vụ chất lượng tốt, doanh nghiệp còn phải tiến hành hoạt động nghiên cứu và phát triển, thiết lập công tác bán hàng và xây dựng hệ thống phân phối sao cho trôi chảy, kế đến là tiếp cận các đối tượng khách hàng mục tiêu với các chiến lược marketing và truyền thông sao cho hiệu quả.
Khi tất cả những hoạt động này được phối hợp nhuần nhuyễn, hỗ trợ lẫn nhau và việc kết hợp các hoạt động này mang lại kết quả là một đơn vị độc đáo khác biệt so với các đối thủ cạnh tranh, lúc này chúng ta có được một thương hiệu mạnh.

2. Khác biệt hóa thương hiệu

Nếu bạn có khả năng đặc biệt và có thể vận dụng khả năng của mình một cách hữu ích, bạn đã tạo được lợi thế riêng trong cuộc sống. Đối với thương hiệu cũng vậy, do đó cần phải chăm chút để tạo sự khác biệt cho thương hiệu. Con người chúng ta khác biệt nhờ yếu tố di truyền, môi trường và bởi những sự lựa chọn mà chúng ta quyết định.

Đối với thương hiệu, hai yếu tố sau là những yếu tố mà chúng ta cần chú trọng, đó là môi trường kinh doanh cụ thể trong phân khúc thị trường mà doanh nghiệp cạnh tranh và sự lựa chọn của doanh nghiệp đối với việc sẽ tiếp thị sản phẩm của mình như thế nào trong phân khúc thị trường đó.

Ở các bài viết trước trong chuyên đề về thương hiệu, chúng ta đã bàn tới nghiên cứu nội bộ doanh nghiệp và nghiên cứu thị trường bên ngoài, để giúp doanh nghiệp xác định những mục tiêu của thương hiệu và hiểu rõ môi trường mà thương hiệu hoạt động. Những thông tin thâu tóm được từ các nghiên cứu này là nền tảng cần thiết để có thể xác lập một chiến lược khác biệt hóa thực sự ý nghĩa. Sử dụng kết quả nghiên cứu, bạn có thể liệt kê một danh sách các khía cạnh cụ thể mà thương hiệu của bạn khác biệt so với các đối thủ. Những điểm khác biệt này cần phải được phân tích kỹ để đảm bảo rằng, mỗi điểm khác biệt sẽ thực sự hữu ích khi giúp thương hiệu của bạn tạo được lợi thế cạnh tranh.
Trước tiên, mỗi điểm khác biệt trong danh sách nói trên cần phải được thử thách bởi câu hỏi: “Lý do nào sẽ khiến cho khách hàng tiềm năng thực sự tin điều này?”. Tiếp đến, bạn cần mô tả rõ những lợi ích mà từng điểm khác biệt sẽ mang lại cho khách hàng. Trên thực tế, có hai kiểu lợi ích khác nhau và chúng ta cần cân nhắc kỹ lưỡng từng nhóm ích lợi này. Rõ ràng nhất chính là nhóm lợi ích mang tính chức năng hay còn gọi là lợi ích lý tính. Chẳng hạn, nếu một thương hiệu chế biến thực phẩm sử dụng nguyên liệu hoàn toàn không có thuốc trừ sâu thì đó là một lợi ích lý tính rõ ràng và mang tính cạnh tranh cao mà chúng ta có thể sử dụng. Bạn cũng cần xác định rõ điểm khác biệt đó sẽ mang lại những lợi ích gì về mặt cảm xúc cho khách hàng, bởi vì cảm xúc là yếu tố hết sức quan trọng trong việc thiết lập một thương hiệu mạnh. Đối với một thương hiệu thực phẩm đảm bảo không sử dụng thuốc trừ sâu, lợi ích cảm tính tương ứng có thể là nó sẽ góp phần tạo nên một phong cách sống lành mạnh cho các hộ gia đình.
Khi chúng tôi giúp các doanh nghiệp lập danh sách những điểm khác biệt của thương hiệu, sau khi tất cả các phương án đã được phân tích và xem xét, chúng tôi nhận thấy rằng thường chỉ còn lại khoảng mười điểm mạnh. Những điểm này sẽ rất hữu ích khi sử dụng trong các hoạt động truyền thông thương hiệu thường xuyên và liên tục. Tuy nhiên, để thiết lập cơ sở cho một chiến lược khác biệt hóa chính thức nhằm định hướng cho chương trình xây dựng bản sắc nhận diện thương hiệu mang tính chiến lược, chúng ta chỉ có thể sử dụng một vài điểm khác biệt nổi trội nhất. Thị trường ngày nay có vô vàn thương hiệu và để thương hiệu của bạn có thể chiếm hữu được một vị trí đáng nhớ trong tâm trí khách hàng, bạn phải tránh tạo ra một chân dung quá phức tạp, mà chỉ nên nhấn mạnh các đặc tính thương hiệu quan trọng nhất.
Dù theo cách nào chăng nữa thì việc thực hiện chu đáo quá trình này sẽ mang lại những lợi ích rất lớn. Một khi bạn xây dựng được chiến lược khác biệt hóa rõ ràng và súc tích cho thương hiệu của mình, bạn sẽ có cơ sở tốt để thiết lập những mối liên hệ cảm xúc thực sự có ý nghĩa với các khách hàng. Qua đó, bạn có thể sử dụng những gì đã đúc rút được làm nền tảng cho việc xây dựng một hệ thống bản sắc nhận diện thương hiệu mạnh. Vậy là, sử dụng những khía cạnh giúp bạn tạo sự khác biệt sẽ mang lại cho bạn những lợi thế chiến lược trên thị trường cạnh tranh.

3. Xác định rõ tính cách cho thương hiệu

Thương hiệu giống với bạn và tôi đến ngạc nhiên. Tính cách con người chúng ta quan trọng đối với việc hình thành nên các mối quan hệ với mọi người xung quanh như thế nào, thì đối với thương hiệu, tính cách cũng quan trọng không kém. Một nghiên cứu tại Mỹ về 60 thương hiệu thành công cho thấy rằng, hầu hết trên 1.000 người tiêu dùng tham gia nghiên cứu đều liên hệ các nét tính cách nhất định với từng thương hiệu cụ thể, trong đó có những nét tính cách như “chân thành”, “cởi mở”, “tự nhiên”, “quyến rũ” và “phong trần”.
Vậy bạn dự định phát triển tính cách cho thương hiệu như thế nào? Cũng giống như con người chúng ta, tính cách thương hiệu phải được hình thành từ chính những yếu tố nội tại. Song tính cách thương hiệu cần phải tương đối đơn giản, chứ không giống như tính cách con người vốn khá phức tạp. Theo kinh nghiệm trong hơn 30 năm qua làm về phát triển thương hiệu, tôi nhận thấy rằng, thường thì tính cách thương hiệu chỉ nên sử dụng đến ba nét tính cách là hiệu quả nhất. Những nét tính cách này có thể giống như bất kỳ nét tính cách nào có ở con người, nhưng chúng phải thỏa mãn những tiêu chí nhất định để nhằm tạo ra một bản sắc nhận diện hiệu quả cho thương hiệu.
Trước tiên, tính cách phải phù hợp với những đặc điểm lý tưởng của thương hiệu đó. Nếu nghiên cứu nội bộ được thực hiện cẩn thận từ giai đoạn đầu khi xây dựng chiến lược phát triển thương hiệu thì những đặc điểm lý tưởng này đã được xác định rõ.
Tính cách thương hiệu cũng phải phù hợp với chiến lược khác biệt hóa của thương hiệu. Điều này có nghĩa là tính cách đó phải phù hợp với cách bạn tạo sự khác biệt giữa thương hiệu của mình với các đối thủ cạnh tranh. Và điều này cũng có nghĩa là thậm chí nếu một nét tính cách cụ thể nào đó rất phù hợp với bạn đi chăng nữa thì bạn cũng sẽ không có được nhiều ưu thế từ việc sử dụng nét tính cách đó, nếu như đối thủ cạnh tranh của bạn đã dùng nét tính cách đó rồi.
Bất kỳ nét tính cách nào được lựa chọn cần phải thực sự có “tiếng nói”. Những nét tính cách như “vui vẻ”, “chân thành” hay “ thông minh” có thể định hướng rõ ràng cho cách thể hiện thương hiệu thông qua các yếu tố ngôn ngữ và hình ảnh, song những đặc tính hơi trừu tượng như “dễ chịu”, “hào phóng” hay “may mắn” thường khó sử dụng để mang lại hiệu quả thực sự.
Sau cùng, những nét tính cách trong một bộ tính cách phải có tính tương hỗ lẫn nhau. Nếu lựa chọn tốt, những nét tính cách này có thể điều chỉnh và nâng đỡ lẫn nhau để tạo nên một tổng hòa mà con người chúng ta gọi là “tính cách hài hòa”.
Như bạn thấy, việc xây dựng tính cách cho một thương hiệu cũng giống như việc bạn lựa chọn ba nốt nhạc để tạo nên một bản hòa âm. Nếu đó đúng là những nốt nhạc bạn cần, thì chúng sẽ kết hợp hài hòa với nhau và bạn có thể tạo nên những thanh âm tuyệt vời. Các thương hiệu có tính cách rõ ràng như Apple, Kodak, Disney, Levis, Nokia và thậm chí cả Manchester United, tất cả bọn họ đều biết rõ tính cách thương hiệu của mình và họ sử dụng chúng một cách nhất quán từ năm này qua năm khác trên thị trường.
Vậy bạn có thể thay đổi tính cách thương hiệu hay không? Tính cách con người có thể thay đổi nếu họ thực sự nỗ lực thay đổi và tính cách của thương hiệu cũng vậy. Tuy nhiên, việc thay đổi này phải được thực hiện hết sức thận trọng. Ngay cả khi thay đổi theo chiều hướng tốt hơn chăng nữa, song nếu thương hiệu cứ chạy theo hết thay đổi này đến thay đổi khác, thì cho dù việc thay đổi có tốt đến mấy mọi người cũng sẽ bắt đầu phân vân không biết bạn thực sự là người như thế nào. Sự tin tưởng là nền tảng của mọi mối quan hệ gắn bó lâu dài, vì vậy việc thay đổi tính cách thường sẽ gây nguy hại đến cảm nhận của khách hàng về chính thương hiệu của bạn.

4. Chuyển dịch phạm vi tham chiếu của thương hiệu

Bạn đang hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh nào? Câu trả lời của thị trường sẽ quyết định những ai là đối thủ cạnh tranh mà khách hàng sẽ so sánh với bạn. Phân nhóm lĩnh vực kinh doanh của một thương hiệu có lẽ là một vấn đề khá cơ bản và do đó nó cũng không được chú ý nhiều như các khía cạnh khác của thương hiệu.

Rõ ràng là khi nhắc đến Pepsi, chúng ta nghĩ tới một loại đồ uống nhẹ, Casumina thì thuộc nhóm sản phẩm săm lốp, còn Epson thì nằm trong nhóm chuyên về công nghệ hình ảnh. Hầu hết các thương hiệu nổi tiếng đều rơi vào một phân nhóm kinh doanh cụ thể nào đó như vậy. Thậm chí, ngay cả những doanh nghiệp mới với những sản phẩm mang tính đặc thù nguyên bản cao cũng thấy rằng, cách dễ dàng nhất để tạo chỗ đứng trên thị trường là định vị thương hiệu trong một phân nhóm kinh doanh đã được biết đến, sử dụng các nét đặc trưng của những sản phẩm mà mọi người đã biết đến để làm nền tảng.
Ở các bài trước trong loạt bài viết về thương hiệu, chúng ta đã xem xét đến tầm quan trọng của việc khác biệt hóa thương hiệu trong phạm vi kinh doanh thông thường, bằng cách xác định rõ đối tượng khách hàng mục tiêu, những lợi ích đặc thù của thương hiệu và lý do để tin tưởng vào những điều đó. Tuy nhiên, nếu bạn có thể thay đổi cách mà khách hàng nghĩ về bạn trong một “phạm vi tham chiếu” khác hẳn so với các đối thủ cạnh tranh thì sao? Nếu bạn làm được điều đó thì việc chuyển dịch phạm vi tham chiếu có thể sẽ là một trong những cách thức có sức ảnh hưởng mạnh mẽ nhất khi định vị thương hiệu.
Một cách chuyển dịch phạm vi tham chiếu của một thương hiệu là mở rộng phạm vi đó. Nếu bạn đã tạo dựng được uy tín trong một phân nhóm kinh doanh nhất định thì đây có thể là phương pháp hiệu quả để mở rộng thương hiệu, bởi nó có thể cho phép bạn mở ra các cơ hội phát triển kinh doanh theo hướng suy nghĩ rộng hơn.
Một ví dụ tốt minh chứng cho điều này là Crest, thương hiệu kem đánh răng nổi tiếng trên thị trường Hoa Kỳ. Những năm gần đây, Crest đã mở rộng phạm vi tham chiếu của thương hiệu, không chỉ giới hạn trong phân nhóm “kem đánh răng” mà mở rộng ra các sản phẩm “vệ sinh răng miệng” khác. Crest đã làm được việc này qua việc giới thiệu các sản phẩm như nước súc miệng, chỉ nha khoa, sản phẩm làm trắng răng..., một cách mở rộng dòng sản phẩm mà họ kinh doanh và giúp doanh thu tăng lên đáng kể.
Một ví dụ khác là thương hiệu Gillette, trong một thời gian rất dài, họ đã mở rộng từ phân nhóm sản phẩm “dao cạo” sang phân nhóm sản phẩm “làm đẹp cho nam giới”, bằng cách giới thiệu một loạt sản phẩm liên quan đến nhau như kem cạo râu, nước dưỡng da sau khi cạo râu và cuối cùng là nước hoa dành cho nam giới.
Bạn cần lưu ý rằng, trong cả hai ví dụ trên, mặc dù các sản phẩm cũ và mới khác xa nhau (từ dạng bột kem cho đến dạng sợi tơ và chất khử trùng, từ sản phẩm làm bằng chất liệu thép chuyển sang sản phẩm kem dưỡng và nước thơm), nhưng khách hàng vẫn có thể dễ dàng tin rằng, sự quan tâm và khả năng của từng công ty đó có thể cho phép họ tạo ra những sản phẩm thành công trong các phân nhóm kinh doanh mở rộng. Chúng ta có thể hiểu được mức độ quan trọng của việc không nên mở rộng quá xa cảm nhận của thị trường về phân nhóm kinh doanh của thương hiệu, qua việc hình dung đôi chút rằng, liệu điều gì sẽ xảy ra nếu một trong hai thương hiệu trên rời bỏ phân nhóm sản phẩm họ đã thiết lập được, để giới thiệu một sản phẩm chăm sóc chân.
Đó không phải là một ý hay. Các sản phẩm ra đời từ những sự thay đổi quá khác như vậy thường không được thị trường chấp nhận. Hơn nữa, các khách hàng trung thành có lẽ sẽ bắt đầu nghi ngờ về đặc điểm riêng của thương hiệu mà họ nghĩ họ đã từng biết.
Không có nguyên tắc cố định nào cho việc thay đổi phạm vi tham chiếu của thương hiệu. Nó có thể được chuyển dịch từ mức chất lượng này sang một mức chất lượng khác trong cùng một phân nhóm, hoặc cũng có thể được thu hẹp lại. Một thương hiệu được nhận biết trong phân nhóm thông thường “nhà hàng ăn nhanh” đã rất thành công khi tập trung cảm nhận thị trường về thương hiệu bằng cách chỉ phục vụ duy nhất món phở. Giờ đây, Phở 24 đã “sở hữu” được phân nhóm “phở” trong tâm trí của đông đảo công chúng.

5. Lợi ích kinh tế của bản sắc nhận diện thương hiệu

Nếu bạn là một trong số ít các doanh nghiệp Việt Nam đã triển khai tốt hệ thống bản sắc nhận diện thương hiệu - hệ thống giúp gắn kết từng phương tiện truyền thông một cách nhất quán, qua đó phối hợp các mục tiêu chiến thuật mang tính tác vụ hàng ngày của truyền thông marketing với mục tiêu xây dựng hình ảnh mang tính chiến lược lâu dài, thì bạn có thể thụ hưởng một số lợi thế quan trọng so với đối thủ cạnh tranh.

Hệ thống nhận diện thương hiệu nếu được sáng tạo một cách khéo léo sẽ là thành tố quan trọng góp phần tạo nên một hình ảnh thương hiệu tích cực và mang dấu ấn sâu đậm trong tâm trí khách hàng. Thông thường, nếu sở hữu một hình ảnh thương hiệu mạnh, bạn có thể đặt mức giá cao hơn cho sản phẩm của mình và chi ít hơn cho hoạt động marketing, đặc biệt là các hoạt động khuếch trương. Tạo lập được hình ảnh thương hiệu vững vàng và được người tiêu dùng yêu mến, bạn sẽ khiến các đối thủ cạnh tranh phải tiêu tốn nhiều hơn cho các hoạt động truyền thông marketing, nếu họ muốn giành thị phần từ tay bạn. Hình ảnh thương hiệu tích cực cũng có thể đóng vai trò như một yếu tố giúp ổn định vào những thời điểm doanh nghiệp gặp sự cố, cho phép bạn có thời gian đưa ra giải pháp mà vẫn tránh được những mất mát nguy hiểm về doanh thu.
Đúng, hình ảnh thương hiệu là tài sản vô hình, song chúng ta có thể hiểu rõ hơn giá trị thực tế của nó qua lời phát biểu của John Stuart, nguyên chủ tịch Tập đoàn Quaker - một trong những công ty thực phẩm và đồ uống lớn nhất tại Mỹ trước đây: “Nếu công ty này phá sản, tôi sẽ trao lại cho bạn tài sản, nhà máy và thiết bị, còn tôi sẽ giữ lại thương hiệu và nhãn hiệu, và tôi sẽ tiến xa hơn bạn nhiều”. Thực tế, một vài năm sau đó, Quaker đã bán lại công ty và toàn bộ thương hiệu cho Pepsi với trị giá 14,2 tỷ USD.
Việc xây dựng hệ thống bản sắc nhận diện thương hiệu mang tính chiến lược là quá trình đầu tư được thực hiện một lần, thường hoàn tất trong vòng một năm và áp dụng cho cả chục năm sau đó, mà không cần sự thay đổi đáng kể nào. Chi phí in ấn, sản xuất các tài liệu truyền thông marketing theo định hướng của hệ thống nhận diện thương hiệu không tốn hơn chút nào so với những tài liệu chỉ đáp ứng tính chức năng đơn thuần. Thực tế, chúng ta có thể hạ thấp được phần nào chi phí sản xuất các tài liệu truyền thông “tĩnh”, như giấy tờ văn phòng, biểu mẫu, tài liệu thông tin sản phẩm, biển hiệu đại lý hay hệ thống nhận diện phương tiện vận chuyển, bởi có thể thực hiện chúng một cách hệ thống hơn.
Tuy nhiên, giá trị lớn nhất mà doanh nghiệp thu nhận được từ việc triển khai các tài liệu truyền thông marketing áp dụng bản sắc nhận diện thương hiệu mang tính chiến lược chính là, cho dù ngân sách truyền thông marketing của bạn là bao nhiêu thì hiệu quả đạt được sẽ nâng cao hơn rất nhiều. Khi được thiết lập, hệ thống bản sắc nhận diện thương hiệu sẽ giúp tối đa hóa hiệu quả tất cả các tài liệu truyền thông marketing để xây dựng một hình ảnh thương hiệu mạnh.
Bản sắc nhận diện thương hiệu cũng được xem như một trong những mặt không thể thiếu trong quá trình tạo dựng một thương hiệu mạnh, như quản lý chất lượng, nghiên cứu, marketing, truyền thông marketing, bán hàng và phân phối. Giống các hoạt động này, bản sắc nhận diện thương hiệu cũng cần được quản lý như một hoạt động thường xuyên và liên tục. Hệ thống nhận diện thương hiệu cần phải được xây dựng trên cơ sở các mục tiêu phát triển dài hạn, nên trước tiên cần có sự tham gia của ban lãnh đạo cấp cao nhất trong doanh nghiệp. Và khi tạo dựng được hệ thống, ban lãnh đạo cần giao quyền hạn cho một cá nhân chuyên trách đảm nhiệm việc duy trì hệ thống đó và đảm bảo rằng, mọi hoạt động truyền thông marketing thường xuyên của công ty đều theo sát bản sắc nhận diện của thương hiệu, từ tấm danh thiếp nhỏ cho đến biển quảng cáo lớn.

SOURCE: CIVILLAWINFOR TỔNG HỢP TỪ NGUỒN THÔNG TIN TRÊN BÁO ĐẦU TƯ ONLINE (Tên bài viết Civillawinfor đặt)

Trích dẫn từ: http://www.vir.com.vn/Client/Dautu/dautu.asp?CatID=56&DocID=15475

Thứ Tư, 6 tháng 8, 2008

MỘT SỐ VẤN ĐỀ NHÃN HIỆU HÀNG HÓA NỔI TIẾNG

image THS. NGUYỄN NHƯ QUỲNH - Khoa Luật dân sự - Đại học Luật Hà Nội

Kể từ khi Việt nam chuyển đổi nền kinh tế từ tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước cho đến nay đã chứng tỏ là một thị trường hấp dẫn đối với các nhà đầu tư, nhà sản xuất nước ngoài. Ngày càng nhiều nhãn hiệu hàng hoá nôỉ tiếng xuất hiện và được sử dụng tại nước ta như : Malboro, Coca-cola, Pepsi-Cola, Honda, Toyota, Ford, Mercedes, Sony, Nike, Adidas, Pampers, Colgate, Kodak, Bristol Myers, Levis, Johnson & Johnson, Shell, Mobil, Esso..

Việt nam đã trở thành thành viên của công ước Paris về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp từ 8/3/1949. Trong khi đó những hiểu biết về nhãn hiệu nổi tiếng nói chung và nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng nói riêng của chúng ta không nhiều (thực tế cho thấy không ít nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng bị vi phạm tại Việt Nam. Ví dụ: vụ Công ty Phillip Moris (Mỹ)- chủ sở hữu của nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng Malboro đã kiện Công ty Lotaba (Thanh Hoá), Công ty thuốc lá Khánh Hoà, Công ty Goldern Desire về việc làm giả thuốc lá gắn nhãn hiệu Malboro tại Việt Nam). Chính vì vậy, việc tìm hiểu các vấn đề pháp lý và thực tiễn về nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng không chỉ có ý nghía đối với các nhà quản lý, nhà sản xuất mà cả đối với người tiêu dùng.

Trong bài viết này , chúng tôi xin bàn về những vấn đề sau:

1. Các tiêu chí để xác định một nhãn hiệu hàng hoá là nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng .

2. Bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng theo các Công ước quốc tế (hành vi vi phạm và cách thức bảo hộ ).

3. Bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng ở Việt nam .

Cho đến nay, nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng được quy định chủ yếu trong các văn bản pháp luật quốc tế sau: Công ước Paris về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp (Điều 6bis); Thoả thuận về những khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (TRIPs - Điều 16) và Hiệp định Thương mại Thuế quan và Mậu dịch của Tổ chức thương mại thế giới –WTO. Liên minh Châu Âu có văn bản pháp luật về nhãn hiệu hàng hoá (bao gồm cả nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng) ngày 21/12/1988 (Directive 89/104/EEC). Tuy nhiên, chưa có văn bản pháp luật quốc tế nào đưa ra khái niệm nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng cũng như các tiêu chí để xác định một nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng. Điều 6bis - Công ước Paris chỉ đưa ra các quy định nhằm bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng. Trong khi đó, Điều 16(2) - TRIPs có quy định “để xác định một nhãn hiệu hàng hoá có nổi tiếng hay không các thành viên phải chú ý đến sự nhận biết nhãn hiệu hàng hoá đó trong bộ phận công chúng liên quan, bao gồm sự nhận biết đạt được tại nước thành viên liên quan đó nhờ quảng cáo nhãn hiệu hàng hoá đó”. Theo chúng tôi, TRIPs đã đưa ra tiêu chí cơ bản nhất để xác định nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng. Cũng lưu ý thêm rằng: Điều 6bis - Công ước Paris chỉ đề cập đến nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng nhưng Điều 16 - TRIPs mở rộng việc bảo hộ đối với cả nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng, nhãn hiệu dịch vụ nổi tiếng.

Như vậy, việc xác định một nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng tuỳ thuộc vào hệ thống đánh giá (nếu có) của từng quốc gia hay nói cách khác nó mang tính chủ quan. Nhưng trước hết, nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng (well-known trademark) phải là một nhãn hiệu hàng hoá (trademark). Đó là những dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hoá, dịch vụ cùng loại của các cơ sở sản xuất, kinh doanh khác nhau. Nhãn hiệu hàng hoá có thể là từ ngữ, hình ảnh hoặc sự kết hợp các yếu tố đó được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc . Theo Bộ luật sở hữu trí tuệ của Pháp (1), một nhãn hiệu hàng hoá được coi là nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng khi nó được biết đến trong một bộ phận công chúng. Việc xác định tính chất nổi tiếng dựa vào những tiêu chí sau: thời hạn sử dụng nhãn hiệu hàng hoá; nhãn hiệu hàng hoá được sử dụng rộng rãi (được sản xuất và phân phát tới công chúng với một số lượng lớn, trọng phạm vi rộng); được quảng cáo liên tục trên một phạm vi rộng. Còn theo Luật sở hữu trí tuệ của Trung Quốc (1996) (2), nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng là một nhãn hiệu hàng hoá được sử dụng (trên thị trường) trong một thời gian dài, có danh tiếng và gần gũi với công chúng. Các tiêu chí cụ thể là: thời hạn sử dụng nhãn hiệu hàng hoá; chất lượng hàng hoá; số lượng hàng hoá và phạm vi phân phối hàng hoá trong và ngoài lãnh thổ Trung Quốc; các tiêu chí công nghiệp chính cho việc sản xuất hàng hoá; phạm vi, thời hạn quảng cáo; việc đăng ký nhãn hiệu hàng hoá trong và ngoài lãnh thổ Trung Quốc; một số tiêu chí khác nhằm mục đích chứng minh một nhãn hiệu hàng hoá là nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng.

Qua tìm hiểu pháp luật một số nước trên thế giới và thực tiễn, chúng tôi cho rằng để đánh giá một nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng có thể dựa vào một số tiêu chí sau đây:

1. Mức độ hiểu biết và sự công nhận của công chúng.

Một nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng được nhiều người biết đến về đặc điểm nhãn hiệu hàng hoá, chất lượng sản phẩm được gắn nhãn hiệu hàng hoá, nhà sản xuất sản phẩm đó.. ; đồng thời cũng nhiều người công nhận uy tín, sự nổi tiếng của nó. Tức là: nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng phải có danh tiếng (reputation) trong một bộ phận công chúng nhất định. "Bộ phận công chúng" được hiểu là những người có liên quan đến loại nhãn hiệu hàng hoá đó, những khách hàng tiềm năng (potential consumer). Ví dụ, khi nói đến tivi Sony, nhiều người chỉ có trình độ hiểu biết trung bình cũng biết được đó là tivi của Nhật Bản, chất lượng tốt, rất bền, kiểu dáng đẹp..

2. Phạm vi, thời hạn sử dụng nhãn hiệu hàng hoá.

Đây là tiêu chí xác định yếu tố không gian, thời gian mà nhãn hiệu hàng hoá được sử dụng. Nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng không những được sử dụng tại nước đăng ký bảo hộ lần đầu tiên mà còn được sử dụng rộng rãi ở khu vực và trên toàn thế giới. Mặt khác, nhãn hiệu hàng hoá đó phải được sử dụng lâu dài kể từ thời điểm đăng ký bảo hộ lần đầu tiên hoặc được sử dụng lần đầu tiên. Hai yếu tố không gian và thời gian tỉ lệ thuận với mức độ nổi tiếng của một nhãn hiệu hàng hoá. Chính phạm vi sử dụng rộng rãi và sự tồn tại, phát triển lâu dài của nhãn hiệu hàng hoá tạo nên uy tín, danh tiếng của nhãn hiệu hàng hoá; ngược lại, nhãn hiệu hàng hoá càng nổi tiếng thì càng nhiều người biết đến, sử dụng, công nhận nó. Ví dụ: tháng 5/1986, Toà Phúc thẩm Paris đã phán quyết: nhãn hiệu LIBERTY (gắn trên sản phẩm dệt, quần áo) là nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng với lý do chính nó được đăng ký từ năm 1893.

3. Phạm vi, thời hạn, tính chất của các chương trình quảng cáo sản phẩm gắn nhãn hiệu hàng hoá.

Quảng cáo là một công cụ hữu hiệu “chuyển tải” sản phẩm tới người tiêu dùng. Nhiều người tiêu dùng biết đến sản phẩm nhờ hoạt động quảng cáo. Thông thường các nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng được quảng cáo ở nhiều nước thuộc các châu lục, khu vực khác nhau trên thế giới, trong các chương trình truyền hình lớn hay các sự kiện mang tính chất toàn cầu như WorldCup, Thế vận hội Olympic...; chủ sở hữu nhãn hiệu hàng hoá/nhà sản xuất thường đầu tư một số tiền lớn cho quảng cáo với chương trình quảng cáo ấn tượng. Trong một vụ kiện tại Canada, thẩm phán Cattanach đã khẳng định các nhãn hiệu hàng hoá Coca-Cola, esso, Chevrolet là nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng vì lý do chúng được quảng cáo hàng ngày ở mọi nơi trên lãnh thổ Canada, ở các tạp chí, đài phát thanh, truyền hình mà ai cũng có thể nhìn thấy được, nghe thấy được (3).

Nói chung, chủ sở hưũ nhãn hiệu hàng hoá/ nhà sản xuất coi quảng cáo là một trong những nội dung cơ bản trong chiến lược cơ bản trong chiến lược phát triển. ở đây cũng cần lưu ý rằng: một nhãn hiệu hàng hoá không thể trở thành nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng chỉ nhờ quảng cáo.

4. Phạm vi, thời hạn mà nhãn hiệu hàng hoá được đăng ký.

Các nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng có số lượng quốc gia bảo hộ lớn và thời hạn bảo hộ lâu dài. Nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng Honda (Nhật bản) được trên 100 quốc gia bảo hộ; nhãn hiệu Valentino (ý) được bảo hộ ở gần 130 quốc gia; Pierre Cardin (Pháp) được gần 100 quốc gia bảo hộ (4).

5. Giá trị thương mại của nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng.

Việc xác định giá trị thương mại của một nhãn hiệu hàng hoá dựa vào một số yếu tố sau: Giá trị khi nhãn hiệu hàng hoá được chuyển nhượng, giá trị đầu tư vào nhãn hiệu hàng hoá, năng lực/ khả năng của công ty có nhãn hiệu hàng hoá, giá trị của các tài sản khác của công ty có nhãn hiệu hàng hoá, giá trị của sản phẩm được gắn nhãn hiệu hàng hoá, thị phần của sản phẩm được gắn nhãn hiệu hàng hoá. Các nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng có gía trị thương mại lớn hơn rất nhiều so với giá trị thương mại của các nhãn hiệu hàng hoá không phải là nhãn hiệu hãng hoá nổi tiếng. Chúng tôi xin đưa ra đây một ví dụ: P/S là một nhãn hiệu hàng hoá có uy tín của Việt nam, giá trị của nhãn hiệu hàng hoá này đã được xác định khi chuyển nhượng là 7,3 triệu USD. Trong khi đó giá trị thương mại của Malboro là 300 tỷ USD và của Coca Cola là 336 tỷ USD (5).

6. Ngoài ra, việc xác định một nhãn hiệu hàng hoá là nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng còn căn cứ vào một số tiêu chí sau: doanh thu bán hàng; nhãn hiệu hàng hoá đã từng được cơ quan có thẩm quyền thừa nhận là nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng. Chẳng hạn như Toà án quốc gia, Toà án Quốc tế (International Court) đã công nhận một nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng khi có khiếu kiện về nhãn hiệu hàng hoá này.

Một số nước phân chia nhãn hiệu hàng hoá thành 3 loại: nhãn hiệu hàng hoá cực kỳ nổi tiếng, nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng, nhãn hiệu hàng hoá mới nổi tiếng. Theo chúng tôi, việc phân loại này không có ý nghĩa thực tế.

Trên đây là một số tiêu chí cơ bản thường được dùng để xác định nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng. Như vậy, vẫn có thể xảy ra tình trạng cùng một nhãn hiệu hàng hoá nhưng quốc gia này công nhận là nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng và cho hưởng quy chế pháp lý của nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng nhưng quốc gia khác lại không công nhận.

Theo điêù 6 bis- Công ước Paris, những hành vi sau bị coi là hành vi vi phạm nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng:

- Sao chép, bắt chước, chuyển đổi và có khả năng gây nhầm lẫn với nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng. Ví dụ: sử dụng nhãn hiệu hàng hoá Valentno là vi phạm nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng Valentino.

- Sử dụng nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng trên loại hàng hoá giống (the same) và tuơng tự (the similar). Ví dụ một trường hợp vi phạm tại Trung Quốc: sử dụng nhãn hiệu Malboro (thuốc lá) để gắn lên rượu. ở một số nước, quy định sử dụng nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng gắn lên sản phẩm "tương tự" được xem xét rất nghiêm ngặt. Ví dụ: Toà Phúc thẩm Paris ngày 21/2/1989 đã phán quyết việc sử dụng nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng American express (cho tín dụng và họat động du lịch) để gắn lên sản phẩm quần áo là vi phạm (6).

- Thành phần chủ yếu của nhãn hiệu là sự sao chép của bất kỳ nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng nào hoặc là sự bắt chước có khả năng gây nhầm lẫn với nhãn hiệu hàng hoá đó. Ví dụ: một nhà sản xuất Trung Quốc đã bị xác định là vi phạm nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng Mickey Mouse của Công ty Walt disney Production (Mỹ) khi sử dụng nhãn hiệu hàng hoá Mickey Mouse-like cho sản phẩm của mình.

Thực tế cho thấy, các nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng bị vi phạm thường là những nhãn hiệu gắn trên các sản phẩm nhỏ, dễ làm, dễ tẩu tán, dễ tiêu thụ, và không cần vốn lớn (Việc làm giả các sản phẩm thơì trang mang nhãn hiệu Valentino, Pierre Cardin dễ dàng hơn làm giả máy bay Boing hay xe hơi Roll Royce). Hình thức vi phạm chủ yếu là làm giả tức là gắn nhãn hiệu hàng hoá giống hệt (the same) lên sản phẩm bị làm giả. Bởi vì bản thân nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng (bao gồm dấu hiệu, màu sắc, chữ viết, hình ảnh...) được người tiêu dùng nhận thức tương dối dễ dàng nhưng chất lượng của sản phẩm gắn nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng đôi khi khó kiểm soát, đánh giá.

Bất kì cá nhân, tổ chức nào có một trong các hành vi vi phạm nêu trên, chủ văn bằng bảo hộ hoặc người sử dụng hợp pháp nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng có quyền áp dụng các hình thức xử lý thích hợp. Trước hết, họ có quyền áp dụng các quy định bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá nói chung. Tức là: nếu “bên bị vi phạm” và bên “vi phạm” đều là thành viên của công ước Paris thì bên bị vi phạm có quyền yêu cầu quốc gia có bên vi phạm sử dụng các công cụ pháp lý thích hợp để ngăn chặn có hiệu quả tất cả các hành vi vi phạm. Ngoài ra, họ còn có quyền khởi kiện tại toà án(cả toà án quốc tế )và các cơ quan hành chính có thẩm quyền khác (xem thêm điều 10-Công ước Paris). Trong trường hợp bên bị vi phạm và bên vi phạm hoặc một trong hai bên không phải là thành viên của Công ước Paris thì việc giải quyết đựơc tiến hành theo sự thoả thuận của hai bên. Đối với nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng, bên bị vi phạm có quyền yêu cầu huỷ bỏ nhãn hiệu hàng hoá vi phạm. Thời hạn yêu cầu huỷ bỏ được quy định không ít hơn 5 năm kể từ ngày đăng kí nhãn hiệu hàng hoá vi phạm được đăng ký (điều 6 bis- Công ước Paris). Bên cạnh đó, các nước thành viên cũng có quyền quy định thời hạn có thể yêu cầu cấm sử dụng nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng. Nếu việc vi phạm có “dụng ý xấu” (bad faith) (xem thêm điều 6 bis) tức là nhằm gây tổn hại nghiêm trọng về uy tín, vật chất ...cho chủ sở hữu, người sử dụng hợp pháp nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng thì thời hạn yêu cầu huỷ bỏ hoặc ngăn cấm việc sử dụng của chủ văn bằng nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng/ người sử dụng hợp pháp nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng là vô hạn.

Xuất phát từ đặc điểm của nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng là có uy tín, danh tiếng trên toàn thế giới sau một thời hạn nhất định kể từ thời điểm đăng kí bảo hộ lần đầu tiên. Cho nên đối với nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng, thủ tục đăng ký bảo hộ bắt buộc chỉ đặt ra lần đầu tiên với ý nghĩa là đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá. Các văn bản pháp luật quốc tế và văn bản pháp luật quốc gia đều không quy định: Chủ sở hữu/ nhà sản xuất phải tiếp tục đăng kí tại bất kỳ quốc gia nào có sử dụng nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng. Như vậy, việc chủ sở hữu có muốn đăng ký nhãn hiệu hàng hoá hay không hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí của họ. Tuy nhiên trong thực tế, chủ sở hữu/ nhà sản xuất vẫn tiến hành thủ tục đăng kí cho nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng để đảm bảo quyền lợi chắc chắn của mình. Chẳng hạn hãng Coca-cola vẫn đăng ký bảo hộ cho nhãn hiệu nổi tiếng Coca-Cola tại Cục Sở hữu công nghiệp Việt Nam; Công ty Walt Disney Productions (Mỹ) vẫn đăng ký cho các nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng của mình là Mickey Mouse và Snow White taị Trung Quốc.

Như vậy, các quy định bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng trong các văn bản pháp luật quốc tế chỉ mang tính chất định khung. Để giải quyết tránh chấp phát sinh, các quốc gia cần cụ thể hoá trong các văn bản pháp luật quốc gia và Hiệp định song phương hay đa phương cho phù hợp.

Hiện nay, ở nước ta xuất hiện ngày càng nhiều các nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng thuộc các lĩnh vực khác nhau, chúng ta cũng đã tham gia Công ước Paris từ rất sớm. Tuy nhiên, cho đến nay cơ sở pháp lý để bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng còn nhiều khiếm khuyết. Trong hệ thống pháp luật Việt Nam chỉ có một điều luật duy nhất đề cập đến nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng. Cụ thể là điểm e-khoản 1- Điều 6-Nghị định 63/CP ngày 24/10/1996 của Chính Phủ quy định chi tiết về sở hữu công nghiệp. Chúng ta chưa có quy định cụ thể thế nào là một nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng hay đưa ra các tiêu chí xác định một nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng. Đây chính là khiếm khuyết đầu tiên về mặt pháp lý cần phải giải quyết.

Theo Điều 6 (điểm 1e) - Nghị định 63/CP, Điều 6bis - Công ước Paris sễ được áp dụng khi giải quyết các vấn đề liên quan đến nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng tại Việt Nam. Tuy nhiên, như chúng ta đã biết, những thoả thuận trong Công ước Paris và TRips chỉ mang tính định khung, các quốc gia thành viên cần có quy định cụ thể, phù hợp với những quy định định khung đó. Hầu hết các nước đều ban hành văn bản pháp luật riêng về sở hữu trí tuệ, trong đó khi điều chỉnh nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng có dẫn chiếu tới Công ước Paris, TRips và các văn bản pháp luật quốc tế khác bên cạnh những quy định riêng, cụ thể, phù hợp cho mình. Pháp ban hành Bộ luật sở hữu trí tuệ (Intellectual Property Code), Trung Quốc ban hành Luật nhãn hiệu hàng hoá (Trademark Law), Canada ban hành Luật nhãn hiệu hàng hoá (Trademark Act)...

Một số nước trên thế giới ban hành danh mục các nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng và được bổ sung liên tục hàng năm (như Mỹ, Nhật Bản - Xem danh mục The Japan 300; United State 300). Việc ban hành danh mục các nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, tránh tình trạng tranh chấp phát sinh khi cùng một nhãn hiệu hàng hoá nhưng quốc gia này công nhận là nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng, quốc gia khác lại không công nhận. Đây cũng là một văn bản cần thiết mà Việt Nam cũng cần xem xét để ban hành.

Bên cạnh đó, Việt Nam cũng chưa xác định rõ ràng cơ quan Nhà nước nào có thẩm quyền công nhận một nhãn hiệu hàng hoá là nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng. ở Trung Quốc, Luật nhãn hiệu hàng hoá năm 1996 quy định rõ cơ quan có thẩm quyền giải quyết mọi vấn đề liên quan đến nhãn hiệu hàng hoá nói chung là Phòng nhãn hiệu hàng hoá thuộc Uỷ ban nhà nước về công nghiệp và thương mại (SAIC) còn ở Pháp - Toà án có thẩm quyền này. Điều này gây khó khăn cho các chủ văn bằng bảo hộ/nhà sản xuất khi đưa nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng vào Việt Nam. Đây cũng chính là nguyên nhân, chủ văn bằng bảo hộ/nhà sản xuất cứ “chạy” từ Cục sở hữu công nghiệp sang Cục Bản quyền cho đến khi nào được đăng ký bảo hộ thì thôi. Trong thực tế, thẩm quyền quyền này thuộc về Cục Sở hữu công nghiệp. Bởi vì không có cơ quan nhà nước công nhận nhãn hiệu hàng hoá là nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng cho nên không có “con dấu” xác nhận nhãn hiệu hàng hoá đó đã được Việt Nam công nhận là nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng. Trong khi chủ văn bằng bảo hộ/nhà sản xuất rất cần điều này. Bởi vì, như chúng tôi đã trình bày từ phần đầu, số lượng quốc gia công nhận nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng là một trong các tiêu chí xác định nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng.

Để hoàn thiện cơ sở pháp lý bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng ở Việt Nam, cần khắc phục những khiếm khuyết nêu trên. Chúng ta phải có những quy định cụ thể phù hợp với các văn bản pháp luật quốc tế mà Việt nam tham gia, ký kết. Trước mắt, khi sửa đổi Nghị định 63/CP cần có những quy định đối với nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng: khái niệm, tiêu chí xác định một nhãn hiệu hàng hoá là nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng, quy định thẩm quyền của Cục Sở hữu công nghiệp trong việc xác định nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng. Có như vậy mới khuyến khích được việc đưa nhiều nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng, nhãn hiệu dịch vụ nổi tiếng hơn nữa vào Việt nam. Nói rộng hơn, đây cũng là một biện pháp khuyến khích đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực sở hữu trí tuệ đồng thời bảo hộ chính các nhà sản xuất và người tiêu dùng Việt Nam./.

Ghi chú:

(1) Xem Trang 269, 270 (Phần Pháp) của Tài liệu Famous and Wellknown marks - An international anlysis (Frederick W. Mastert). Butter Worths 1995.

(2) Xem Trang 255, 256 (Phần Trung Quốc) của Tài liệu Famous and Wellknown marks - An international anlysis (Frederick W. Mastert). Butter Worths 1995.

(3) Xem Trang 240 (Phần Canada) của Tài liệu Famous and Wellknown marks - An international anlysis (Frederick W. Mastert). Butter Worths 1995.

(4) + (5) Từ tài liệu của "Hội thảo về vai trò của hệ thống sở hữu trí tuệ trong việc thúc đẩy cạnh tranh ngày càng tăng giữa các doanh nghiệp" ( The asean regional symposeum on the role of the interllectual property system in augmenting interprises competativeness) được tổ chức tại Băngladet từ 22 đến 24/11/1999.

(6) Xem Trang 279 (Phần Pháp) của Tài liệu Famous and Wellknown marks - An international anlysis (Frederick W. Mastert). Butter Worths 1995.

Thứ Ba, 19 tháng 2, 2008

BẢO HỘ NHÃN HIỆU NỔI TIẾNG THEO PHÁP LUẬT CHÂU ÂU VÀ HOA KỲ

THS. PHAN NGỌC TĀM -  Trường ĐH Luật TP Hồ Chí Minh

I. ĐẶT VẤN ĐỀ

Trong vài năm trở lại đây, có rất nhiều nhãn hiệu nổi tiếng thế giới đã được đưa vào thị trường Việt Nam và trở thành những nhãn hiệu quen thuộc của người tiêu dùng trong nước như nước giải khát Pepsi, Coca Cola, xe hơi Ford, Toyota, sản phẩm thời trang Gucci, CK... Những nhãn hiệu này đã và đang đóng một vai trò to lớn trong sự phát triển chung của nền kinh tế quốc gia, đòi hỏi chúng ta cần phải có một cách nhìn nhận đúng đắn và có sự quan tâm cần thiết đến việc bảo hộ đối tượng này một cách hiệu quả và kịp thời trên thực tế. Trong thời gian qua, Việt Nam đã có rất nhiều cố gắng trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và lĩnh vực sở hữu trí tuệ nói riêng. Việt Nam đã trở thành thành viên của nhiều điều ước quốc tế quan trọng như Công ước Paris và Thoả ước Madrid từ năm 1949. Và những qui định mang tính nguyên tắc của các văn bản này về cơ bản đã được chuyển hóa và vận dụng một cách phù hợp trong hệ thống pháp luật quốc gia, đặc biệt là trong Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005. Tuy nhiên, những cố gắng kể trên nhìn chung chỉ thể hiện ở bề nổi và mang tính vĩ mô nhiều hơn chứ chưa đi vào giải quyết một cách kịp thời và hiệu quả những nhu cầu thực tiễn mà xã hội đang đặt ra, đặc biệt là đối với việc bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng.

Trong bối cảnh nước ta đang tiến đến rất gần mục tiêu hội nhập vào nền kinh tế thế giới, mà đích đến cụ thể của quá trình đó chính là việc gia nhập vào Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Việt Nam sẽ trở thành một thị trường thực sự hấp dẫn đối với các doanh nghiệp nước ngoài. Và một thực tế trước mắt mà bất cứ ai cũng có thể nhìn thấy là sẽ có rất nhiều các nhãn hiệu hàng hóa và dịch vụ nổi tiếng thế giới xuất hiện trên thị trường Việt Nam. Nhu cầu về hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng sẽ càng thể hiện rõ hơn bao giờ hết. Chúng ta cần có những động thái cụ thể và hiệu quả hơn trong công tác lập pháp cũng như trong quá trình áp dụng pháp luật về bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng để tạo lập một môi trường pháp lý an toàn nhằm tạo sự tin cậy và an tâm đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Với bài viết này, tác giả mong muốn làm rõ thêm một số vấn đề lý luận về nhãn hiệu nổi tiếng cũng như cung cấp một số thông tin liên quan đến các hệ thống pháp luật được coi là khá tiến bộ trong lĩnh vực này, đó là hệ thống pháp luật của Liên Minh Châu Âu và hệ thống pháp luật Hoa Kỳ.

II. KHÁI QUÁT VỀ NHÃN HIÊU HÀNG HÓA NỔI TIẾNG

Nhãn hiệu (Trademark) là một yếu tố đặc trưng gắn liền giữa thị trường thương mại và lĩnh vực sở hữu công nghiệp. Nó đã được sử dụng trong một thời gian dài bởi các nhà sản xuất cũng như các thương nhân để xác định nguồn gốc xuất xứ của hàng hóa hay dịch vụ của họ và phân biệt những hàng hóa, dịch vụ đó với các hàng hóa, dịch vụ được sản xuất hay bán bởi các chủ thể khác. Chức năng phân biệt nguồn gốc của hàng hóa hay dịch vụ của nhãn hiệu hàng hóa luôn được xem là yếu tố quan trọng nhất của nhãn hiệu hàng hóa. Vì vậy nó luôn đóng vai trò trung tâm và được đề cập đến rất nhiều trong pháp luật về nhãn hiệu hàng hóa của hầu hết các quốc gia trên thế giới.

Nhãn hiệu hàng hóa đã trải qua một lịch sử phát triển khá dài trong suốt quá trình phát triển của nền thương mại thế giới. Từ thời La Mã cổ đại, việc các nhà sản xuất chạm nổi hay đóng dấu lên các sản phẩm của mình là khá phổ biến. Đó là một hình thức thể hiện của nhãn hiệu hàng hóa, qua những hình thể chạm nổi hay các con dấu mà họ có thể phân biệt xuất xứ hàng hóa của các nhà sản xuất với nhau.

Ngày nay, nhãn hiệu hàng hóa được sử dụng một cách phổ biến hơn với nhiều thể loại hơn. Và nó là một hình thức rất có giá trị của quyền sở hữu trí tuệ bởi vì nó gắn liền với chất lượng cũng như sự mong đợi của người tiêu dùng đối với hàng hóa và dịch vụ.1 Nhiều sản phẩm hàng hóa đã trở nên đồng nhất với tên nhãn hiệu của chúng, chẳng hạn như nước giải khát Coca Cola, cà phê Nestcafé, quần Jean Levi’s... Những sản phẩm này thực sự đã trở nên nổi tiếng và được biết đến một cách rộng rãi ở nhiều nước trên thế giới. Đây cũng là một thành công quan trọng của các nhà sản xuất và các thương nhân trong việc quảng bá sản phẩm của họ. Tuy nhiên, chính sự nổi tiếng của nhãn hiệu hàng hóa cũng mang lại không ít khó khăn cho các doanh nghiệp vì nó sẽ rất dễ bị xâm phạm bởi các chủ thể khác. Ngày càng có nhiều các hàng hóa và dịch vụ tương tự với những hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu nổi tiếng được sản xuất và điều này đã gây ra sự nhầm lẫn của người tiêu dùng trong việc lựa chọn và sử dụng những hàng hóa, dịch vụ thật sự mà họ mong muốn. Vì vậy, một trong những vấn đề quan trọng đặt ra là phải làm thế nào ngăn chặn các hiện tượng xâm phạm đối với nhãn hiệu hàng hóa nổi tiếng như thế. Mặc dù đã được biết đến từ rất lâu, song cho đến hiện nay cách hiểu về “nhãn hiệu nổi tiếng” vẫn còn đang rất khác nhau trong các điều ước quốc tế cũng như trong pháp luật các nước. Công ước Paris năm 1883 2 về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đã lần đầu tiên đề cập đến nhãn hiệu hàng hóa nổi tiếng tại Điều 6bis 3 bằng cách quy định nghĩa vụ bắt buộc của các quốc gia thành viên trong việc từ chối hay hủy bỏ mọi sự đăng ký cũng như ngăn cấm mọi sự sử dụng của nhãn hiệu hàng hóa mà nó được coi là một sự sao chép, một sự bắt chước, một bản dịch hoặc có thể gây nhầm lẫn với một nhãn hiệu nổi tiếng4; và quy định về khoảng thời gian cho phép chủ sở hữu nhãn hiệu nổi tiếng yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền hủy bỏ sự đăng ký đối với những nhãn hiệu xâm phạm.5 Tuy nhiên, Công ước lại không hề đưa ra một định nghĩa chính thức và rõ ràng về “nhãn hiệu nổi tiếng”. Chỉ có một căn cứ duy nhất để xác định một nhãn hiệu hàng hóa trở nên nổi tiếng, đó là sự chấp nhận hay thừa nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền của quốc gia nơi nhãn hiệu được đăng ký hay quốc gia nơi sản phẩm được sử dụng.

Theo những quy định của Hiệp định TRIPs,6 vấn đề bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng nhìn chung dựa trên các nguyên tắc được ấn định bởi Công ước Paris với những sự thay đổi và bổ sung phù hợp. Theo đó, khái niệm “nhãn hiệu nổi tiếng” không chỉ được sử dụng cho đối tượng là hàng hóa mà còn được sử dụng cho cả các đối tượng dịch vụ, và Hiệp định cũng ghi nhận một số căn cứ chung để xác định một nhãn hiệu hàng hóa có phải là nổi tiếng hay không 7. Ngoài ra, Hiệp định cũng mở rộng phạm vi các nhãn hiệu nổi tiếng được bảo hộ, bao gồm cả các nhãn hiệu được coi là rất nổi tiếng.

Bên cạnh các điều ước quốc tế nói trên, chúng ta cũng có thể tìm thấy các quy định về bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa nổi tiếng trong hệ thống pháp luật của nhiều quốc gia trên thế giới, chẳng hạn, Đạo luật về Nhãn hiệu hàng hóa năm 1938 và sau đó được sửa đổi bởi Đạo luật Nhãn hiệu hàng hóa năm 1994 của Vương quốc Anh, Đạo luật Lanham năm 1946 của Hoa Kỳ (được sửa đổi bởi Đạo luật Liên bang về Sự mờ nhạt nhãn hiệu hàng hóa năm 1995), Đạo luật nhãn hiệu hàng hóa của Hàn Quốc, Đạo luật nhãn hiệu hàng hóa và Bộ luật về Sở hữu trí tuệ của Pháp, Luật nhãn hiệu hàng hóa Canada năm 1985... Tuy nhiên, pháp luật của không ít quốc gia đã không đưa ra được một hệ thống các tiêu chí cụ  thể để xác định “nhãn hiệu hàng hóa nổi tiếng”. Do vậy, trên thực tế khái niệm này sẽ được xác định bởi các Tòa án hay các cơ quan có thẩm quyền trong từng vụ việc cụ thể.8

Theo luật về nhãn hiệu hàng hóa của Nga năm 1992, nhãn hiệu hàng hóa nổi tiếng cũng như những vụ việc, tình huống liên quan đến việc chủ sở hữu nhãn hiệu yêu cầu sự công nhận đối với nhãn hiệu nổi tiếng ở Nga sẽ được xem xét bởi Phòng Patent tối cao (Supreme Patent Chamber).9 Ở Trung Quốc, thông qua các quy định hiện hành của Luật Nhãn hiệu hàng hóa và các quy định hướng dẫn thi hành Luật Nhãn hiệu hàng hóa, lần đầu tiên Trung Quốc thừa nhận một cách chính thức nhãn hiệu hàng hóa nổi tiếng trong hệ thống pháp luật của họ dù rằng Trung Quốc đã chính thức trở thành thành viên của công ước Paris từ rất sớm. Luật Nhãn hiệu hàng hóa của Trung Quốc đã đưa ra một định nghĩa về nhãn hiệu hàng hóa nổi tiếng hơi khác so với các nước khác. Cụ thể, nhãn hiệu nổi tiếng là nhãn hiệu hàng hóa được đăng ký mà nó có một bộ phận khách hàng thực tế và được coi là nổi tiếng trong bộ phận công chúng liên quan. Như vậy, một nhãn hiệu hàng hóa có thể là nhãn hiệu nổi tiếng ở các nước khác nhưng chưa được đăng ký ở Trung Quốc thì sẽ không được xem là nhãn hiệu nổi tiếng để được hưởng chế độ pháp lý về bảo hộ theo Luật Nhãn hiệu hàng hóa của nước này.10

Mặc dù có những sự khác biệt giữa các hệ thống pháp luật, chúng ta vẫn có thể đưa ra một định nghĩa chung nhất về nhãn hiệu hàng hóa nổi tiếng. Theo đó, nhãn hiệu hàng hóa nổi tiếng (well-known trademark) được hiểu là nhãn hiệu được biết đến một cách rộng rãi bởi nhiều người trong những phạm vi lãnh thổ nhất định hoặc được xem xét, thừa nhận bởi các cơ quan có thẩm quyền của các quốc gia nơi nhãn hiệu được đăng ký bảo hộ hay được sử dụng.

Như vậy, nhãn hiệu nổi tiếng trước hết phải là một nhãn hiệu hàng hóa, bao gồm các “ký tự, hình ảnh hay dấu hiệu hoặc sự kết hợp của những yếu tố đó được sử dụng cho những hàng hóa hay dịch vụ bởi một người mà người đó đã sản xuất, gia công, đảm bảo hay bán những hàng hóa, dịch vụ đó nhằm mục đích thương mại để phân biệt với hàng hóa hay dịch vụ của các chủ thể khác”.11 Tuy nhiên, với cách hiểu như đã đề cập ở phần trước, nhãn hiệu nổi tiếng có những đặc trưng nổi bật so với các nhãn hiệu hàng hóa thông thường khác. Đó là:

- Thứ nhất, một nhãn hiệu nổi tiếng phải là nhãn hiệu có tính phân biệt. Thông qua một nhãn hiệu hàng hóa nổi tiếng, người tiêu dùng có thể nhận biết ngay loại hàng hóa hay dịch vụ mà nhãn hiệu đó được sử dụng. Ví dụ, khi nói đến nhãn hiệu Coca Cola, người tiêu dùng sẽ nghĩ ngay đến nước giải khát, hoặc khi nói đến Toyota, họ sẽ nghĩ ngay đến xe hơi...

- Thứ hai, nhãn hiệu hàng hóa nổi tiếng thường có tính phổ biến cao. Một nhãn hiệu nổi tiếng là nhãn hiệu được biết đến bởi nhiều người ở nhiều khu vực địa lý khác nhau. Chẳng hạn, Ford là một nhãn hiệu xe hơi của Hoa Kỳ nhưng nó lại được biết đến bởi người tiêu dùng trên hầu hết các quốc gia trên thế giới.

- Thứ ba, nhãn hiệu hàng hóa nổi tiếng thường có giá trị kinh tế lớn và rất lớn. Nó cấu thành một bộ phận tài sản quan trọng trong khối lượng tài sản của doanh nghiệp. Thật vậy, có không ít nhãn hiệu nổi tiếng đã trở thành một phần tài sản quan trọng, thậm chí đóng vai trò quyết định, trong khối lượng tài sản các công ty sở hữu nhãn hiệu nổi tiếng. Trên thực tế, trong nhiều trường hợp các doanh nghiệp có thể sử dụng nhãn hiệu nổi tiếng của mình như là một loại vốn để đưa vào các hoạt động đầu tư, kinh doanh...

Một nhãn hiệu hàng hóa chỉ có thể trở thành nhãn hiệu nổi tiếng nếu nó thỏa mãn những yêu cầu hay tiêu chí nhất định do chủ sở hữu nhãn hiệu chứng minh hoặc theo quy định của pháp luật. Bất kể sự khác biệt giữa các hệ thống pháp luật của các quốc gia trong lĩnh vực lập pháp cũng như trong thực tiễn áp dụng pháp luật, chúng ta cũng có thể khái quát các trường hợp chung nhất mà theo đó một nhãn hiệu hàng hóa sẽ được công nhận là nổi tiếng. Đó là: Sự lặp đi lặp lại của nhãn hiệu trong một bộ phận công chúng liên quan; Mức độ được biết đến của nhãn hiệu trong công chúng; Quy mô và khoảng thời gian sử dụng nhãn hiệu; Thời gian, mức độ và phạm vi địa lý của bất kỳ sự quảng cáo hay thông tin cho nhãn hiệu; Mức độ của tính phân biệt vốn có hay được yêu cầu của nhãn hiệu nổi tiếng; Bản chất của những loại hàng hóa, dịch vụ và những kênh lưu thông cho những hàng hóa, dịch vụ mà nhãn hiệu được sử dụng; Bản chất và mức độ sử dụng của những nhãn hiệu giống hoặc tương tự bởi bên thứ ba; Lịch sử của quá trình thực thi quyền trong việc bảo hộ nhãn hiệu; Những quốc gia nơi nhãn hiệu đã được đăng ký.

Những yếu tố được đề cập trên đây chỉ là những căn cứ chung được thừa nhận một cách rộng rãi trong pháp luật của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Ngoài ra, phụ thuộc vào những điều kiện cụ thể cũng như quan điểm lập pháp riêng của mỗi quốc gia mà họ có thể đưa ra các quy định cụ thể liên quan đến việc thừa nhận nhãn hiệu hàng hóa nổi tiếng.

III. BẢO HỘ NHÃN HIÊU NỔI TIẾNG THEO PHÁP LUẬT LIÊN MINH CHÂU ÂU

Các nguyên tắc bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa nói chung và nhãn hiệu nổi tiếng nói riêng ở Cộng đồng Châu Âu được ghi nhận trong hai văn bản pháp luật quan trọng được ban hành liên quan một cách trực tiếp đến pháp luật về nhãn hiệu hàng hóa, đó là Văn bản hướng dẫn đầu tiên năm 1988, 104/89/EEC, về hài hòa pháp luật về nhãn hiệu hàng hóa của các quốc gia và Quy định của Hội đồng năm 1993, 40/94/EC, về Nhãn hiệu hàng hóa Cộng đồng.

Văn bản hướng dẫn 104/89/EEC được ban hành không phải nhằm mục đích thống nhất tất cả các hệ thống pháp luật về nhãn hiệu hàng hóa của các quốc gia. Mục đích của nó chỉ là hướng đến cố gắng làm giảm đi sự khác biệt giữa các hệ thống nhãn hiệu hàng hóa quốc gia là nguyên nhân gây ra những rào cản cho thương mại và ảnh hưởng đến sự lưu thông tự do hàng hóa, dịch vụ cũng như hạn chế sự phát triển của các thị trường đơn lẻ. Văn bản hướng dẫn nhấn mạnh những nội dung mấu chốt của luật thực định hơn là những vấn đề của luật hình thức.12 Có ba điều khoản quan trọng của văn bản liên quan đến cơ chế đăng ký nhãn hiệu hàng hóa cũng như việc xác lập quyền thông qua đăng ký, đó là:

- Điều 3: Chỉ ra những căn cứ cho việc từ chối hay vô hiệu hóa sự đăng ký của các nhãn hiệu hàng hóa;

- Điều 4: Đề cập đến những trường hợp được coi là gây ra sự xung đột với những nhãn hiệu hàng hóa trước đó;

- Điều 5: Xác lập quyền thông qua thủ tục đăng ký nhãn hiệu hàng hóa.

Quy định 40/94/EC của Hội đồng Châu Âu năm 1993 chủ yếu đề cập đến những vấn đề liên quan đến nhãn hiệu hàng hóa cộng đồng. Vì thế, nó còn được biết đến với tên gọi Quy định về Nhãn hiệu hàng hóa Cộng đồng (Community Trade Mark Regulation – CTMR). Quy định này cũng đưa ra những nguyên tắc chung nhất về bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa cộng đồng, và những phương thức và trình tự cụ thể của quá trình đăng ký và bảo hộ quốc tế đối với đối tượng này ở khu vực châu Âu sẽ được quy định bởi pháp luật quốc gia.

Văn bản hướng dẫn 89/104/EEC đã đề cập một số vấn đề liên quan đến nhãn hiệu hàng hóa nổi tiếng thông qua việc quy định những căn cứ làm cơ sở cho việc từ chối hay hủy bỏ đăng ký đối với những nhãn hiệu hàng hóa được coi là xung đột với các nhãn hiệu hàng hóa trước đó.13 Trong đó, nhãn hiệu hàng hóa nổi tiếng là một trong những căn cứ quan trọng mà các cơ quan có thẩm quyền phải cân nhắc, xem xét khi tiếp nhận và đánh giá đơn đăng ký bảo hộ đối với nhãn hiệu hàng hóa ở Châu Âu.

Nhãn hiệu hàng hóa nổi tiếng có thể được bảo hộ ngay cả khi chúng chưa được đăng ký bởi cơ quan có thẩm quyền. Điều này có nghĩa rằng, đối với nhãn hiệu hàng hóa nổi tiếng, việc bảo hộ không chỉ được thực hiện trên cơ sở nguyên tắc “quyền ưu tiên đăng ký” (first - to - file) mà còn dựa trên nguyên tắc “quyền ưu tiên sử dụng” (first - to - use)14.

Theo những quy định tại Điều 4 của Văn bản hướng dẫn 89/104/EEC, một nhãn hiệu hàng hóa sẽ không thể được đăng ký, hoặc nếu đã được đăng ký sẽ có thể bị tuyên bố vô hiệu ở các quốc gia Châu Âu nếu nó bị coi là giống hoặc tương tự với những nhãn hiệu đã được đăng ký được sử dụng cho những hàng hóa hay dịch vụ tương tự, hoặc nó có thể gây ra sự nhầm lẫn với những nhãn hiệu Cộng đồng trước đó.15 Khái niệm “nhãn hiệu hàng hóa trước đó” (earlier trademark) được hiểu bao gồm cả những nhãn hiệu được thừa nhận là nổi tiếng phù hợp với quy định tại Điều 6bis của Công ước Paris 1883. Điều này cũng tiếp tục được khẳng định một lần nữa tại Quy định về nhãn hiệu hàng hóa cộng đồng năm 1993.16

Căn cứ về nguy cơ gây nhầm lẫn với một nhãn hiệu hàng hóa trước đó là một căn cứ quan trọng cho việc từ chối yêu cầu đăng ký đối với một nhãn hiệu hàng hóa. Tuy nhiên, việc xác định thuật ngữ “nguy cơ gây nhầm lẫn” (likelihood of confusion)17 là rất khó khăn trên thực tế, nhất là trong việc phân biệt nó với những thuật ngữ tương tự khác. Chẳng hạn, trong phán quyết của Tòa án về vụ kiện “Sabel v. Puma AG”, thuật ngữ “nguy cơ gây nhầm lẫn” mà nó bao gồm cả “nguy cơ liên tưởng” (likelihood of association) với những nhãn hiệu hàng hóa trước đó được giải thích theo nghĩa rằng sự nhầm lẫn liên tưởng mà công chúng có được giữa hai nhãn hiệu hàng hóa như là kết quả của sự giống hay tương tự về mặt ngữ nghĩa học sẽ không trở thành một căn cứ có ý nghĩa cho việc quyết định rằng có một “nguy cơ gây nhầm lẫn” theo quy định tại Điều 4 (1) (b) của Văn bản hướng dẫn. Sự tồn tại của một “nguy cơ liên tưởng” sẽ không đồng nghĩa với sự tồn tại một “nguy cơ gây nhầm lẫn” trên thực tế. Hay nói cách khác, “nguy cơ liên tưởng” ở đây không có giá trị thay thế cho một “nguy cơ gây nhầm lẫn”.18 Bởi vì điều này và cũng dựa trên kết quả nghiên cứu mà nó đã chỉ ra rằng PUMA không phải là một nhãn hiệu nổi tiếng đặc biệt ở Châu Âu, Tòa án đã tuyên rằng cơ quan có thẩm quyền không thể từ chối đăng ký cho nhãn hiệu SABEL.

Ngoài ra, còn có một nguyên tắc quan trọng khác liên quan đến việc bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa ở Châu Âu quy định rằng việc bảo hộ đối với nhãn hiệu hàng hóa nổi tiếng sẽ không chỉ bị giới hạn trong phạm vi những hàng hóa và dịch vụ tương tự. Theo đó, phạm vi bảo hộ sẽ được mở rộng cho cả những trường hợp nhãn hiệu hàng hóa được sử dụng cho những loại hàng hóa hay dịch vụ không tương tự khi những sự sử dụng như thế có thể gây thiệt hại hoặc tạo ra những điều kiện bất lợi cho danh tiếng của nhãn hiệu trước đó.19 Và khi một nhãn hiệu đã được công nhận là nổi tiếng tại một trong những nước thành viên của Liên minh, nó sẽ đương nhiên trở thành nhãn hiệu nổi tiếng trong toàn Liên minh.

Như vậy, nhãn hiệu nổi tiếng ở Châu Âu sẽ được bảo hộ chủ yếu thông qua các Điều ước quốc tế và các Văn bản pháp luật thống nhất của Liên minh. Bên cạnh đó, các hệ thống pháp luật độc lập của các quốc gia thành viên cũng đóng một vai trò rất quan trọng trong việc đưa ra các tiêu chí và quy định cụ thể về bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng trên lãnh thổ quốc gia mình.

IV. BẢO HỘ NHÃN HIÊU NỔI TIẾNG THEO PHÁP LUẬT HOA KỲ

Những thành công mà Hoa Kỳ đạt được cho đến nay là nhờ những chính sách và chiến lược đúng đắn trong việc kích thích quảng cáo và nâng cao chất lượng sản phẩm của các doanh nghiệp. Đó là một sự thật không thể chối cãi. Tuy nhiên, bên cạnh đó còn có sự đóng góp không nhỏ của hệ thống pháp luật về bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa nói riêng và hệ thống các chính sách về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ nói chung. Chính sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật này đã tạo được một nền tảng cơ bản và tạo động lực mạnh mẽ cho sự phát triển nền kinh tế.

Khác với các quốc gia Châu Âu và nhiều nước trên thế giới, Hoa Kỳ chưa phải là thành viên của Công ước Paris 1883 về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp cũng như một số các cam kết quốc tế khác về lĩnh vực này. Do vậy, về nguyên tắc Hoa Kỳ sẽ không chịu sự ràng buộc bởi các quy định của các điều ước quốc tế này. Điều này cũng có nghĩa rằng Hoa Kỳ sẽ không thể kế thừa và tận dụng được những thành tựu pháp lý quốc tế liên quan đến lĩnh vực này một cách chính thức như nhiều quốc gia khác. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật về bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa nói chung và nhãn hiệu nổi tiếng nói riêng ở Hoa Kỳ hiện nay lại thật sự tỏ ra khá hoàn chỉnh và hiệu quả ở cả cấp độ liên bang lẫn tiểu bang.

Việc thực thi pháp luật về bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa ở Hoa Kỳ hiện nay chủ yếu dựa trên những quy định của Đạo luật nhãn hiệu hàng hóa năm 1946 mà nó còn được biết đến với tên gọi Đạo luật Lanham. Thế nhưng Đạo luật này lại không đề cập một cách cụ thể đến nhãn hiệu hàng hóa nổi tiếng. Đến năm 1995, Nghị viện Hoa Kỳ mới thông qua một Đạo luật mới, Đạo luật Liên bang về sự lu mờ nhãn hiệu hàng hóa (FTDA).20 Đạo luật này được ban hành nhằm bổ sung, sửa đổi Đạo luật về Nhãn hiệu hàng hóa năm 1946, cụ thể là sửa đổi nội dung của Điều 43, quy định về sự đền bù hay bồi thường cho việc làm lu mờ đối với nhãn hiệu hàng hóa nổi tiếng. Đạo luật sửa đổi này đã mô tả các yếu tố để xác định một nhãn hiệu hàng hóa là phân biệt và nổi tiếng, đồng thời cũng đưa ra định nghĩa chính xác về thuật ngữ “sự lu mờ” (dilution), theo đó, sự lu mờ sẽ được hiểu là việc làm giảm khả năng của nhãn hiệu hàng hóa nổi tiếng trong việc xác định và phân biệt đối với hàng hóa hay dịch vụ mang nhãn.21 Bằng việc đưa ra những quy định mới này, lần đầu tiên nhãn hiệu hàng hóa nổi tiếng được pháp điển hóa trong hệ thống lập pháp Hoa Kỳ.

Mặc dù có những sự khác biệt cơ bản so với hệ thống pháp luật Châu Âu về bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng, nhưng đối với việc quy định nguyên tắc cơ bản điều chỉnh lĩnh vực này, hệ thống pháp luật Hoa Kỳ và Châu Âu lại có một điểm tương đồng, đó là sự ghi nhận nguyên tắc “quyền ưu tiên sử dụng” (first to use) một cách chính thức trong hệ thống pháp luật. Tuy nhiên, việc áp dụng nguyên tắc này trên thực tế lại không giống nhau. Nếu như trong hệ thống pháp luật Châu Âu, nguyên tắc “quyền ưu tiên sử dụng” được áp dụng trong sự kết hợp với nguyên tắc “quyền ưu tiên nộp đơn” (first to file) cùng với sự cân nhắc của Tòa án hoặc các cơ quan có thẩm quyền khác thì trong hệ thống pháp luật Hoa Kỳ, nguyên tắc này lại phải được áp dụng trong sự xem xét, cân nhắc của Tòa án trên cơ sở các nguyên tắc chung của Luật công bằng (Equity). Điều này thật ra cũng dễ hiểu vì Hoa Kỳ là một quốc gia theo hệ thống Luật Chung (Commmon Law), và trong hệ thống này thì các nguyên tắc của Luật công bằng là một trong những nguyên tắc chủ đạo chi phối tất cả các lĩnh vực của đời sống pháp lý.

Cho đến nay, không có một định nghĩa chính xác về khái niệm “nhãn hiệu hàng hóa nổi tiếng” ở Hoa Kỳ. Điều này cũng tương tự như tình trạng thực tế hiện nay ở Châu Âu cũng như ở rất nhiều quốc gia khác trên thế giới. Vì vậy, việc xác định một nhãn hiệu hàng hóa có phải là nhãn hiệu nổi tiếng hay không là rất phức tạp. Hầu hết các quốc gia trên thế giới, bao gồm cả Hoa Kỳ, đều trao thẩm quyền cho các cơ quan chức năng (thông thường là Tòa án hoặc các Văn phòng quốc gia về Sở hữu công nghiệp) trong việc xác định sự nổi tiếng của các nhãn hiệu hàng hóa trong những trường hợp cụ thể. Và lẽ dĩ nhiên những quyết định hay sự xem xét như thế trước tiên sẽ phải dựa trên những nguyên tắc cơ bản chung đã được quy định bởi pháp luật.

Theo những quy định tại Điều 3 của Đạo luật Liên bang về sự lu mờ nhãn hiệu hàng hóa năm 1995, chủ sở hữu của nhãn hiệu hàng hóa nổi tiếng sẽ có quyền, phù hợp với nguyên tắc của Luật công bằng và tuỳ thuộc vào sự xem xét của Tòa án, yêu cầu một Lệnh của Tòa án chống lại mọi sự sử dụng nhằm mục đích thương mại của người khác đối với nhãn hiệu hàng hóa hay tên thương mại, nếu sự sử dụng như thế được bắt đầu sau khi nhãn hiệu hàng hóa của chủ sở hữu trở nên nổi tiếng và những sự sử dụng đó có thể làm lu mờ hay làm giảm chất lượng hay khả năng phân biệt của nhãn hiệu hàng hóa nổi tiếng.

Và để có thể xác định một nhãn hiệu hàng hóa có phải là nhãn hiệu nổi tiếng hay không, Tòa án sẽ phải cân nhắc, xem xét đến các yếu tố sau đây:

- Mức độ của tính phân biệt vốn có hay được yêu cầu của nhãn hiệu;

- Khoảng thời gian và mức độ sử dụng nhãn hiệu trong mối liên hệ với hàng hóa hay dịch vụ mà nhãn hiệu được sử dụng;

- Khoảng thời gian và quy mô của các hoạt động quảng cáo hay phổ biến nhãn hiệu;

- Phạm vi địa lý của các khu vực thương mại mà nhãn hiệu được sử dụng;

- Các kênh lưu thông đối với hàng hóa hay dịch vụ mà qua đó nhãn hiệu được sử dụng;

- Mức độ công nhận nhãn hiệu trong các khu vực thương mại và các kênh lưu thông hàng hóa hay dịch vụ được sử dụng bởi chủ sở hữu nhãn hiệu;

- Bản chất và mức độ của việc sử dụng nhãn hiệu hàng hóa giống hay tương tự của bên thứ ba;

- Nhãn hiệu đã được đăng ký theo Đạo luật ngày 03/03/1881 hoặc Đạo luật ngày 20/02/1905, hoặc đăng ký nguyên tắc hay chưa.22

Vấn đề trọng tâm của việc bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa nổi tiếng theo pháp luật Hoa Kỳ chính là sự lu mờ nhãn hiệu hàng hóa. Thuật ngữ này đã được đưa ra và sử dụng trong một thời gian khá dài trước khi được đề cập trong luật. Nó được định nghĩa lần đầu tiên bởi Schechter vào năm 1927 để bảo vệ chống lại “sự biến mất dần dần hay sự phân tán những đặc tính và sự nhận biết của công chúng đối với nhãn hiệu hàng hóa bởi sự sử dụng nó cho những sản phẩm phi cạnh tranh”. Một năm sau đó, Thẩm phán Learned Hand, trong vụ kiện “Yale Electric Corporation v. Robertson” (năm 1928), đã chấp thuận một Lệnh cho phép chống lại sự sử dụng của bị đơn đối với nhãn hiệu hàng hóa tương tự với nhãn hiệu của nguyên đơn nhưng chỉ cho những hàng hóa phi cạnh tranh.23

Ở góc độ chung nhất, khái niệm về “sự lu mờ nhãn hiệu hàng hóa” được hiểu là sự làm giảm đi khả năng của nhãn hiệu nổi tiếng trong việc nhận biết và phân biệt hàng hóa hay dịch vụ, bất kể có tồn tại hay không tồn tại một sự cạnh tranh giữa chủ sở hữu nhãn hiệu nổi tiếng và các bên khác, hay khả năng gây nhầm lẫn, lỗi lầm hay lừa dối.24 Định nghĩa này rõ ràng đã khẳng định rằng nguy cơ gây nhầm lẫn, mặc dù là một căn cứ cơ bản của sự xâm phạm nhãn hiệu hàng hóa, không phải là một yếu tố được yêu cầu cho sự lu mờ theo quy định của pháp luật. Hơn nữa, lịch sử lập pháp Hoa Kỳ đã cho chúng ta thấy một điều rằng khái niệm về sự lu mờ được mô tả bao gồm tất cả những hình thức của sự làm lu mờ được thừa nhận một cách hợp pháp.25

Nhìn chung, hệ thống pháp luật Hoa Kỳ có rất nhiều điểm khác biệt so với pháp luật Châu Âu cũng như các hệ thống pháp luật khác trên thế giới. Điều này là do đặc điểm kinh tế - chính trị và truyền thống pháp luật quy định. Những thành tựu mà Hoa Kỳ đã đạt được trong quá trình bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa nói chung và nhãn hiệu nổi tiếng nói riêng là hết sức thực tế. Điều này đã được chứng minh thông qua những số liệu thống kê về số lượng các nhãn hiệu hàng đầu thế giới trong những năm vừa qua.26

V. LỜI KẾT

Ở Việt Nam, về cơ bản chúng ta đã xây dựng được một hệ thống pháp luật về sở hữu trí tuệ nói chung và sở hữu công nghiệp nói riêng khá phong phú và ở nhiều cấp độ khác nhau. Trong một chừng mực nhất định, có thể nói hệ thống pháp luật của chúng ta đã đáp ứng được phần nào nhu cầu của thực tiễn, cho dù những đóng góp đó còn quá nhỏ bé so với nhu cầu to lớn đang được đặt ra. Những quy định cụ thể liên quan đến nhãn hiệu hàng hóa, đặc biệt là đối với nhãn hiệu nổi tiếng là còn rất thiếu, nếu không nói là hầu như chưa có gì đáng kể.

Có thể nói những quy định nói trên của pháp luật Việt Nam là không khác nhiều so với các quy định của pháp luật Châu Âu và Hoa Kỳ như đã phân tích ở các phần trước. Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa rằng hệ thống pháp luật về bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa nổi tiếng của chúng ta đã đủ hoàn chỉnh. Chúng ta cần phải nhận thấy một điều quan trọng là việc đánh giá hệ thống các quy định pháp luật này cần phải được đặt trong các yếu tố kinh tế - xã hội. Và nếu nhìn nhận từ góc độ đó, rõ ràng các quy định pháp luật của chúng ta hiện nay còn có rất nhiều vấn đề phải khắc phục, chẳng hạn như vấn đề liên quan đến tính hợp lý, tính khả thi, tính khoa học... Đối với công cuộc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung ở Việt Nam, việc tham khảo và tranh thủ các thành tựu pháp lý quốc tế và các nước là hết sức cần thiết. Trong đó, hệ thống pháp luật của Liên minh Châu Âu và Hoa Kỳ là những hệ thống pháp luật tiến bộ trên thế giới mà Việt Nam cần nghiên cứu học hỏi.

Chú thích:

1 David I Bandbride, Sở hữu trí tuệ, tại Luân Đôn, 1999, tr. 521.

2 Công ước Paris về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp được ban hành ngày 20/03/1883 tại Paris với hơn 100 quốc gia ký kết, công ước bắt đầu có hiệu lực từ ngày 07/03/1884, được sửa đổi nhiều lần như tại Brussels ngày 14/12/1900, tại Washington ngày 02/06/1911, tại Hague ngày 06/11/1925, tại Luân Đôn ngày 02/06/1934, tại Lisbon ngày 31/10/1958 và ại Stockholm ngày 14/07/1967. Sau đó, Công ước được tiếp tục sửa đổi tại Brussels năm 1990 và tại Washington năm 1991.

3 Điều khoản này được bổ sung và ghi nhận vào Công ước trong lần sửa đổi năm 1967 ở Stockholm.

4 Điều 6bis, khoản 1, Công ước Paris.

5 Điều 6bis, khoản 2 và 3, Công ước Paris.

6 Hiệp định về những ảnh hưởng ở khía cạnh thương mại của quyền sở hữu trí tuệ được ký kết ngày 15/04/1994 tại Marakech và sau đó cấu thành một bộ phận quan trọng của WTO.

7 Điều 16.2. Hiệp định TRIPs.

8 Chẳng hạn, Tòa phúc thẩm Paris của Pháp đã tuyên thừa nhận nhãn hiệu PONTIAC là nhãn hiệu nổi tiếng cho xe hơi bởi vì “một bộ phận lớn công chúng đã biết đến tên gọi này như là một nhãn hiệu cho một loại xe hơi cao cấp ở Pháp” (bản án tuyên ngày 08/12/1962); hoặc nhãn hiệu hàng hóa cũng có thể được xem là nổi tiếng ngay cả khi nó không thật sự nổi tiếng một cách đặc biệt (theo một Quyết định khác của Tòa phúc thẩm Paris tuyên ngày 19/10/1970); hoặc trong một số trường hợp khác, Tòa án có thể tham khảo một cuộc điều tra thị trường để xác định một nhãn hiệu có phải là nổi tiếng hay không.

9 Tạp chí Managing Intellectual Property, ngày 02/05/2001, chuyên mục Russia, bài “Bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa nổi tiếng”, http://elin.lub.lu.se, truy cập lần cuối ngày 22/07/2004.

1010 Bài viết “Legislative changes boost status of well-known marks”, Yvonne Chua, Howard Tsang. Tạp chí Managing Intellectual Property, phát hành tại London, tháng 12/2002 – tháng 02/2003, tr. 75; http://proquest.umi.com, truy cập lần cuối ngày 22/07/2004.

11 Điều 15.1 – Hiệp định TRIPS.

12 Peter Groves, Anthony Martino, Claire Miskin, John Richards – “Intellectual property and the Internal market of the European Community”, xuất bản năm 1993 bởi Nxb Graham & Trotman, 1999, tr. 56.

13 Xem Điều 4 – Văn bản hướng dẫn 104/89/EEC.

14 Đây là hai nguyên tắc cơ bản được các quốc gia trên thế giới áp dụng trong việc cho đăng ký bảo hộ đối với các đối tượng sở hữu công nghiệp, trong đó, nguyên tắc quyền ưu tiên đăng ký được sử dụng phổ biến hơn so với nguyên tắc quyền ưu tiên sử dụng.

15 Xem khoản 1 – Điều 4 – Văn bản hướng dẫn 89/104/EEC.

16 Xem khoản 2 – Điều 8 – Quy định về nhãn hiệu hàng hóa cộng đồng 40/94/EC.

17 Trong ấn phẩm bằng tiếng Đức của Văn bản hướng dẫn, thuật ngữ này còn được hiểu như là “rủi ro do nhầm lẫn” (risk of confusion)

18 Phán quyết của Tòa án ngày 11/11/1997 về vụ kiện “Sabel v. Puma AG”, số C – 251/95, Tạp chí Tòa án Châu Âu năm 1997, tr. I – 06191.

19 Xem ý kiến của luật sư trong vụ kiện “Masca Mode v. ADIDAS [2000] ETMR. 561 và phán quyết của Tòa án công lý Châu Âu [2000] ETMR. 723 và xem Tạp chí Sở hữu trí tuệ Châu Âu năm 2002, bài “Trade Mark Law and Domain Names: Back to Basics?”, Spyrus M. Maniatis, giảng viên về IP, Đại học Queen Mary, London, tr. 398.

20 Đạo luật Liên bang về sự lu mờ nhãn hiệu hàng hóa (Federal Trade Mark Dilution Act – FTDA) (H.R. 1295) được thông qua bởi Hạ viện Hoa Kỳ ngày 16/12/1995 và bởi Thượng viện vào ngày 29/12/1995.

21 Ý kiến của Tòa án Tối cao Hoa Kỳ trong vụ kiện số 01 – 1015 giữa “Victor Mosely and Cathy Mosely, dab Victor’s Little Secret, Petitioners v. V Secret Catalogue, Inc., et al.” [tháng 4/2003].

22 Xem Điều 3 - Đạo luật Liên bang về sự lu mờ nhãn hiệu hàng hóa năm 1995. Và xem “Bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa nổi tiếng – Sự so sánh các điều kiện thực thi nhãn hiệu hàng hóa và các hệ thống pháp luật nhãn hiệu hàng hóa giữa Nhật Bản và Trung Quốc”, Xia Qing, tr. 11.

23 Tạp chí “Public policy and Marketing”, bài “Famous marks now federally protected against dilution”, các tác giả Jeffrey M. Samuels và Linda B. Samuels, tr. 309.

24 Xem Điều 4 - Đạo luật Liên bang về sự lu mờ nhãn hiệu hàng hóa năm 1995.

25 Xem “Mead Data Central v, Toyota Motor Sales, USA”, năm 1989, tr. 1031. “Coca Cola Company v. Gemini Rising” năm 1972, tr. 1183. “American Express Company v. Vibra Approved Laboratories Corporation”, năm 1989, tr. 2006.

26 Xem chú thích số 64.

SOURCE: TẠP CHÍ KHOA HỌC PHÁP LÝ SỐ 4/2006

Bài đăng phổ biến