Hiển thị các bài đăng có nhãn NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 13 tháng 8, 2009

TRÍ THỨC VÀ NHẬN THỨC PHÁP QUYỀN

B. A. KISTIAKOVSKI * (Phạm Nguyên Trường dịch và chú thích)

Pháp quyền không thể đặt bên cạnh các giá trị về tinh thần như chân lý khoa học, sự tận thiện về đạo đức hay kinh bổn của tôn giáo. Nó chỉ có ý nghĩa tương đối, nội dung của nó một phần nào đó được quyết định bởi những điều kiện kinh tế và xã hội luôn luôn biến đổi. Ý nghĩa tương đối của pháp quyền đã tạo cớ cho một số lý thuyết gia đánh giá nó quá thấp.

Một số người cho rằng pháp luật chỉ có giá trị tối thiểu về đạo đức, một số khác lại cho rằng cưỡng chế, nghĩa là bạo lực, là thành tố không thể tách rời của pháp luật. Nếu đúng là như thế thì chẳng có cơ sở nào để chê trách giới trí thức của chúng ta trong việc coi thường pháp quyền hết. Giới trí thức của chúng ta luôn hướng tới những lý tưởng tuyệt đối và trên đường đi của mình nó có thể bỏ qua cái giá trị thứ cấp này.

Nhưng văn hóa tinh thần bao gồm không chỉ một loại giá trị. Các đặc điểm mang tính hình thức của hoạt động trí tuệ và hoạt động ý chí là thành phần chủ yếu của văn hóa tinh thần. Mà trong các giá trị mang tính hình thức thì pháp luật, một hình thức phát triển hoàn hảo nhất và gần như có thể cảm nhận được một cách cụ thể nhất, đóng vai trò quan trọng nhất. Pháp luật đưa người ta vào khuôn phép nhanh hơn là tư duy lô gich và phương pháp luận hay những biện pháp rèn luyện ý chí một cách có hệ thống khác. Điều quan trọng là, khác với những hệ thống kỷ luật mang tính cá nhân nói trên, pháp luật là hệ thống mang tính xã hội và lại là hệ thống xã hội duy nhất ép người ta vào kỷ luật. Kỷ luật xã hội chỉ có thể được hình thành nhờ pháp luật; xã hội có kỷ cương và xã hội có trật tự pháp luật phát triển là những khái niệm tương đồng.

Nhìn theo cách đó thì nội dung của pháp quyền đã có một ý nghĩa khác. Nội dung chủ yếu và quan trọng nhất của pháp quyền chính là tự do. Nói cho ngay, đấy là tự do ngoại tại, tự do tương đối, được quy định bởi môi trường xã hội. Nhưng tự do nội tại, tự do tinh thần, tự do có tính bền vững hơn, lại chỉ có thể hiện hữu khi có sự hiện hữu của tự do ngoại tại, cái sau là trường học tuyệt vời cho cái trước.

Nếu coi pháp luật là phương tiện buộc người ta phải tuân thủ kỷ cương một cách toàn diện và tìm hiểu vai trò của nó trong sự phát triển tinh thần của giới trí thức Nga thì ta sẽ có một kết quả rất đáng thất vọng. Giới trí thức Nga bao gồm những người không có kỷ luật, cả về mặt cá nhân lẫn xã hội. Và điều này lại liên quan đến sự kiện là giới trí thức Nga không tôn trọng pháp luật, không nhận thấy giá trị của nó; pháp luật là giá trị văn hóa bị coi thường hơn cả. Trong những điều kiện như thế, giới trí thức của chúng ta không thể có nhận thức pháp quyền vững chắc, ngược lại, nhận thức pháp quyền nằm ở vị trí kém phát triển nhất.

1. Nhận thức pháp quyền của giới trí thức chỉ có thể phát triển cùng với việc nghiên cứu các tư tưởng pháp quyền trong văn học. Việc nghiên cứu như thế cũng đồng thời là chỉ dấu mức độ giác ngộ pháp luật của chúng ta. Hoạt động miệt mài của nhận thức, của tư duy, dù theo bất kỳ hướng nào, bao giờ cũng được thể hiện trong văn học. Chúng ta phải tìm trước hết trong văn học những bằng chứng về nhận thức pháp quyền của chúng ta. Nhưng ở đây chúng ta sẽ gặp một sự kiện lạ lùng như sau: nền văn học “phong phú” trong quá khứ không hề có một luận văn hay bài tiểu luận nào nói về pháp quyền có thể tạo được giá trị xã hội hết. Tác phẩm nghiên cứu mang tính hàn lâm thì dĩ nhiên là có, nhưng đấy chỉ là dành cho các chuyên gia mà thôi. Chúng ta không quan tâm đến các tác phẩm như thế; chúng ta chỉ quan tâm đến các trước tác có ý nghĩa xã hội; ở đây chẳng có một tác phẩm nào đủ sức khuấy động được nhận thức pháp quyền của giới trí thức. Có thể nói rằng trong quá khứ đã không có bất cứ tư tưởng pháp quyền nào, như được thể hiện trong lĩnh vực văn học, tham gia vào quá trình phát triển về mặt tư tưởng của giới trí thức. Và hiện nay, trong tập hợp các tư tưởng tạo ra thế giới quan của giới trí thức, tư tưởng pháp quyền cũng chẳng có vai trò gì. Văn học chính là người làm chứng cho cái chỗ thiếu sót trong nhận thức xã hội đó của chúng ta.

Về mặt này thì sự phát triển của chúng ta khác hẳn với sự phát triển của các dân tộc văn minh khác! Trong các giai đoạn tương ứng, ta thấy người Anh, một mặt, có Hobbes[1] với các tác phẩm như Bàn về người công dân, Leviathan và Filmer với Người gia trưởng hay là quyền lực tự nhiên của vua chúa[2], còn bên kia là các tác phẩm của Milton[3] nhằm bảo vệ tự do phát biểu và tự do ngôn luận, những bài văn đả kích của Lilburne[4] và các tư tưởng pháp quyền của những người gọi là “cào bằng” (levellers). Giai đoạn phát triển vũ bão nhất trong lịch sử Anh cũng đã tạo ra những tư tưởng pháp quyền đối chọi nhau. Nhưng những tư tưởng này không loại trừ nhau và đến một lúc nào đó đã hình thành một sự thỏa hiệp trong tác phẩm Hai khảo luận về chính quyền của Locke[5].

Nội dung tư tưởng của Pháp thế kỷ XVIII không chỉ giới hạn bởi các phát minh trong lĩnh vực tự nhiên và các hệ thống triết lý tự nhiên. Ngược lại, phần lớn hành trang tư tưởng ngự trị trong đầu óc người Pháp thời Khai sáng chắc chắn là được lấy từ Bàn về tinh thần pháp luật của Montesquieu[6]Bàn về khế ước xã hội của Rousseau[7]. Đây thực sự là những tư tưởng pháp quyền; thậm chí tư tưởng về khế ước xã hội mà giữa thế kỷ XIX người ta đã giải thích không đúng theo nghĩa xã hội học; định nghĩa về cội nguồn của tổ chức xã hội cũng chủ yếu là tư tưởng pháp quyền, nó quy định tiêu chuẩn tối thượng cho việc điều chỉnh các mối quan hệ xã hội.

Tư tưởng pháp quyền cũng đóng vai trò không nhỏ trong quá trình phát triển về mặt tinh thần của nước Đức. Ở đây, đến cuối thế kỷ XVIII đã định hình một truyền thống vững chắc có nguồn gốc từ nhiều thế kỷ nhờ những người như Althusius[8], Pufendorf[9], Thomasius[10], Wolff[11]. Cuối cùng, ngay trước giai đoạn lập hiến, đồng thời cũng là giai đoạn phát triển nhất của nền văn hóa tinh thần Đức, pháp quyền đã được công nhận là thành phần không thể tách rời của nền văn hóa đó. Chỉ xin nhớ lại ba đại diện của nền triết học cổ điển Đức là Kant[12], Fichte[13] và Hegel[14], cả ba ông này đều dành cho pháp quyền vị trí quan trọng trong hệ thống triết học của mình. Trong hệ thống của Hegel, triết lý pháp quyền chiếm vị trí cực kỳ đặc biệt vì ông đã trình bày nó ngay sau lô gích học hoặc bản thể luận, trong khi đó, triết học lịch sử, triết học nghệ thuật và ngay cả triết học tôn giáo vẫn chưa được ông chắp bút và chỉ được in theo những ghi chép của những thính giả của ông sau khi ông đã tạ thế. Nhiều triết gia khác, như Herbart[15], Krause[16], Fries[17], v.v... đã có đóng góp vào triết học pháp quyền. Nửa đầu thế kỷ XIX Triết học pháp quyền chắc chắn là tên gọi hay gặp nhất trong số sách viết về triết học ở Đức. Bên cạnh đó, ngay trong những năm 20 của thế kỷ XIX đã diễn ra cuộc tranh luận nổi tiếng giữa Thibaut[18] và Savigny[19] “về sứ mệnh lập pháp và luật học của thời đại chúng ta”. Cuộc tranh luận hoàn toàn mang tính pháp lý này đã có ảnh hưởng văn hóa rất sâu sắc; nó thu hút sự quan tâm của tất cả tầng lớp có học và góp phần tích cực vào việc đánh thức nhận thức pháp quyền của tầng lớp này. Nếu cuộc tranh luận này đặt dấu chấm hết cho tư tưởng pháp quyền tự nhiên thì nó cũng đồng thời dẫn đến chiến thắng của trường phái pháp quyền mới - pháp quyền lịch sử. Trường phái này đã cho xuất bản một tác phẩm tuyệt vời của Puchta[20] lấy tên là Tập quán pháp. Tác phẩm này gắn bó chặt chẽ với quá trình phát triển của trường phái pháp quyền mới của người Đức, những người nghiên cứu và bảo vệ các thiết chế pháp luật Đức chống lại pháp quyền La Mã. Ông Besele[21], một môn đồ của trường phái này, trong tác phẩm Quyền của dân chúng và quyền của luật sư đã làm nổi bật, hơn cả Puchta trong tác phẩm Tập quán pháp, vai trò nhận thức pháp luật của dân chúng.

Chưa từng có hiện tượng nào tương tự như thế trong quá trình phát triển của giới trí thức ở nước ta. Trong tất cả các trường đại học tổng hợp ở nước ta đều có khoa luật; một số khoa đã tồn tại được hơn một trăm năm; ở nước ta còn có trên nửa tá trường đại học luật nữa. Tổng cộng, trên toàn nước Nga có gần một trăm năm mươi khoa luật cả thảy. Nhưng không có khoa nào xuất bản được một cuốn sách hay thậm chí một tiểu luận có ý nghĩa xã hội rộng lớn và có ảnh hưởng đối với nhận thức pháp quyền của giới trí thức. Trong sách báo về pháp luật của chúng ta thậm chí không thể tìm được một bài báo, trong đó lần đầu tiên nêu ra được tư tưởng pháp quyền, dù không sâu sắc nhưng chính xác và đầy tinh thần chiến đấu như tác phẩm Cuộc đấu tranh cho luật pháp của Ihering[22] chẳng hạn. Cả Tritrerin[23] lẫn Soloviev[24] đều không tạo được một cái gì đáng kể về tư tưởng pháp quyền. Ngay cả những cái có giá trị của họ thì cũng gần như vô bổ: ảnh hưởng của họ đối với trí thức gần như bằng không; tư tưởng pháp quyền của họ lại được ít người hưởng ứng hơn cả. Thời gian gần đây ở nước ta người ta còn đưa ra tư tưởng phục hồi pháp quyền tự nhiên và tư tưởng pháp quyền trực cảm. Nói về ảnh hưởng của chúng đối với sự phát triển xã hội của chúng ta lúc này là hơi sớm. Nhưng cho đến nay, chưa thấy có cơ sở nào để nghĩ rằng chúng sẽ có ý nghĩa xã hội rộng rãi. Trên thực tế, đâu là diện mạo và đâu là công thức xác định, tức là những thứ tạo cho tư tưởng tính uyển chuyển và giúp cho sự truyền bá của chúng? Tác phẩm, thông qua các tư tưởng này nhằm đánh thức nhận thức pháp quyền của giới trí thức đang nằm ở đâu? Tác phẩm Tinh thần luật phápKhế ước xã hội của chúng ta đang nằm ở đâu?

Người ta có thể bảo rằng dân Nga bước lên con đường lịch sử muộn hơn các dân tộc khác cho nên chúng ta không cần phải tự tìm kiếm tư tưởng tự do và quyền cá nhân, trật tự luật pháp, chế độ lập hiến, tất cả các tư tưởng này đã được phát biểu, được phát triển một cách chi tiết, được đưa vào cuộc sống từ lâu rồi, chúng ta chỉ việc mượn về là đủ. Nếu đúng là như thế thì dù sao chúng ta cũng phải thể nghiệm được các tư tưởng đó; vay mượn không thôi thì chưa đủ, một lúc nào đó trong cuộc đời ta phải sống hết mình với nó; một tư tưởng dù có cũ đến đâu thì với người đang thể nghiệm lần đầu nó cũng vẫn luôn luôn là mới; nó hoàn thành công việc sáng tạo trong nhận thức của người đó, nó đồng hóa và chuyển hóa cùng với những thành tố khác của nhận thức; nó thúc đẩy người ta hoạt động, hành động; trong khi đó nhận thức pháp quyền của giới trí thức Nga chưa hề bị cuốn hút trọn vẹn bởi tư tưởng về quyền cá nhân và nhà nước pháp quyền, giới trí thức của chúng ta chưa từng trải nghiệm các tư tưởng này. Nhưng thực chất lại không phải như thế. Không thể có những tư tưởng duy nhất, độc nhất về tự do cá nhân, nhà nước pháp quyền, chế độ lập hiến giống nhau cho mọi dân tộc và mọi thời đại, cũng không có chủ nghĩa tư bản cũng như bất kỳ tổ chức kinh tế hay xã hội giống nhau cho tất cả các nước. Tất cả các tư tưởng pháp quyền trong nhận thức của mỗi dân tộc cũng sẽ có sắc thái và dáng vẻ riêng của mình.

2. Sự yếu kém trong nhận thức pháp quyền của giới trí thức Nga và sự thờ ơ đối với các tư tưởng pháp quyền là kết quả của thói xấu thâm căn cố đế: không hề có bất kỳ trật tự luật pháp nào trong đời sống thường nhật của người Nga. Nhân việc này, Gersen[25] ngay từ những năm 50 của thế kỷ trước (thế kỷ XIX - ND) đã viết: “Thiếu sự bảo đảm về pháp lý từ bao đời nay đã đè nặng lên đời sống của người dân và trở thành một kiểu trường học cho chính họ. Sự bất công quá đáng của một nửa điều luật đã dạy dân chúng căm thù nửa còn lại; người ta phục tùng nó như phục tùng sức mạnh vậy thôi. Sự bất bình đẳng trước pháp luật đã giết chết tinh thần tôn trọng pháp luật. Người Nga, dù có chức tước gì đi chăng nữa, cũng tìm cách tránh né hoặc vi phạm pháp luật nếu có thể làm như thế mà không bị trừng phạt; chính phủ cũng hành động hệt như vậy”. Sau khi đã nêu ra đặc điểm chẳng lấy gì làm hay ho của sự vô tổ chức về mặt pháp luật của chúng ta như thế thì chính Gersen, một trí thức Nga chân chính, lại nói thêm: “Hiện nay thì đây là điều nặng nề và đáng buồn nhưng đối với tương lai thì lại là một ưu điểm lớn. Vì nó cho thấy rằng, ở Nga, phía sau cái chính phủ hữu hình không hề có một lý tưởng nào, không có một chính phủ vô hình, không có sự tôn trọng trật tự hiện hành”.

Như vậy là Gersen cho rằng cái khiếm khuyết căn bản này của đời sống xã hội Nga lại có một ưu điểm. Đây là ý kiến không chỉ của riêng Gersen mà là của cả nhóm người thuộc giai đoạn những năm bốn mươi, mà chủ yếu là những người thân Slav. Những người này cho rằng sự yếu kém của các hình thức pháp luật ngoại tại, thậm chí hoàn toàn không có trật tự pháp luật ngoại tại lại là mặt mạnh chứ không phải là mặt yếu. Thí dụ, lúc đó K. S. Aksakov[26] từng khẳng định rằng trong khi “người phương Tây” đi theo “con đường của sự thật ngoại tại, con đường của chính phủ” thì người Nga đi theo “con đường của sự thật nội tại”. Vì vậy mà ở Nga quan hệ giữa thần dân và hoàng đế, nhất là giai đoạn trước Pëtr[27], được xây dựng trên sự tin tưởng lẫn nhau và ước muốn chân thành về lợi ích cho cả hai bên. “Nhưng”, ông giả định, “người ta sẽ bảo chúng ta: nhân dân hay chính quyền có thể phản bội. Cần phải có bảo đảm!”. Và ông đã trả lời: “Không cần bảo đảm! Bảo đảm là xấu. Nơi nào cần bảo đảm thì nơi đó không còn gì là tốt lành nữa; thà chết còn hơn là sống cuộc sống không còn cái tốt, phải dùng cái xấu để bảo vệ”. Sự phủ nhận tính tất yếu của những bảo đảm về mặt pháp luật, thậm chí coi những bảo đảm như thế là xấu đã thúc giục B. N. Almazov[28] , một nhà thơ trào phúng, cho K. S. Aksakov đọc một bài thơ bắt đầu như sau:

Vì những nguyên nhân nội tại
Chúng ta không có
Tư tưởng luật pháp lành mạnh,
Con đẻ của quỷ sứ.
Tâm hồn rộng mở của người Nga
Lý tưởng của chúng ta
Không thể chui vào những hình thức chật hẹp
Của các nguyên tắc pháp luật....

Bài thơ này, có hơi thổi phồng, về thực chất đã nói đúng quan niệm của K. S. Aksakov và những người thân Slav khác.

Sẽ là sai lầm khi cho rằng thái độ coi thường ý nghĩa của các nguyên tắc pháp luật đối với đời sống xã hội chỉ là đặc trưng của những người thân Slav. Ở những người thân Slav điều này được thể hiện dưới hình thức quyết liệt nhất và được các hậu duệ của họ đưa đến mức cực đoan nhất, thí dụ ông K. N. Leontiev[29] gần như đã ca ngợi người Nga vì họ không có “tính trung thực sách vở” như những người tư sản Tây Âu. Nhưng chúng ta biết rằng Gersen nhận thấy việc không có trật tự pháp luật lại là ưu thế của chúng ta. Và phải công nhận rằng không nhận thức được ý nghĩa của các tiêu chuẩn pháp lý đối với đời sống xã hội là đặc điểm chung của giới trí thức của chúng ta...

3. Cơ sở của trật tự pháp luật bền vững là quyền tự do cá nhân và sự bất khả xâm phạm của cá nhân con người. Dường như giới trí thức Nga có đầy đủ lý do để quan tâm đến các quyền của cá nhân. Từ xa xưa, ở nước ta người ta đã công nhận rằng toàn bộ sự phát triển của xã hội phụ thuộc vào việc là cá nhân có vị trí như thế nào. Vì vậy ngay cả việc thay đổi các xu hướng xã hội cũng được thể hiện bằng việc thay đổi công thức nói về cá nhân. Người ta đưa ra hết công thức này đến công thức khác: người có tư duy phê phán, có ý thức, phát triển toàn diện, có tinh thần cách mạng, có đạo đức, có đức tin tôn giáo, tự hoàn thiện. Có cả những xu hướng ngược lại, đấy là những xu hướng muốn hòa tan cá nhân vào quyền lợi xã hội, tuyên bố cá nhân là quantité négligeable[30] và bảo vệ con người của cộng đồng. Cuối cùng, thời gian gần đây, những người theo tư tưởng của Nietzsche[31], của Stirner[32] và chủ nghĩa vô chính phủ đã đưa ra những khẩu hiệu mới về con người cá nhân tự cấp tự túc, con người ích kỷ và con người siêu nhân. Thật khó có lĩnh vực nào được khảo sát kỹ lưỡng và toàn diện như lý tưởng về nhân cách và có thể cho rằng chẳng còn gì mà nghiên cứu nữa. Nhưng chính chúng ta lại khẳng định một lỗ hổng cực kỳ to lớn vì nhận thức xã hội của chúng ta chưa từng đưa ra lý lưởng về nhân cách pháp luật. Cả hai khía cạnh của lý tưởng này: con người được pháp luật đưa vào kỷ cương bằng một trật tự pháp luật ổn định và con người được phú cho tất cả các quyền và được tự do sử dụng các quyền đó, là những khái niệm xa lạ với nhận thức của giới trí thức của chúng ta.

Một loạt các sự kiện cho thấy lời khẳng định trên là đúng. Các lãnh tụ tinh thần của giới trí thức Nga đã nhiều lần hoặc hoàn toàn coi thường các quyền lợi về pháp luật của cá nhân hoặc có thái độ thù địch với các quyền lợi đó. Thí dụ, một trong những luật gia kiêm tư tưởng gia nổi tiếng của chúng ta là K. D. Kavelin[33] đã quan tâm rất nhiều đến vấn đề cá nhân nói chung: trong bài báo Khảo sát đời sống pháp luật của nước Nga cổ đại trên tờ Người đương thời in năm 1847, ông đã ghi nhận lần đầu tiên rằng trong lịch sử thiết chế pháp luật Nga, cá nhân đã bị gia đình, làng xóm và nhà nước che lấp và chẳng có một quy định pháp luật nào; sau đó, từ cuối những năm 60 (thế kỷ XIX- ND) ông chuyển sang nghiên cứu các vấn đề tâm lý và đức dục với hy vọng sẽ tìm được trong lý giải mang tính lý thuyết quan hệ giữa cá nhân và xã hội phương tiện giải quyết một cách đúng đắn tất cả các vấn đề cấp bách của xã hội. Nhưng điều này cũng không ngăn cản ông, ngay trong giai đoạn quyết liệt nhất hồi đầu những năm 60, khi lần đầu tiên câu hỏi về việc hoàn thành cuộc cải cách của Alexander II[34], tỏ thái độ bàng quan không thể tưởng tượng nổi đối với việc bảo đảm các quyền của cá nhân. Trong cuốn sách mỏng giấu tên in ở Berlin năm 1862 và nhất là trong thư từ trao đổi với Gersen, ông đã kịch liệt phê phán các dự thảo hiến pháp do các hội nghị quý tộc thời đó đưa ra; ông cho rằng quý tộc sẽ là đại diện của nhân dân và chính phủ nhân dân sẽ gồm toàn quý tộc và vì vậy sẽ dẫn đến sự thống trị của quý tộc. Ông đã phủ nhận chế độ lập hiến nhân danh khát vọng dân chủ, nhưng như thế là ông đã coi thường giá trị pháp lý của nó. Đối với K. D. Kavelin, như ông nói trong bức thư, dường như không tồn tại cái mà chúng ta coi là chân lý không thể tranh cãi, đấy là tự do và quyền bất khả xâm phạm của cá nhân chỉ có thể được thực hiện dưới chính thể lập hiến vì nói chung tư tưởng về cuộc đấu tranh cho quyền cá nhân là hoàn toàn xa lạ đối với ông.

Trong những năm 70 (thế kỷ XIX - ND) thái độ bàng quan đối với các quyền cá nhân, đôi khi còn chuyển hóa thành thái độ thù địch, không những đã gia tăng mà còn được biện hộ về mặt lý thuyết nữa. N. K. Mikhailovski[35], chắc chắn là người đại diện nổi bật nhất của giai đoạn này, thay mặt cho thế hệ mình, đưa ra một câu trả lời điển hình rõ ràng và chính xác cho câu hỏi mà chúng ta quan tâm. Ông tuyên bố thẳng thừng rằng “tự do là một ý tưởng vĩ đại và đầy cám dỗ, nhưng chúng ta không thích tự do nếu nó, giống như ở châu Âu, chỉ làm gia tăng món nợ kéo dài hàng thế kỷ của chúng ta đối với nhân dân” và nói thêm: “tôi biết chắc rằng mình đã thể hiện được một tư tưởng thân thiết nhất và chân thành nhất của thời đại chúng ta, cái tư tưởng đã tạo cho những năm 70 diện mạo điển hình và vì nó mà những năm 70 đã tạo ra số lượng nạn nhân khủng khiếp, không thể nào đếm hết được[36]. Sự phủ nhận chế độ pháp quyền đã được nâng thành hệ thống có căn cứ xác định và phát triển. Mikhailovski biện hộ cho hệ thống này như sau: “Là những người có thái độ hoài nghi đối với nguyên tắc tự do, chúng ta sẵn sàng không tranh giành bất cứ quyền nào cho mình, ngay cả những điều sơ đẳng nhất mà ngày xưa người ta gọi là quyền tự nhiên, chứ không chỉ đặc quyền đặc lợi, chuyện này thì chẳng có gì để nói. Chúng ta hoàn toàn chấp nhận sự thô lậu của luật pháp và chịu đựng mọi tai ương hoạn nạn. Tất nhiên sự từ bỏ này, có thể nói, mang tính cao thượng vì có ai đưa cho chúng ta cái gì ngoài sự thô lậu đâu, nhưng tôi nói về tâm trạng mà cái tâm trạng này đã đạt đến mức giới hạn, thậm chí không thể tưởng tượng nổi, lịch sử đã cho thấy như thế. ‘Mặc kệ họ đánh, nông dân bị đánh là đáng lắm’, có thể thể hiện cái tâm trạng đó một cách gần đúng, ở mức độ quá quắt nhất của nó. Tất cả chỉ để nhằm một cơ hội, cái cơ hội mà chúng ta đã để cả tâm trí vào, mà cụ thể là cơ hội chuyển trực tiếp sang một trật tự cao hơn, tốt hơn, bỏ qua giai đoạn trung gian của tiến trình phát triển ở châu Âu, tức là bỏ qua giai đoạn nhà nước tư bản. Chúng ta tin rằng nước Nga có thể thiết lập cho mình một con đường lịch sử mới, khác hẳn với châu Âu, mà đối với chúng ta thì điều quan trọng không phải là một con đường mang tính dân tộc nào đó mà là con đường tốt đẹp, và chúng ta công nhận là tốt đẹp khi đấy là con đường cải tạo một cách tự giác và thực tế diện mạo dân tộc cho phù hợp với quyền lợi của nhân dân[37]”.

Đấy là những luận điểm chủ yếu của thế giới quan dân túy liên quan đến các vấn đề pháp quyền. Mikhailovski và những người thuộc thế hệ ông từ chối quyền tự do chính trị và chế độ lập hiến để nhắm tới cơ hội đưa một cách trực tiếp nước Nga sang chế độ xã hội chủ nghĩa. Nhưng toàn bộ cái học thuyết xã hội học này lại được xây dựng trên sự mù tịt về bản chất của chế độ lập hiến. Kavelin phản đối các dự án hiến pháp vì vào thời của ông, đại diện của nhân dân hóa ra lại là đại diện của quý tộc, còn Mikhailovski phản đối chế độ lập hiến vì cho rằng đấy là nhà nước tư bản. Do sự yếu kém của nhận thức pháp quyền cố hữu của giới trí thức của chúng ta mà cả hai ông đều chỉ chú ý đến khía cạnh xã hội của chế độ lập hiến mà không nhận thấy tính chất pháp quyền của nó, bản chất của nó trước hết là nhà nước pháp quyền. Mà tính chất pháp quyền của nhà nước hiến định được thể hiện rõ nhất trong việc bảo vệ cá nhân, bảo vệ quyền bất khả xâm phạm và tự do của cá nhân.

4. Trong ba định nghĩa về quyền, chiếu theo nội dung của các quy phạm pháp luật, tức là các quy phạm quy định và giới hạn quyền tự do (trường phái quyền tự nhiên và các nhà triết học duy tâm Đức) - quy phạm giới hạn quyền lợi (Ihering), và cuối cùng là quy phạm tạo ra sự thỏa hiệp giữa các đòi hỏi khác nhau (Adolphe Merkle[38]), thì định nghĩa thứ ba đáng được chú ý hơn cả, nếu xét về mặt xã hội học. Trong nhà nước hiến định hiện đại, bất kỳ đạo luật mới được ban hành nào, đấy là nói những đạo luật có một chút giá trị nào đó, cũng đều là kết quả của sự thỏa hiệp giữa các đảng phái, tức là những tổ chức biểu đạt yêu cầu của các nhóm xã hội hoặc giai cấp mà họ làm đại diện. Chính nhà nước hiện đại cũng được xây dựng trên cơ sở của thỏa hiệp và hiến pháp của mỗi nhà nước cũng là sự thỏa hiệp nhằm dung hòa khát vọng của những nhóm xã hội khác nhau của quốc gia. Vì vậy mà nhà nước hiện đại, nếu xét từ quan điểm kinh tế-xã hội thì thường là chế độ tư bản, nhưng cũng có thể là quý tộc, thí dụ như nước Anh trước cuộc cải cách về bầu cử được thực hiện vào năm 1832 vốn là nhà nước hiến định nhưng lại do tầng lớp quý tộc nắm quyền; còn Phổ, mặc dù đã có hiến pháp cách đây 60 năm, nước này vẫn mang bản chất quý tộc nhiều hơn là tư bản. Nhà nước hiến định cũng có thể là của nông dân hoặc công nhân, như chúng ta thấy ở New Zealand hay Na Uy. Cuối cùng, nhà nước có thể không có mầu sắc giai cấp nhất định, đấy là khi đạt được sự quân bình giữa các giai cấp, không có giai cấp nào chiếm được ưu thế. Nhưng nếu nhà nước hiến định hiện đại được xây dựng trên sự thỏa hiệp ngay cả về mặt tổ chức xã hội thì nó lại càng như thế về mặt tổ chức chính trị và pháp luật. Điều đó cho phép ngay cả những người xã hội chủ nghĩa, tức là những người phủ nhận nhà nước hiến định về mặt nguyên tắc vì họ coi đấy là nước tư bản, dễ dàng an cư lạc nghiệp và tham gia vào hoạt động lập pháp, dễ dàng sử dụng nhà nước như phương tiện của mình. Vì vậy mà Kavelin và Mikhailovski có lý khi cho rằng nhà nước hiến định ở nước Nga sẽ là quý tộc hay tư bản; nhưng họ đã sai khi rút ra kết luận rằng không thể đội trời chung với nó và không thể chấp nhận nó ngay cả như một sự thỏa hiệp, trong khi những người xã hội chủ nghĩa khắp thế giới sẵn sàng thỏa hiệp với nhà nước hiến định.

Nhưng quan trọng nhất là, như đã nói bên trên, Kavelin và Mikhailovski cũng như toàn thể giới trí thức theo đuôi họ đã hoàn toàn bỏ qua bản chất pháp quyền của nhà nước hiến định. Nhưng nếu chúng ta tập trung chú ý vào khía cạnh tổ chức pháp luật của nhà nước hiến định thì để làm rõ bản chất của nó, chúng ta phải chú ý đến khái niệm pháp quyền dưới dạng thuần khiết của nó, nghĩa là nội dung thật sự của nó, chứ không phải rút ra từ các quan hệ kinh tế và xã hội. Lúc đó nói rằng pháp quyền phân định rõ quyền lợi hoặc tạo ra thỏa hiệp là chưa đủ mà phải dứt khoát khẳng định rằng pháp quyền chỉ có khi có tự do cá nhân mà thôi. Theo ý nghĩa này thì trật tự pháp luật là hệ thống các quan hệ trong đó tất cả các thành viên của xã hội đều có quyền tự do hành động và tự quyết cao nhất. Nhưng cũng theo ý nghĩa này thì chế độ pháp quyền không được đối lập với chế độ xã hội chủ nghĩa. Ngược lại, hiểu một cách sâu sắc cả hai sẽ đưa ta đến kết luận rằng chúng liên kết mật thiết với nhau và chế độ xã hội chủ nghĩa, xét về mặt luật học, chính là chế độ pháp quyền được thực hiện một cách nhất quán hơn cả. Mặt khác, chế độ xã hội chủ nghĩa chỉ có thể trở thành hiện thực khi tất cả các cơ quan của nó đều có một định nghĩa hoàn toàn chính xác về mặt pháp lý.

Giới trí thức Nga vốn có nhận thức yếu kém về pháp quyền, cũng như các lãnh tụ của nó là Kavelin và Mikhailovski, không thể đưa ra được định nghĩa về pháp quyền - cho chế độ dân chủ, đối với Kavelin và cho chế độ xã hội chủ nghĩa, đối với Mikhailovski. Họ còn từ chối bảo vệ ngay cả trật tự pháp lý tối thiểu, Kavelin thì chống lại hiến pháp, còn Mikhailovski thì có thái độ hoài nghi đối với quyền tự do chính trị. Nói cho ngay, các sự kiện hồi cuối những năm 70 đã buộc những người dân túy tiến bộ, trong đó có Mikhailovski, đứng lên đấu tranh cho quyền tự do chính trị. Nhưng đây là cuộc đấu tranh mà những người dân túy buộc phải làm vì hoàn cảnh và nhu cầu lịch sử chứ không phải là do sự phát triển tư tưởng của chính họ cho nên không thể dẫn tới thành công được. Chủ nghĩa anh hùng cá nhân của các đảng viên đảng Ý dân không thể bù đắp được những khiếm khuyết căn bản về tư tưởng không những của phong trào dân túy mà của cả giới trí thức Nga nói chung. Giai đoạn phản động hồi nửa sau những năm 80 còn ảm đạm và tăm tối hơn vì trong khi không có bất kỳ căn cứ và bảo đảm pháp lý nào cho một đời sống xã hội bình thường, trí thức nước ta thậm chí còn không nhận thức được một cách rõ ràng vực thẳm của sự vô quyền của nhân dân Nga nữa. Không hề có một định thức lý thuyết nào đủ sức xác định được sự vô quyền đó.

Chỉ sau khi có một làn sóng hướng về phương Tây cùng với chủ nghĩa Marx nổi lên vào đầu những năm 90 thì nhận thức pháp quyền của giới trí thức Nga mới bắt đầu mở mang thêm được một chút. Giới trí thức Nga bắt đầu tiếp thu những chân lý sơ đẳng của người châu Âu, và lúc đó các chân lý sơ đẳng này đã có tác động với họ chẳng khác gì những mặc khải vĩ đại nhất. Cuối cùng, giới trí thức nước ta đã nhận ra rằng mọi cuộc đấu tranh xã hội đều là đấu tranh chính trị cả, rằng tự do chính trị là tiền đề cho chế độ xã hội chủ nghĩa, rằng nhà nước hiến định, dù nằm dưới sự cai trị của giai cấp tư sản đi nữa, sẽ cung cấp cho giai cấp công nhân không gian rộng lớn hơn cho cuộc đấu tranh vì quyền lợi của mình, rằng giai cấp công nhân cần trước hết là quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền tự do ngôn luận, tự do đình công, tự do hội họp và lập hội, rằng cuộc đấu tranh vì quyền tự do chính trị là nhiệm vụ đầu tiên và thiết yếu nhất của bất kỳ đảng xã hội chủ nghĩa nào, v.v... Có thể hy vọng rằng cuối cùng thì giới trí thức của chúng ta cũng công nhận những giá trị bất biến của cá nhân và đòi phải thực hiện các quyền và quyền bất khả xâm phạm của cá nhân. Nhưng hóa ra là những khiếm khuyết trong nhận thức pháp quyền của giới trí thức của chúng ta là rất khó khắc phục. Mặc dù đã trải qua trường mác-xít nhưng thái độ của nó đối với pháp quyền vẫn y như cũ. Có thể nhận thấy điều đó qua những tư tưởng đang giữ thế thượng phong trong đảng Dân chủ-xã hội mà cách đây chưa lâu đa số trí thức đã hùa theo. Về mặt này thì các biên bản của cái gọi là đại hội II đảng Công nhân xã hội dân chủ Nga họp tại Bruxelles vào tháng 8 năm 1903 để soạn ra cương lĩnh và nội quy của đảng là những tài liệu rất đáng được quan tâm. Đại hội lần thứ nhất tại Minsk vào năm 1898 không để lại biên bản nào; tuyên ngôn được công bố sau đó cũng không được Đại hội thông qua mà do P. B. Struve[39] soạn theo đề nghị của một ủy viên Ban chấp hành Trung ương. Như vậy là Toàn tập biên bản Đại hội II đảng Công nhân xã hội dân chủ Nga xuất bản ở Geneva vào năm 1903 là di sản đầu tiên, nếu tính về thời gian và vì vậy mà đặc biệt đáng chú ý, về tư duy của một bộ phận giới trí thức Nga, những người đã tự động đứng vào hàng ngũ của đảng Dân chủ-xã hội, về vấn đề pháp quyền và dân chủ. Việc các biên bản này thể hiện ý kiến của giới trí thức chứ không phải là của các đảng viên “đảng công nhân” theo đúng nghĩa của từ này đã được một người tham gia đại hội và là một trong các lãnh tụ tinh thần của phong trào dân chủ-xã hội Nga thời đó, tức là ông Starover[40] (A. H. Potresov) viết trong bài báo Bàn về chủ nghĩa Marx trong các nhóm và về phong trào dân chủ-xã hội của giới trí thức[41].

Ở đây, chúng ta không thể ghi nhận hết các trường hợp thảo luận, khi mà sự thiếu vắng ý thức pháp quyền và sự thiếu hiểu biết ý nghĩa của sự thật pháp lý của một số đại biểu đã làm người ta phải kinh hoàng. Chỉ cần nói rằng ngay cả các lãnh tụ tinh thần và lãnh đạo đảng củng thường bảo vệ những quan điểm trái ngược với các nguyên tắc pháp quyền. Thí dụ như G. V. Plekhanov[42], người đã có đóng góp nhiều nhất trong việc tố cáo các ảo tưởng dân túy của giới trí thức Nga, người có công soạn thảo ra các nguyên tắc dân chủ-xã hội trong suốt hai mươi năm qua và được công nhận một cách xứng đáng là lý thuyết gia nổi tiếng của đảng, đã phát biểu trước đại hội về tính tương đối của tất cả các nguyên tắc dân chủ, tức đồng nghĩa với việc phủ nhận trật tự pháp luật ổn định và bền vững và phủ nhận ngay chính chế độ lập hiến. Theo ông thì “từng nguyên tắc dân chủ phải được xem xét không phải theo lối trừu tượng mà phải xem xét trong quan hệ với nguyên tắc có thể gọi là nguyên tắc căn bản của dân chủ, mà cụ thể là nguyên tắc nói rằng salus populi suprema lex[43] . Dịch sang ngôn ngữ của nhà cách mạng, câu đó có nghĩa là: thắng lợi của cách mạng là trên hết. Và sẽ là có tội nếu không tạm thời giới hạn hiệu lực của một nguyên tắc dân chủ nào đó nếu việc giới hạn đó có ích cho sự nghiệp của cách mạng. Xin nói ý kiến cá nhân tôi rằng ngay cả nguyên tắc phổ thông đầu phiếu cũng phải được xem xét từ nguyên tắc dân chủ căn bản mà tôi vừa nói bên trên. Có thể giả định trường hợp, khi chúng ta, những người dân chủ-xã hội đưa ra ý kiến phản đối quyền phổ thông đầu phiếu.

Giai cấp tư sản Ý đã từng tuớc bỏ quyền chính trị của những người thuộc giới quý tộc. Giai cấp vô sản cách mạng cũng có thể giới hạn quyền chính trị của các đẳng cấp trên tương tự như các đẳng cấp bên trên đã từng hạn chế quyền chính trị của vô sản vậy. Lợi ích của biện pháp trên chỉ có thể được xem xét từ nguyên tắc salus revolutiae suprema lex[44]. Chúng ta phải đứng trên quan điểm này ngay cả khi nói về vấn đề thời hạn của quốc hội. Nếu nhân dân, trong cao trào cách mạng, bầu được một quốc hội tốt - theo kiểu chambre introuvable[45] - thì chúng ta cần phải làm cho nó sống lâu, còn nếu các cuộc bầu cử tỏ ra là không thành công thì chúng ta phải tìm cách giải tán, không phải sau hai năm mà nếu có thể thì sau hai tuần[46]”.

Tư tưởng về thế thượng phong của bạo lực và quyền lực cướp đoạt được chứ không phải tư tưởng về sự thượng tôn của pháp luật được tuyên xưng trong bài phát biểu này quả là một tư tưởng cực kỳ quái đản. Ngay cả một số đại biểu Đại hội, những người đã quen khuất phục những lực lượng xã hội, cũng tỏ ra bất mãn với cách đặt vấn đề như thế. Một số người chứng kiến kể lại rằng sau bài phát biểu, một số người thuộc phái BUND[47], tức là những đại diện cho các thành phần xã hội thân phương Tây hơn, đã hô lớn: “Đồng chí Plekhanov có tước quyền tự do ngôn luận và quyền bất khả xâm phạm của tư sản không?”. Nhưng đây không phải là những lời phát biểu chính thức nên không được ghi vào biên bản. Tuy nhiên cần ghi nhận rằng một vài diễn giả, những người thuộc phái thiểu số, sau đó đã tuyên bố phản đối bài phát biểu của Plekhanov. Ông Egorov, một đại biểu của Đại hội, đã nhận xét rằng “quy luật của chiến tranh là một chuyện, còn quy luật của hiến pháp lại là chuyện khác, đồng chí Plekhanov quên là những người dân chủ xã hội thiết lập cương lĩnh của mình trên cơ sở của hiến pháp”. Ông Goldblat, một đại biểu khác, thì cho rằng bài phát biểu của Plekhanov là “sự thất bại của chiến thuật tư sản. Nếu là người nhất quán, theo Plekhanov, ta phải loại bỏ đòi hỏi quyền phổ thông đầu phiếu ra khỏi cương lĩnh của phong trào dân chủ-xã hội”.

Dù sao mặc lòng, bài phát biểu nói trên của Plekhanov, không nghi ngờ gì nữa, là chỉ dấu chứng tỏ không chỉ mức độ nhận thức pháp quyền cực kỳ thấp của giới trí thức của chúng ta mà còn cho thấy xu hướng muốn xuyên tạc nó nữa. Ngay cả các lãnh tụ lỗi lạc nhất của nó cũng sẵn sàng nhân danh những lợi ích ngắn hạn mà từ bỏ những nguyên tắc hiển nhiên của chế độ pháp quyền. Dễ hiểu là với nhận thức pháp quyền như thế, giới trí thức Nga trong giai đoạn đấu tranh giải phóng, trên thực tế, đã không thể thực hiện được ngay cả những quyền sơ đẳng nhất của con người, đấy là tự do ngôn luận và tự do hội họp. Trong các cuộc míttinh của chúng ta, chỉ những diễn giả được lòng đám đông mới có quyền tự do ngôn luận, những người có tư duy khác biệt với đám đông thường bị bịt miệng bởi những tiếng hò hét, huýt sáo, tiếng kêu “đủ rồi”, thậm chí đôi khi còn bị tác động vào thân thể nữa. Việc tổ chức các cuộc míttinh đã trở thành đặc quyền của một vài nhóm người và vì vậy mà đa số các cuộc míttinh đã mất một phần ý nghĩa và cuối cùng thì chẳng còn ai coi trọng nữa. Rõ ràng là, từ đặc quyền tổ chức míttinh và quyền tự do ngôn luận của một số ít người trong những cuộc míttinh như thế không thể nào hình thành được tự do ngôn luận thật sự trong việc thảo luận những vấn đề chính trị; từ đó chỉ có thể hình thành một kiểu đặc quyền khác, tức là đặc quyền của các nhóm đối lập trong việc xin phép tổ chức míttinh mà thôi.

Nhận thức què quặt về pháp quyền cũng là nguyên nhân dẫn đến kết quả yếu kém đáng kinh ngạc về mặt lập pháp trong những năm cách mạng (1905-1907 - ND). Trong những năm đó, giới trí thức Nga đã thể hiện sự mù tịt về quá trình lập pháp; họ không biết ngay cả chân lý cơ bản là không thể bãi bỏ một cách đơn giản pháp luật cũ được vì việc bãi bỏ chỉ có hiệu quả khi nó được thay bằng pháp luật mới. Ngược lại, việc bãi bỏ một cách đơn giản chỉ có thể dẫn tới sự kiện là tạm thời dường như nó không có hiệu lực nhưng sau đó nó sẽ được phục hồi hoàn toàn. Điều này thể hiện rõ ở việc thực hiện một cách tuỳ tiện quyền tự do hội họp. Giới trí thức của chúng ta hóa ra đã không có khả năng thiết lập ngay lập tức khuôn khổ pháp lý cho quyền tự do này. Thậm chí, trong những cuộc tranh luận tại Duma quốc gia thứ nhất về “dự luật” tự do hội họp, người ta còn định nâng sự thiếu vắng bất kỳ hình thức pháp lý nào về tự do hội họp thành luật nữa. Nhân những vụ tranh luận này, một đại biểu Duma cũng là một luật sư nổi tiếng đã có nhận xét hoàn toàn đúng rằng “việc tuyên bố một cách trụi lủi quyền tự do hội họp trên thực tế có thể dẫn đến kết quả là trong một số trường hợp nhân dân có thể đứng lên chống lại việc lạm dụng quyền này. Dù các cơ quan hành pháp có chưa hoàn thiện đến đâu thì giao cho nó việc bảo vệ các công dân khỏi sự lạm dụng này vẫn an toàn hơn và đúng hơn là để mặc cho các cá nhân trấn áp lẫn nhau”. Theo ông thì “chính những người, về mặt lý thuyết, đứng ra bảo vệ việc sự không can thiệp của quan chức chính phủ, trên thực tế lại phàn nàn và trách cứ các bộ trưởng vì chính quyền không can thiệp để bảo vệ quyền tự do và cuộc sống của những cá nhân riêng lẻ”. “Sự thiếu nhất quán như thế”, ông nói thêm, “là do thiếu kiến thức pháp luật mà ra[48]”. Bây giờ thì chúng ta được chứng kiến ngay tại kỳ họp thứ ba của Duma quốc gia mọi người cũng không được hưởng hoàn toàn quyền tự do ngôn luận vì trong khi thảo luận cùng một vấn đề thì đảng cầm quyền và đảng đối lập đã không có quyền tự do ngôn luận như nhau. Điều này còn đáng buồn hơn nữa vì cơ quan đại diện của nhân dân, không phụ thuộc vào thành phần của nó, ít nhất cũng phải thể hiện được lương tâm của toàn dân, tối thiểu là thể hiện được đức hạnh của nó.

5. Nhận thức pháp quyền của bất cứ dân tộc nào cũng được thể hiện trong khả năng tạo ra các tổ chức và thiết lập các hình thức hoạt động cho các tổ chức đó. Không thể có các tổ chức và hình thức hoạt động của chúng nếu không có các quy phạm pháp luật điều chỉnh chúng, vì vậy việc hình thành các tổ chức nhất thiết phải đi kèm với việc soạn thảo các quy phạm pháp luật. Nhân dân Nga nói chung không phải là không có tài tổ chức, không nghi ngờ gì rằng họ còn cố tạo ra những tổ chức cực kỳ chặt chẽ nữa, ước muốn sống theo lối công xã, ruộng đất công xã, tập đoàn sản xuất... đã chứng tỏ điều đó. Nhận thức về đúng và sai trong tâm hồn người dân quyết định đời sống và cách xây dựng các tổ chức này. Bản chất nội tại của nhận thức pháp quyền của nhân dân Nga là nguyên nhân của quan niệm sai lầm về thái độ của dân chúng đối với pháp luật. Nó tạo cớ cho trước tiên là những người thân Slav và sau đó là những người dân túy cho rằng nhân dân Nga xa lạ với các “nguyên tắc pháp lý”; rằng dựa vào nhận thức nội tâm, họ chỉ hành động theo các tiêu chuẩn đạo đức mà thôi. Dĩ nhiên là trong nhận thức của nhân dân Nga, các tiêu chuẩn luật pháp và tiêu chuẩn đạo đức vẫn còn chưa được tách biệt và vẫn còn liên kết chặt chẽ với nhau. Đấy cũng là nguyên nhân của sự khiếm khuyết trong luật thông thường của nhân dân Nga; nó không có sự thống nhất và hơn nữa còn xa lạ với tiêu chuẩn của bất kỳ luật pháp thông thường nào: một cách áp dụng duy nhất cho mọi hoàn cảnh.

Nhưng chính vì thế mà giới trí thức phải giúp đỡ nhân dân, thúc đẩy cho sự phân hóa các tiêu chuẩn của luật pháp thông thường cũng như áp dụng luật một cách ổn định và phát triển luật pháp một cách có hệ thống. Chỉ khi đó giới trí thức dân túy mới có thể thực hiện được nhiệm vụ đặt ra là củng cố và phát triển các nguyên tắc của công xã, đồng thời tạo điều kiện để nâng nó lên thành những hình thức cao hơn, tiến dần lên chế độ xã hội chủ nghĩa. Quan niệm sai lầm, tức là ý kiến cho rằng nhận thức của nhân dân ta hoàn toàn theo hướng đạo đức là trở lực cho việc thực hiện nhiệm vụ này và dẫn ước mơ của trí thức đến chỗ phá sản. Không thể xây dựng được một hình thức xã hội cụ thể nào nếu dựa trên cơ sở luân lý như thế. Đấy là quan niệm trái tự nhiên, nó sẽ dẫn tới việc tiêu diệt và làm mất uy tín của đạo đức và sẽ làm cùn mòn thêm nhận thức pháp quyền.

Bất kỳ tổ chức xã hội nào cũng cần các tiêu chuẩn pháp lý, nghĩa là cần những quy định điều chỉnh không phải phẩm hạnh của con người, vốn là nhiệm vụ của luân lý mà là những quy định điều chỉnh hành vi bên ngoài của họ. Mặc dù các tiêu chuẩn pháp lý điều chỉnh hành vi bên ngoài của chúng ta nhưng chúng không sống ở bên ngoài mà sống trước hết trong nhận thức của chúng ta và là thành tố nội tại của tâm hồn con người, giống như các tiêu chuẩn đạo đức vậy. Chỉ khi được thể hiện trong các điều khoản luật pháp hoặc được áp dụng vào đời sống thì chúng mới có đời sống ngoại tại mà thôi. Nhưng khi bỏ qua nhận thức bên trong hay như bây giờ người ta gọi là luật trực giác, giới trí thức của chúng ta đã coi luật pháp chỉ là các tiêu chuẩn bên ngoài, thiếu sức sống, tức là các tiêu chuẩn được đưa một cách dễ dàng vào các điều khoản, các mục của luật pháp hay quy định thành văn nào đó. Điều đặc biệt là bên cạnh ước muốn xây dựng những hình thức xã hội phức tạp chỉ trên cơ sở các nguyên tắc đạo đức thì trong các tổ chức của mình, giới trí thức của chúng ta lại tỏ ra cực kỳ say mê các quy tắc mang tính hình thức và những quy định rất cụ thể; trong trường hợp này họ đã thể hiện sự tin tưởng quá đáng vào các điều và các khoản của nội quy của tổ chức. Hiện tượng này, chứng tỏ một sự mâu thuẩn rất khó hiểu, có nguyên nhân ở chỗ giới trí thức của chúng ta coi tiêu chuẩn pháp lý không phải là nhận thức mà chỉ là các nguyên tắc được viết ra giấy mà thôi.
Chúng ta bắt gặp ở đây một trong những biểu hiện điển hình nhất của trình độ nhận thức pháp quyền yếu kém. Như mọi người đều biết, xu hướng đưa ra các quy định chi tiết và điều chỉnh toàn bộ đời sống xã hội bằng những điều luật thành văn là bản chất của nhà nước cảnh sát, nó chính là chỉ dấu phân biệt với nhà nước pháp quyền. Có thể nói rằng nhận thức pháp quyền của giới trí thức của chúng ta đang ở trong giai đoạn phát triển tương đương với các hình thức của nhà nước cảnh sát. Tất cả các đặc điểm phổ biến của nhà nước cảnh sát đều được thể hiện trong các xu hướng hướng đến chủ nghĩa hình thức và quan liêu trong giới trí thức của chúng ta. Người ta thường đặt chế độ quan liêu đối lập với giới trí thức và về mặt nào đó thì đúng là như thế. Nhưng sẽ xuất hiện một loạt câu hỏi trong sự so sánh như thế: giới quan liêu có xa lạ với giới trí thức đến như thế hay không, giới quan liêu của chúng ta chẳng phải là hậu duệ của giới trí thức hay sao, giới quan liêu không sống bằng nguồn sữa từ giới trí thức hay sao và cuối cùng, liệu giới trí thức có lỗi không khi mà ở nước ta đã hình thành nên một bộ máy quan liêu hùng mạnh đến như thế? Không còn nghi ngờ nữa rằng toàn bộ giới trí thức của chúng ta đã nhiễm thói quan liêu trí thức. Thói quan liêu này được thể hiện trong tất cả các tổ chức của trí thức, đặc biệt là trong các đảng phái chính trị của nó.

Các chính đảng của chúng ta xuất hiện trong giai đoạn trước cách mạng (1905-1907 - ND). Tham gia vào các đảng đó là những người chân thành, với những mơ ước đầy lý tưởng, những người không có thành kiến và đã phải chịu nhiều hy sinh. Tưởng rằng những người này có thể đưa được một phần lý tưởng của mình vào các tổ chức tự do của họ. Nhưng thay vì thế chúng ta lại được chứng kiến sự bắt chước chẳng khác gì nô lệ các lề thói quái gở điển hình của đời sống quốc gia Nga.

Xin lấy ngay đảng Dân chủ-xã hội làm thí dụ. Như đã nói, điều lệ đảng được thông qua tại Đại hội lần thứ II. Điều lệ đối với tổ chức cũng tương đương như hiến pháp đối với nhà nước. Điều lệ quyết định tổ chức của đảng là cộng hòa hay quân chủ, nó quyết định tính chất quý tộc hay dân chủ cho các cơ quan trung ương, và xác định quyền của các đảng viên thường trong quan hệ với toàn đảng. Có thể cho rằng điều lệ đảng của những người tuyệt đối tin tưởng vào chế độ cộng hòa chắc chắn sẽ bảo đảm cho các đảng viên sự đảm bảo tối thiểu đối với quyền tự do ngôn luận và thể chế pháp quyền. Nhưng như đã thấy, đối với các đại diện của giới trí thức của chúng ta, khi cần không phải là tuyên bố các nguyên tắc mà là thực thi các nguyên tắc trong cuộc sống thì quyền tự quyết của cá nhân và thể chế cộng hòa chỉ là chuyện vặt, không đáng để tâm. Trong điều lệ được thông qua tại Đại hội Đảng, chẳng có một cơ quan tự do nào được thành lập hết. Martov[49], lãnh tụ của nhóm thiểu số tại Đại hội đã nói về điều lệ như sau: “Cùng với đa số thành viên Ban biên tập Ngọn lửa nhỏ, tôi nghĩ rằng Đại hội sẽ chấm dứt “tình trạng phong tỏa” trong nội bộ Đảng và thiết lập một trật tự bình thường. Trên thực tế tình trạng phong tỏa với những điều luật đặc biệt nhằm chống lại một số nhóm vẫn tiếp tục, thậm chí còn gay gắt hơn[50]”. Nhưng điều này không làm cho Lenin, lãnh tụ phe đa số, người đòi phải thông qua điều lệ với “tình trạng phong tỏa”, lúng túng. Ông đã phát biểu như sau: “Tôi hoàn toàn không sợ những ngôn từ khủng khiếp như “tình trạng phong tỏa”, như “những điều luật đặc biệt” nhằm chống lại một vài cá nhân hay một vài nhóm, v.v... Đối những phần tử bấp bênh và dao động, chúng ta không chỉ có thể mà phải tạo ra “tình trạng phong tỏa” và toàn bộ điều lệ của chúng ta, chủ nghĩa tập trung được Đại hội thông qua chính là “tình trạng phong tỏa” đối với các nguồn gốc chính trị mơ hồ. Muốn chống lại sự mơ hồ thì cần phải có các điều luật đặc biệt và bước đi mà Đại hội đưa ra đã xác định đúng phương hướng chính trị, đã tạo cơ sở vững chắc cho những điều luật và biện pháp như thế[51]”. Nhưng nếu cái đảng gồm toàn những người trí thức theo tư tưởng cộng hòa mà còn không thể không dùng tình trạng phong tỏa và các điều luật đặc biệt thì dễ hiểu là vì sao cho đến nay nước Nga vẫn còn bị cai trị bởi cảnh sát đặc biệt và tình trạng chiến tranh.

Để thấy được các khái niệm pháp quyền đang ngự trị trong giới trí thức cấp tiến của chúng ta cần phải chỉ ra rằng điều lệ với “tình trạng phong tỏa” được thông qua chỉ với hai phiếu quá bán. Như vậy là trái với nguyên tắc pháp lý căn bản, nói rằng điều lệ cũng như hiến pháp phải được thông qua trên cơ sở quá bán tuyệt đối. Lãnh đạo phe đa số của Đại hội đã không thỏa hiệp ngay cả khi mọi người đều thấy rằng việc thông qua điều lệ với tình trạng phong tỏa như thế sẽ dẫn đảng đến tình trạng phân liệt, một tình trạng buộc người ta phải thỏa hiệp. Kết quả đã dẫn đến sự chia rẽ giữa những người “bolshevik” và những người “melshevik”. Nhưng thú vị nhất là cái điều lệ vốn là nguyên nhân của sự chia rẽ cũng hoàn toàn không thể áp dụng được trên thực tế. Vì vậy, chưa đến hai năm sau, tức là vào năm 1905, tại Đại hội III, gồm toàn những người “bolshevik” (những người “melshevik” từ chối tham gia để phản đối cách bầu đại biểu dự Đại hội), điều lệ thông qua năm 1903 bị hủy bỏ, một điều lệ khác, có thể chấp nhận được với cả những người “melshevik”, đã được thông qua. Nhưng điều này đã không dẫn đến sự thống nhất của đảng. Xuất phát điểm chỉ là vấn đề tổ chức, “melshevik” và “bolshevik” đã đẩy sự thù địch đến mức cao nhất, tức là sang tất cả các vấn đề sách lược. Ở đây các quy luật tâm lý-xã hội đã bắt đầu có hiệu lực, và kết quả sẽ là: một khi mâu thuẫn và sự thù nghịch giữa con người với nhau đã xuất hiện thì vì bản chất nội tại của chúng mà chúng sẽ mở rộng và tự khoét sâu thêm mãi ra. Nói cho ngay, những người có nhận thức cao về pháp quyền sẽ đè nén được các tình cảm đó và không cho chúng mở rộng được ảnh hưởng. Nhưng chỉ có những người nhận thức một cách rõ ràng rằng mọi tổ chức và nói chung mọi sinh hoạt xã hội chỉ có thể diễn ra trên cơ sở thỏa hiệp mới làm được như thế mà thôi. Giới trí thức của chúng ta dĩ nhiên là không có khả năng đó vì trình độ nhận thức pháp quyền của họ chưa đủ để có thể công khai thừa nhận nhu cầu của thỏa hiệp, những người có tính nguyên tắc ở nước ta rất khó thỏa hiệp, nếu có thì cũng hoàn toàn dựa trên quan hệ cá nhân.

Niềm tin vào sức mạnh toàn năng của điều lệ và các biện pháp cưỡng ép không phải là tính chất của riêng những người dân chủ-xã hội Nga. Đấy là căn bệnh của toàn thể giới trí thức của chúng ta. Tất cả các chính đảng của chúng ta đều thiếu nhận thức pháp quyền sống động và có hiệu lực thực sự. Chúng tôi có thể dẫn thêm những thí dụ tương tự từ một đảng xã hội chủ nghĩa nữa, tức là đảng của những người xã hội cách mạng hay các tổ chức tự do khác, như Liên minh giải phóng, nhưng đáng tiếc không thể làm được vì có quá nhiều sự kiện. Chỉ xin lưu ý một tính chất đặc thù nhất của các chính đảng của chúng ta. Đấy là, không thấy ở đâu người ta nói nhiều về kỷ luật đảng như ở nước ta, trong tất cả các đảng, tại tất cả các đại hội, đều có những buổi thảo luận không dứt về các yêu cầu tuân thủ kỷ luật. Dĩ nhiên là nhiều người nói rằng các tổ chức công khai là công việc mới mẻ và quả là có một phần sự thật trong những lời biện hộ như thế. Nhưng đấy không phải là toàn bộ và không phải là điểm chính. Nguyên nhân chủ yếu nhất là giới trí thức của chúng ta còn xa lạ với các quan điểm pháp quyền, tức là các quan điểm tạo ra kỷ luật ngay từ bên trong. Chúng ta cần các biện pháp kỷ luật bên ngoài vì chúng ta không có kỷ luật từ bên trong. Ở đây chúng ta cũng quan niệm pháp luật không phải là nhận thức mà là các biện pháp cưỡng bức. Và một lần nữa điều đó chứng tỏ trình độ nhận thức pháp quyền của chúng ta còn thấp.

6. Trong khi nhận xét về nhận thức pháp quyền của giới trí thức Nga, chúng ta đã xem xét thái độ của nó trên hai bình diện: quyền cá nhân và thái độ đối với trật tự luật pháp khách quan. Chúng ta đã thử xác định nhận thức pháp quyền thể hiện trong việc giải quyết các vấn đề tổ chức, nghĩa là các vấn đề căn bản của quyền hiến định theo nghĩa rộng nhất của từ này. Dựa vào thí dụ là các tổ chức của trí thức, chúng ta đã cố gắng tìm hiểu xem liệu trí thức của chúng ta có khả năng tham gia vào việc tái tổ chức nhà nước về mặt pháp luật, nghĩa là chuyển quyền lực nhà nước từ quyền lực của sức mạnh sang quyền lực của luật pháp hay không. Nhưng nhận xét của chúng ta sẽ không đầy đủ nếu bỏ qua thái độ của giới trí thức Nga đối với tòa án. Tòa án là cơ quan trong đó pháp luật được viện dẫn và được thiết lập. Mọi dân tộc, trước khi các tiêu chuẩn pháp luật được xác định bằng con đường lập pháp thì các tiêu chuẩn này đã được tìm kiếm và thiết lập thông qua các quyết định của tòa án. Các bên, trong khi đưa những vấn đề tranh chấp lên cho tòa án giải quyết nhằm bảo về quyền lợi của mình; mỗi bên đều dựa vào tiêu chuẩn pháp lý khách quan để chứng minh là “mình đúng”. Trong phán quyết của mình, quan tòa, dựa trên nhận thức pháp lý chung, đưa ra quyết định có uy tín về tiêu chuẩn pháp lý. Quan tòa chỉ có thể giữ vững được ngọn cờ pháp luật và đưa được điều luật mới vào cuộc sống khi ông ta được nhận thức pháp lý sống động và tích cực của nhân dân trợ giúp. Sau này, hoạt động lập pháp của tòa án và quan tòa đã bị hoạt động lập pháp của nhà nước lấn át. Các chế độ lập hiến đã tạo ra cơ quan lập pháp dưới hình thức cơ quan đại diện của nhân dân, tức là cơ quan có trách nhiệm thể hiện một cách trực tiếp nhận thức pháp quyền của nhân dân. Nhưng ngay cả hoạt động lập pháp của cơ quan đại diện cũng không thể loại bỏ được giá trị của tòa án trong việc giữ vững tinh thần thượng tôn pháp luật trong quốc gia. Trong nhà nước hiến định hiện đại, tòa án chính là người bảo vệ pháp luật hiện hành; nhưng trong khi áp dụng luật pháp, tòa án còn tiếp tục là thực thể sáng tạo ra luật mới nữa. Trong mấy chục năm gần đây, chính các nhà luật học đã lưu ý đến sự kiện là tòa án vẫn giữ vai trò đó mặc dù hệ thống lập pháp hiện hành đã làm cho vai trò của tòa án có ý nghĩa cao hơn. Quan điểm mới về tòa án như thế đã bắt đầu thâm nhập vào những bộ luật mới nhất. Luật dân sự của Thụy Sĩ được cả hai Viện thống nhất ban hành ngày 10 tháng 12 năm 1907 đã thể hiện quan điểm đó bằng các thuật ngữ hiện đại; điều thứ nhất của bộ luật này nói rằng trong những trường hợp khi tiêu chuẩn pháp luật còn chưa có thì quan tòa phán xét trên cơ sở quy định mà ông tự đặt ra như thể “nếu ông là một nhà lập pháp”. Như thế nghĩa là ở các nước dân chủ và tiến bộ, quan tòa cũng được công nhận là người thể hiện nhận thức pháp quyền của nhân dân giống như đại biểu của cơ quan lập pháp vậy; đôi khi quan tòa còn có nhiều quyền hơn vì ông ta có thể tự mình quyết định, mặc dù không phải là quyết định chung cuộc vì nhờ hệ thống đa cấp mà vụ việc có thể được đưa lên tòa án cấp trên. Tất cả điều đó chứng tỏ rằng nhân dân với nhận thức pháp quyền cao cần phải quan tâm đến và kính trọng tòa án vì đấy là cơ quan bảo vệ và thể hiện trật tự pháp luật của mình.

Giới trí thức của chúng ta có thái độ với tòa án như thế nào? Xin ghi nhận rằng việc tổ chức tòa án của chúng ta được thực hiện theo Quy chế Tòa án do Alexander II ban hành ngày 20 tháng 11 năm 1864 theo các nguyên tắc hoàn toàn phù hợp với các yêu cầu đối với tòa án trong một nhà nước pháp quyền. Tòa án với cách tổ chức như thế có thể dùng để phổ biến trật tự pháp luật chân chính. Những người hoạt động trong lĩnh vực cải cách tòa án đã mong ước dùng những tòa án kiểu mới để chuẩn bị đưa nước Nga vào thể chế pháp quyền. Những tòa án được cải cách với thành phần nhân sự của mình đã gây được những niềm hy vọng tươi sáng nhất. Ban đầu xã hội đã tỏ ra có thiện cảm và yêu mến các tòa án kiểu mới. Nhưng nay, sau bốn mươi năm, chúng ta phải công nhận rằng đấy chỉ là ảo tưởng và chúng ta vẫn chưa có các tòa án tốt. Nói cho ngay, người ta đã chỉ ra rằng ngay sau khi được đưa vào áp dụng và cho đến nay Quy chế đã bị sửa đổi mấy lần. Đúng là như thế, việc sửa chữa chủ yếu được thực hiện theo hai hướng: thứ nhất, một loạt vụ án, thường là các vụ án chính trị phải theo các hình thức điều tra và tòa án đặc biệt; thứ hai, sự độc lập của các quan tòa ngày càng giảm và tòa án càng ngày càng rơi vào tình trạng lệ thuộc hơn. Chính phủ làm việc đó để theo đuổi các mục tiêu chính trị. Và điều đặc biệt là nó đã thôi miên công luận và làm cho công luận chỉ còn chú trọng đến vai trò chính trị của tòa án nữa mà thôi. Ngay cả tòa hội thẩm cũng chỉ có hai quan điểm: chính trị hay là nhân đạo chung chung; trong trường hợp tốt nhất thì trong các phiên tòa hội thẩm ta có thể gặp tòa án lương tâm theo nghĩa nhân đạo tiêu cực chứ không phải là nhận thức pháp quyền tích cực. Dĩ nhiên là trong những điều kiện xã hội của chúng ta quan điểm chính trị đối với tòa hình sự là không thể tránh được. Cuộc đấu tranh bảo vệ pháp luật nhất định biến thành cuộc đấu tranh cho một lý tưởng chính trị nào đó.

Nhưng thái độ bàng quan của xã hội đối với tòa dân sự làm người ta phải ngạc nhiên. Các tầng lớp xã hội rộng lớn không hề quan tâm tới tổ chức và hoạt động của nó. Báo chí của chúng ta không hề nghiên cứu ý nghĩa của nó đối với sự phát triển pháp luật của chúng ta, báo chí không đưa những tin tức quan trọng, đấy là nói về khía cạnh pháp luật, mà nếu có nói thì đấy chỉ là các vụ có tính giật gân mà thôi. Trong khi đó, nếu giới trí thức kiểm soát và điều chỉnh tòa dân sự, tức là loại tòa án tương đối độc lập, thì nó có thể có ảnh hưởng rất lớn trong việc củng cố và phát triển trật tự pháp lý của chúng ta. Khi nói về sự bấp bênh của trật tự pháp lý trong lĩnh vực dân sự, người ta thường nhắm vào sự khiếm khuyết của luật pháp trong lĩnh vực vật chất. Quả thật là bộ luật của chúng ta quá cổ lỗ, hoàn toàn không có luật thương mại, một số lĩnh vực dân sự khác cũng hầu như không được điều chỉnh bằng các tiêu chuẩn pháp luật thành văn. Nhưng như thế thì tòa dân sự càng phải có vai trò quan trọng hơn. Các dân tộc có nhận thức pháp quyền phát triển như người La Mã hay người Anh, trong những điều kiện tương tự, đã có một hệ thống pháp luật bất thành văn rất phát triển, còn ở nước ta trật tự pháp luật vẫn ở trong tình trạng bấp bênh như cũ. Dĩ nhiên là chúng ta cũng có luật pháp hình thành trên cơ sở các quyết định của tòa án, không có nó thì chúng ta không thể tồn tại được và điều đó bắt nguồn từ sự kiện là tòa án của chúng ta đã hoạt động thường xuyên. Nhưng không có nước nào mà hoạt động của tòa phúc thẩm tối cao lại bấp bênh và mâu thuẫn như ở ta; không có tòa phúc thẩm nào lại thường xuyên hủy bỏ quyết định của chính mình như là thượng viện của chúng ta. Không nghi ngờ gì rằng xã hội ta, một xã hội bàng quan với sự ổn định và tính đúng đắn của trật tự luật pháp trong lĩnh vực dân sự, phải chịu phần lớn trách nhiệm trong sự bấp bênh của tòa phúc thẩm tối cao. Ngay cả các nhà luật học của chúng ta cũng ít quan tâm đến vấn đề này và vì vậy mà vẫn chưa có quy định về phương thức hoạt động của tòa phúc thẩm. Chúng ta không có cả cơ quan ngôn luận chuyên trách về vấn đề này, tờ tuần báo duy nhất là tờ Pháp luật, chuyên về việc bảo vệ và soạn thảo luật hình thức, thì mới tồn tại được đúng mười năm.

Sự bàng quan của xã hội đối với trật tự pháp luật trong lĩnh vực dân sự càng làm người ta kinh ngạc hơn vì nó liên quan đến những quyền lợi sống còn và sát sườn của xã hội. Đây là những vấn đề thường nhật, việc điều chỉnh đời sống vật chất, gia đình và xã hội của chúng ta phụ thuộc vào việc giải quyết các vấn đề như thế.

Nhận thức pháp quyền của xã hội ta như thế nào thì tòa án của ta như thế ấy. Chỉ có một vài người từ những tòa án thời kỳ đầu cải cách là tạo được ảnh hưởng tích cực đối với nhận thức pháp quyền của xã hội mà thôi, còn trong hai chục năm gần đây không có bất cứ một quan tòa nào nổi tiếng và cũng chẳng có người nào chiếm được cảm tình của xã hội. Về các hội đồng thẩm phán thì càng chẳng có gì để nói. “Quan tòa” không phải là danh hiệu đầy vinh dự, chứng tỏ đức tính chí công vô tư, hào hiệp, chỉ phụng sự pháp luật như ở các nước khác. Ở nước ta không có tòa hình sự vô tư, không thiên vị; hơn thế nữa, tòa hình sự của chúng ta đã trở thành một loại phương tiện báo thù. Ở đây, dĩ nhiên là các lý do chính trị đóng vai trò quyết định. Nhưng tòa dân sự cũng còn lâu mới đáp ứng được nhiệm vụ của mình. Sự dốt nát, thái độ tắc trách của một số quan tòa làm người ta kinh ngạc, đa số chẳng hề quan tâm, chẳng hề suy nghĩ và không nhận thức được tầm quan trọng và trách nhiệm của mình đối với cái công việc đòi hỏi phải suy nghĩ không ngừng nghỉ như thế. Những người có hiểu biết về tòa án của chúng ta khẳng định rằng những vụ hơi khó khăn và phức tạp đều không được giải quyết trên cơ sở của luật pháp mà là do một sự ngẫu nhiên nào đó. Trong trường hợp tốt nhất thì một quan tòa thông minh và được ủy thác, trong khi xét xử một vụ nào đó, cũng chỉ đưa ra những bằng chứng có lợi cho người ủy thác mà thôi. Nhưng thường thì ngay cả sự giả vờ đó cũng không phải là điều quyết định mà quyết định đối với vụ án lại là những tính toán ở bên ngoài. Dân chúng Nga thường không biết ý nghĩa của tòa án và không tôn trọng nó; điều này thể hiện rất rõ trong hai thành phần tham gia phiên tòa là người làm chứng và giám định viên. Chúng ta buộc phải công nhận rằng nhiều người làm chứng và giám định viên hoàn toàn không nhận thức được nhiệm vụ của mình: giúp tìm ra sự thật. Thái độ khinh xuất đối với nhiệm vụ này thể hiện rõ trong các thuật ngữ không thể tưởng tượng nổi, nhưng vẫn rất thịnh hành, thí dụ như “người đáng tin” hay “kẻ làm chứng trung thực”. Từ lâu đã không còn “tòa án nhanh” để xử các vụ án dân sự nữa, các tòa án của chúng ta có nhiều việc đến nỗi các vụ việc phải đi qua tất cả các cấp, kéo dài đến năm năm. Người ta có thể bảo rằng tòa án có quá nhiều việc và đấy là nguyên nhân chính của thái độ tắc trách và rập khuôn của quan tòa đối với công việc. Nhưng nếu quan tòa được đào tạo tốt và có hiểu biết, những người làm trong ngành và xã hội quan tâm đến tòa án hơn nữa thì công việc chắc chắn sẽ diễn ra trôi chảy hơn, các vụ án sẽ được giải quyết nhanh hơn, dễ hơn và tốt hơn. Cuối cùng, trong những điều kiện như thế, trật tự luật pháp sẽ giành được ý nghĩa quyết định và số lượng các quan tòa của chúng ta cũng không thể ở mãi trong tình trạng không thể chấp nhận được như hiện nay.

Cuộc cải cách tòa án năm 1864 đã tạo ra những người tự do phụng sự luật pháp, đấy là tầng lớp luật sư. Nhưng cũng phải công nhận rằng dù đã tồn tại hơn bốn mươi năm, tầng lớp luật sư cũng chỉ đóng góp được quá ít cho sự phát triển của nhận thức pháp quyền. Chúng ta đã có những trạng sự biện hộ nổi tiếng trong lĩnh vực chính trị và hình sự; nhưng nói cho ngay, ở đây cũng có một số người cổ súy tích cực cho thái độ nhân đạo với phạm nhân, nhưng còn đa số đều là những người đấu tranh cho một lý tưởng chính trị nào đó, hay có thể nói cho “luật pháp mới” chứ không phải là “theo luật” theo đúng nghĩa của từ này. Quá say sưa đấu tranh cho việc hình thành luật mới, họ thường quên mất luật pháp hình thức và pháp luật nói chung. Cuối cùng, đôi khi họ còn làm hại cả “luật pháp mới” bởi vì họ được dẫn đạo bởi các tính toán chính trị chứ không phải luật pháp. Nhưng giới luật sư lại đóng góp ít hơn cho sự phát triển trật tự luật pháp dân sự. Ở đây cuộc đấu tranh vì pháp luật thường dễ bị các tính toán khác gạt sang một bên và các luật sư nổi tiếng của chúng ta thường biến thành những kẻ “làm ăn” bình thường nữa. Đây là bằng chứng cho thấy tòa án của chúng ta cũng như nhận thức pháp quyền của chúng ta không những không ủng hộ cuộc đấu tranh vì luật pháp mà còn có ảnh hưởng theo hướng ngược lại nữa.

Tòa án không thể có vị trí xứng đáng nếu xã hội không nhận thức được một cách rõ ràng những nhiệm vụ của nó. Có rất nhiều bằng chứng cho thấy giới trí thức của chúng ta chưa có nhận thức như thế. Chỉ cần dẫn ra ở đây các quan điểm được những người đại diện cho nhận thức pháp quyền của nhân dân phát biểu tại Duma quốc gia thì rõ. Thí dụ, Aleksinski, đại biểu Duma quốc gia khóa II, thuộc phe cực tả dọa sẽ đưa kẻ thù của nhân dân ra tòa và nói rằng “đấy sẽ là phiên tòa khủng khiếp hơn tất cả mọi phiên tòa”. Sau vài buổi họp, Shulgin, đại diện cho phe cực hữu lại biện hộ cho các tòa án quân sự tại trận rằng như thế còn tốt hơn là để “cho nhân dân tự xử” và khẳng định rằng việc bãi bỏ các tòa án quân sự sẽ dẫn tới “những vụ tự xử khủng khiếp nhất”, những người vô tội sẽ phải gánh chịu hậu quả. Tuy nhiên việc sử dụng sai từ “tòa án” như thế chứng tỏ rằng quan niệm của các đại biểu của chúng ta về tòa án thể hiện thế giới quan của thời kỳ khi mà tòa còn “bắt lưu đầy và tịch thu tài sản”.

Không nên chỉ đổ lỗi cho hoàn cảnh chính trị, chính chúng ta cũng có lỗi trong việc có những tòa án kém như thế. Trong những điều kiện chính trị tương tự, tòa án ở các nước khác dù sao cũng vẫn bảo vệ được pháp luật. Câu ngạn ngữ “Quan tòa ở Berlin” thịnh hành vào cuối thế kỷ XVIII và nửa đầu thế kỷ XIX khi mà Phổ vẫn còn là nhà nước quân chủ chuyên chế chứng tỏ điều đó.

Tất cả câu chuyện về trình độ nhận thức pháp quyền thấp của giới trí thức của chúng ta không phải là để kết tội hay lên án. Sự thất bại của cuộc cách mạng Nga và sự kiện trong những năm gần đây đã là bản án đanh thép đối với giới trí thức rồi. Bây giờ trí thức phải đi vào thế giới nội tâm, thâm nhập vào nó để làm tươi mới và bồi bổ thêm cho nó. Trong quá trình lao động như thế, cuối cùng nhận thức pháp quyền của giới trí thức của chúng ta nhất định sẽ được đánh thức. Những dòng này được chắp bút với niềm tin và mong ước cháy bỏng rằng một ngày không xa, nhận thức pháp quyền của giới trí thức của chúng ta sẽ trở thành lực lượng xây dựng và sáng tạo nên một đời sống xã hội mới. Trải qua một loạt thử thách đầy cay đắng, giới trí thức của chúng ta phải đi đến nhận thức rằng bên cạnh các giá trị tuyệt đối như tự tu dưỡng cá nhân và đức hạnh thì còn có các giá trị tương đối, giá trị bình thường nhưng bền vững và không gì phá hủy được như trật tự pháp luật nữa.

Ghi chú cho lần xuất bản thứ hai. Nhiều người cho rằng thật là bất công khi lên án sự yếu kém trong nhận thức pháp quyền của giới trí thức vì nó không có lỗi mà đấy là những điều kiện ngoại tại, tức là sự vô luật pháp đang ngự trị trong đời sống của chúng ta. Không thể phủ nhận được ảnh hưởng của những điều kiện đó và nó đã được phản ánh trong bài báo của tôi. Nhưng không được đổ tất cả cho hoàn cảnh, không được bình thản mà phải công nhận rằng “nhà nước của chúng ta trong một thời gian dài, phải nói là mấy thế hệ, đã không giáo dục mà lại còn làm cho chúng ta đổ đốn thêm”, rằng “mấy thế hệ người Nga được dạy dỗ coi thường luật pháp, cho rằng luật pháp chẳng những bất lực mà còn không cần thiết nữa”[52]. Nếu chúng ta nhận thức được tai họa thì chúng ta không thể ngồi yên, lương tâm của chúng ta không thể bình thản và chúng ta phải đấu tranh với cái nguyên nhân đang hủ hóa con người của ta ở chính trong ta. Thật không xứng đáng là một người có tư duy khi phát biểu: chúng ta đã bị hủ hóa rồi và nếu người ta không gỡ bỏ cái nguyên nhân làm băng hoại kia đi thì chúng ta sẽ còn tiếp tục hủ hóa như thế nữa. Mọi người đều phải nói: tôi không được sa đọa như thế nữa vì tôi đã nhận thức được rằng người ta đang làm tôi sa đọa và tôi biết nguyên nhân của sự sa đọa đó rồi. Chúng ta cần phải mang hết nghị lực của tư duy, ý chí và tình cảm để giải phóng nhận thức của mình khỏi những ảnh hưởng tiêu cực do hoàn cảnh không thuận lợi gây ra. Đấy là lý do vì sao nhiệm vụ của giai đoạn này là đánh thức nhận thức pháp quyền của giới trí thức Nga và đưa nó vào hành động, đưa nó vào đời sống.


Chú thích:

* B. A. Kistiakovski (1869-1920) là triết gia, nhà luật học và xã hội học nổi tiếng, đảng viên đảng Dân chủ lập hiến. Kiến thức về pháp luật Nga của ông sâu sắc đến mức Max Weber đã chọn ông làm cố vấn khi viết về các đảng phái chính trị ở Nga. Bài Trí thức và nhận thức pháp quyền được đăng trong Những cột mốc, xuất bản lần đầu năm 1909.

[1] Thomas Hobbes (1588-1679), triết gia và chính khách người Anh
[2] Sir Robert Filmer (1588-1653), lý thuyết gia chính trị; tác phẩm Patriacha, or the Natural Power of Kings nói tới ở đây xuất bản năm 1680.
[3] John Milton (1608 - 1674), nhà thơ, nhà văn, nhà hoạt động xã hội nổi tiếng người Anh.
[4] John Lilburne (1615-1657), nhà hoạt động chính trị người Anh.
[5] John Locke (1632-1704), một trong những triết gia vĩ đại nhất của châu Âu thế kỷ XVII, tác phẩm Two Treatises of Government (Hai khảo luận về chính quyền) xuất bản năm 1689, trong đó Khảo luận thứ hai về chính quyền. Chính quyền dân sự đã được Lê Tuấn Huy dịch, Nhà xuất bản Tri thức ấn hành năm 2006.
[6] Montesquieu (1689-1755), người tiên phong trong phong trào Khai sáng Pháp thế kỷ XVIII. Tác phẩm Bàn về tinh thần pháp luật được Hoàng Thanh Đạm dịch, Nhà xuất bản Lý luận chính trị ấn hành năm 2004.
[7] Jean-Jacque Rousseau (1789-1794), tác phẩm Bàn về khế ước xã hội được Hoàng Thanh Đạm dịch, Nhà xuất bản Lý luận chính trị ấn hành năm 2004.
[8] Johannes Althusius (1557-1638), triết gia người Đức.
[9] Pufendorf Samuel (1632-1694), luật sư nổi tiếng người Đức.
[10] Thomasius Christian (1655-1728), triết gia người Đức.
[11] Wolff Christian (1679-1754), tư tưởng gia người Đức.
[12] Kant E. (1724-1804), ông tổ của nền triết học cổ điển Đức.
[13] Fichte Johann Gottlieb (1762 - 1814), triết gia nổi tiếng người Đức.
[14] Hegel G. (1770-1831), triết gia người Đức, ông tổ của phép biện chứng.
[15] Herbart Iohann Friedrich (1776-1841), triết học, nhà tâm lý học và giáo dục học nổi tiếng người Đức.
[16] Krause Christian Friedrich (1781-1832), triết gia người Đức.
[17] Fries Jakob Friedrich (1773-1843), triết gia người Đức.
[18] Thibaut (1772-1840), luật gia nổi tiếng người Đức.
[19] Savigny Friedrich Karl (1814-1875), luật gia nổi tiếng người Đức.
[20] Puchta (1798-1846), luật gia nổi tiếng người Đức.
[21] Beseler (1809-1888), luật gia và chính trị gia nổi tiếng người Đức.
[22] Von Ihering (1818-1892), luật gia nổi tiếng người Đức.
[23] Tritrerin G. V. (1828-1804), luật sư, triết gia và nhà sử học nổi tiếng người Nga.
[24] Vl. Soloviev (1853-1900), nhà thơ và triết gia nổi tiếng người Nga.
[25] Gersen A. I. (1812-1870), nhà triết học, nhà chính luận và nhà văn nổi tiếng người Nga.
[26] K. S. Aksakov (1817-1860), nhà chính luận, nhà sử học, nhà ngôn ngữ học, nhà thơ Nga.
[27] Pëtr (1672-1725), thường gọi là Pëtr Đại đế.
[28] B. N. Almazov (1827-1876), nhà phê bình văn học, nhà thơ trào phúng Nga.
[29] Leontiev K. N. (1831-1891), triết gia tôn giáo người Nga.
[30] Không có giá trị đáng kể - tiếng Pháp, ND.
[31] Nietzsche F. (1844-1900), triết gia vĩ đại người Đức.
[32] Max Stirner, tên thật là Johann Kaspar Schmidt (1806-1858), triết gia người Đức.
[33] K. D. Kavelin (1818-1885), nhà sử học, nhà xã hội học và luật học nổi tiếng người Nga.
[34] Alexander II (1818-1881), hoàng đế Nga từ năm 1855. Bị những người dân túy ám sát.
[35] N. K. Mikhailovski (1842-1904), nhà xã hội học, nhà báo và nhà phê bình văn học Nga, lý thuyết gia của phong trào dân túy.
[36] Xem Mikhailovski N. K. Toàn tập, tập IV, trang 949.
[37] Tác phẩm đã dẫn, trang 952.
[38] Merkle Adolphe (1827-1885), luật gia nổi tiếng người Đức.
[39] Struve P. B. (1870-1944), nhà kinh tế học có tài, thời trẻ từng là lãnh tụ của những người mác-xít. Sau Cách mạng Tháng Mười sống lưu vong ở nước ngoài.
[40] Starover, tên thật là A. H. Potresov (1869-1943), thuộc phái “melshevik”.
[41] Xem: Potresov A. N. Tiểu luận về giới trí thức Nga, 1908, trang 253 và các trang tiếp theo.
[42] Plekhanov G. V. (1856-1918), nhà triết học và nhà hoạt động nổi tiếng trong phong trào dân chủ-xã hội quốc tế người Nga.
[43] Lợi ích của nhân dân là trên hết - tiếng Latin trong nguyên văn.
[44] Lợi ích của cách mạng là trên hết - tiếng Latin trong nguyên văn.
[45] Quốc hội vô hình - tiếng Pháp trong nguyên văn.
[46] Xem: Toàn tập biên bản Đại hội II đảng Công nhân xã hội dân chủ Nga, Geneva, 1903, trang 169-170.
[47] BUND là tên viết tắt của Liên đoàn công nhân Do Thái Nga và Ba Lan, được thành lập năm 1897, năm 1998 tham gia vào đảng Công nhân dân chủ xã hội Nga.
[48] Novgorodtsev P. Hoạt động lập pháp của Duma quốc gia. Tập hợp các bài báo. Duma quốc gia I, 1907, tập II, trang 22.
[49] Martov Iu. O. (1873-1923), nhà hoạt động nổi tiếng của phong trào cách mạng Nga, đảng viên đảng Công nhân xã hội dân chủ Nga từ năm 1900, từ năm 1903 là lãnh tụ phe “melshevik”, thành viên ban biên tập tờ Ngọn lửa nhỏ, lưu vong từ năm 1920.
[50] Toàn tập biên bản Đại hội II đảng Công nhân xã hội dân chủ Nga, Geneva, 1903, trang 331.
[51] Tài liệu vừa dẫn, trang 333.
[52] V. Maklakov Luật pháp trong cuộc sống người Nga, Tin tức châu Âu, tháng 5, năm 1909, trang 273-274)

SOURCE: “VỀ TRI THỨC NGA”  - NXB Tri thức, 2009

Trích dẫn từ: http://chungta.com/Desktop.aspx/ChungTa-SuyNgam/Nhan-Thuc/Tri_thuc_nhan_thuc_phap_quyen/3.viePortal

Thứ Bảy, 25 tháng 7, 2009

VĂN HÓA PHÁP LUẬT PHÁP VÀ NHỮNG ẢNH HƯỞNG TỚI PHÁP LUẬT Ở VIỆT NAM

PGS.TS. THÁI VĨNH THẮNG

1. Các đặc điểm cơ bản của văn hoá pháp luật Pháp

1.1. Ảnh hưởng từ văn hoá pháp luật La Mã

Các bộ luật lớn của Pháp như Bộ luật dân sự Napoleon 1804, Bộ luật Thương mại năm 1807 đều được hình thành trên cơ sở kết hợp luật tập quán địa phương và luật La Mã. Luật La Mã được nghiên cứu tại các trường đại học của Pháp và được coi là nguồn luật bổ sung, được áp dụng trực tiếp nếu luật pháp thành văn và tập quán pháp luật của họ chưa có quy định đối với quan hệ xã hội cần thiết phải điều chỉnh pháp luật. “Corpus juris civilis” được tiếp nhận rộng rãi ở Pháp cũng như ở các nước lục địa châu Âu.

1. 2. Nơi khởi nguồn của nhiều tư tưởng pháp luật tiến bộ

Nhiều tư tưởng pháp luật tiến bộ được xuất phát từ nước Pháp. Tư tưởng pháp luật tự nhiên về quyền công dân và quyền con người thể hiện rõ trong bản Tuyên ngôn Nhân quyền và công dân quyền của Pháp năm 1789; tư tưởng phân chia quyền lực và kiềm chế đối trọng trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước thể hiện rõ trong tác phẩm “Tinh thần pháp luật” của Montesquieu, tư tưởng chủ quyền tối cao của nhà nước thuộc về nhân dân thể hiện rõ trong tác phẩm “Khế ước xã hội” của Jean Jaques Rousseau.

1.3. Hệ thống luật được phân chia thành công pháp và tư pháp

Do ảnh hưởng sâu sắc của luật La Mã, hệ thống pháp luật Pháp được phân chia thành Jus publicum (công pháp), Jus privatum (tư pháp). Công pháp bao gồm những ngành luật điều chỉnh các quan hệ xã hội, các quan hệ giữa các cơ quan nhà nước với nhau hoặc giữa các cơ quan nhà nước với tư nhân. Công pháp là gồm các ngành luật như Luật Hiến pháp, Luật Hành chính, Luật Hình sự, Luật Ngân hàng, Luật Tài chính… Tư pháp bao gồm các ngành luật điều chỉnh các quan hệ giữa tư nhân với tư nhân. Tư pháp bao gồm các ngành luật như Luật Dân sự, Luật Hôn nhân gia đình, Luật Thương mại.

Cơ sở để phân chia pháp luật thành công pháp và tư pháp là phương pháp điều chỉnh (phương pháp tác động pháp luật lên các quan hệ xã hội). Phương pháp điều chỉnh đặc trưng của tư pháp là phương pháp tự do thỏa thuận ý chí và bình đẳng giữa các bên tham gia quan hệ pháp luật. Còn phương pháp điều chỉnh của công pháp chủ yếu là phương pháp mệnh lệnh. Tuy nhiên cũng có quan điểm cho rằng việc phân chia pháp luật thành công pháp và tư pháp (Jus publicum và Jus privatum) có liên quan tới các cuộc đấu tranh về quyền lực chính trị thế kỷ XVII bởi vì việc phân chia này được xem là ý muốn của những người bảo hoàng muốn áp đặt chế độ quân chủ trong pháp luật7, theo đó chỉ có tư pháp mới là lĩnh vực tự do của các nhà luật học, còn công pháp là lĩnh vực mà các nhà khoa học pháp lý cần phải kiêng kỵ, vì đó được coi như là "khu vực cấm".

1.4. Hệ thống pháp luật coi trọng lý luận pháp luật

Ngay từ thế kỷ XII, khi Trường đại học Paris mới ra đời, quan điểm của các giáo sư đại học lúc này đã là: pháp luật là công cụ, là mô hình tổ chức xã hội, là cái Sollen (cái cần phải làm) chứ không phải là Sein (cái đang xảy ra trong thực tiễn). Quan điểm này được duy trì trong những thế kỷ tiếp theo. Các học thuyết pháp luật, các nguyên tắc pháp luật được coi là nguồn của pháp luật. Các bộ luật của Pháp thông thường đi từ cái chung đến cái riêng mặc dù nhiều bộ luật không có sự tách bạch thành phần chung và phần riêng. ở phần đầu các bộ luật các khái niệm chung được trình bày một cách rõ ràng, rành mạch. Các bộ luật thường bắt đầu bằng các khái niệm chung làm cơ sở lý luận cho các phần sau và thông thường được xây dựng theo tư duy lôgic từ cái khái quát đến cái cụ thể, từ cái chung đến cái riêng, từ cái trừu tượng đến cái hữu hình, từ nguyên tắc chung đến các tình huống cụ thể, từ lý luận đến thực tiễn.

1.5. Hệ thống pháp luật có trình độ hệ thống hoá, pháp điển hoá cao

Ngoài các bộ luật thông thường như Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Bộ luật Dân sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, Bộ luật Lao động, Bộ luật Thương mại... các quốc gia lục địa châu Âu đã xây dựng nhiều bộ luật khác như Bộ luật Đất đai, Bộ luật Tổ chức hệ thống toà án hành chính, Bộ luật Tốtụng hành chính, Bộ luật Hàng hải, Bộ luật Hàng không, Bộ luật Bầu cử, Bộ luật Thuế, Bộ luật Giao thông đường bộ, Bộ luật Sở hữu trí tuệ, Bộ luật Tiêu dùng, Bộ luật Nông thôn, Bộ luật về các Toà án tài chính, Bộ luật chung về Các chính quyền địa phương, Bộ luật Y tế công, Bộ luật Tiền tệ và tài chính, Bộ luật Môi trường, Bộ luật Hỗ trợ xã hội và gia đình, Bộ luật Quốc phòng, Bộ luật Du lịch, Bộ luật Di sản và nghiên cứu v.v.. Nhờ xây dựng được nhiều bộ luật, việc nghiên cứu, thực hiện và áp dụng pháp luật trở nên dễ dàng hơn. Các quy phạm pháp luật trong các bộ luật thường rất cụ thể với các chế tài rõ ràng, vì vậy có thể áp dụng trực tiếp vào các quan hệ xã hội mà không cần thông qua một văn bản pháp luật trung gian như nghị định hoặc thông tư hướng dẫn thi hành.

1.6. Hệ thống pháp luật không coi tiền lệ pháp luật là một hình thức pháp luật thông dụng và phổ biến như pháp luật thành văn

Khác với hệ thống pháp luật Anh, Mỹ, hệ thống pháp luật Pháp chịu ảnh hưởng sâu sắc của học thuyết phân chia quyền lực, nên không thừa nhận vai trò lập pháp của các cơ quan xét xử. Sau cách mạng 1789, các luật gia Pháp hầu như có quan điểm tương đối thống nhất rằng lập pháp là hoạt động của Nghị viện, Toà án là cơ quan áp dụng luật để xét xử chứ không phải bằng hoạt động xét xử tạo ra luật. Án lệ là hình thức pháp luật không được khuyến khích phát triển và chỉ áp dụng một cách hạn chế như là một hình thức khắc phục khiếm khuyết của pháp luật thành văn.

1.7. Nghề luật phát triển và có uy tín trong xã hội

Từ thời kỳ La Mã cổ đại, pháp luật và những người bảo vệ pháp luật đã được xã hội coi trọng. Thời đó người La Mã đã quan niệm: “Lex est norma resti” (Law is a rule of right) nghĩa là pháp luật là quy tắc của lẽ phải. Người La Mã cũng có câu thành ngữ “Lex est dictamen rationis” (Law is the dictate of reason) - pháp luật là mệnh lệnh của công bằng, công lý. Do chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn hoá pháp luật La Mã nên người Pháp cũng rất coi trọng pháp luật và những người chọn sự nghiệp bảo vệ pháp luật làm nghề nghiệp của mình. ở Pháp cũng như nhiều nước lục địa châu Âu, quyền tư pháp được tách khỏi quyền lập pháp, hành pháp và là một nhánh quyền lực hoàn toàn độc lập. Để đảm bảo cho thẩm phán độc lập, ngoài việc được bổ nhiệm suốt đời, thẩm phán còn được hưởng một khoản lương rất cao so với các nghề nghiệp khác. Hơn thế nữa, trụ sở toà án ở Pháp thường là nơi có kiến trúc đẹp nhất trong các loại công sở, thường đó là các lâu đài đã được xây dựng cách đây hàng trăm năm, vì vậy người Pháp đặt tên các trụ sở toà án là Palais de Justice - Lâu đài công lý.

2. Ảnh hưởng của văn hoá pháp luật Pháp với quá trình xây dựng và thực hiện pháp luật ở Việt Nam

2.1 Ảnh hưởng của văn hoá pháp luật Pháp vào hoạt động lập hiến ở Việt Nam

Vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, do ảnh hưởng của tư tưởng dân chủ tư sản Pháp, đặc biệt là Bản Tuyên ngôn Dân quyền và công dân quyền của nước Pháp 1789, Hiến pháp 1791 và các bản Hiến pháp tiếp theo của Pháp, giới trí thức Việt Nam đã tranh luận sôi nổi về việc xây dựng một bản Hiến pháp cho Việt Nam. Trên tờ tạp chí “Nam Phong” đã diễn ra cuộc bút chiến sôi nổi giữa hai nhà văn Phạm Quỳnh và Nguyễn Văn Vĩnh về thiết lập một nền quân chủ lập hiến hay một nền hành chính trực trị. Phạm Quỳnh cho rằng nên xây dựng một nền quân chủ lập hiến trong đó đảm bảo quyền dân chủ cho người dân An Nam, quyền cai trị cho Hoàng đế An Nam và quyền bảo hộ cho Chính phủ Pháp. Còn nhà văn Nguyễn Văn Vĩnh, sau khi phân tích sự thối nát và bảo thủ, lạc hậu của chế độ quân chủ ở Việt Nam đã kiến nghị bãi bỏ chế độ quân chủ, thiết lập một nền hành chính trực trị do Chính phủ bảo hộ Pháp thực hiện. Khác với Phạm Quỳnh và Nguyễn Văn Vĩnh, các nhà cách mạng yêu nước như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn An Ninh, Huỳnh Thúc Kháng và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã ra sức tuyên truyền cho việc đấu tranh giành lại độc lập, tự do cho dân tộc, thiết lập và bảo vệ các quyền tự do dân chủ cho người dân An Nam, quyền tự quyết cho dân tộc Việt Nam. Năm 1919, Nguyễn Ái Quốc đã trình lên Hội nghị Vessailles Bản yêu sách của nhân dân An Nam trong đó có điểm thứ 7, yêu cầu ban hành cho người dân An Nam một bản Hiến pháp. Sau khi Cách mạng Tháng 8 thành công, mơ ước của người dân Việt Nam về một bản Hiến pháp cho người dân Việt Nam đã có điều kiện biến thành hiện thực. Chỉ sau một thời gian ngắn sau khi thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, dưới sự chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, bản Hiến pháp 1946 đã được xây dựng.

Hiến pháp 1946, mặc dù được xây dựng trong một thời gian không dài nhưng đây là bản Hiến pháp kết tinh được những tinh hoa của hiến pháp tư sản, đặc biệt là các bản Hiến pháp đầu tiên của nước Cộng hoà Pháp. Mô hình chính thể theo Hiến pháp 1946 là mô hình kết hợp giữa chính thể Cộng hoà tổng thống của Hoa Kỳ và Cộng hoà lưỡng tính của nước Pháp.

2.2 Ảnh hưởng của văn hoá pháp luật Pháp với việc xây dựng và thực hiện các bộ luật dân sự ở Việt Nam

Trong thời thực dân Pháp đô hộ, dưới sự ảnh hưởng của Bộ luật Dân sự Napoleon 1804, một số Bộ luật Dân sự Việt Nam đã được ban hành:

- Bộ luật Dân sự giản yếu của Nam Kỳ được ban hành năm 1884 (Precis de legislation civile). Bộ luật này gồm có 11 thiên quy định về các vấn đề nhân thân, hộ tịch, giá thú, ly hôn, phụ hệ, con nuôi, giám hộ.. Bộ luật này có kết cấu giống với Bộ luật Dân sự Napoleon, thậm chí có nhiều thiên trong bộ luật sao chép y nguyên nội dung Bộ luật Dân sự của Pháp. Do vậy, Bộ luật này không phản ánh được các phong tục của người Việt Nam. Giáo sư Vũ Văn Mẫu đã nhận xét rằng, Bộ luật này thiên về tính cách cá nhân, trong khi truyền thống của người Việt trọng về gia đình. Bộ luật này chỉ chú trọng các vấn đề cá nhân, kết hôn, ly hôn… trong khi đó các vấn đề quan trọng như hợp đồng, chế độ tài sản của vợ chồng, thừa kế lại không được quy định. Vì bộ luật này có nhiều thiếu sót, nên khi cần thiết thường phải áp dụng các quy định của Bộ luật Gia Long và Hồng Đức.

- Bộ luật Dân sự Bắc Kỳ được ban hành năm 1931. Bộ luật này còn được gọi là Bộ luật Morché (Thống sứ Bắc Kỳ). Bộ luật này được chuẩn bị khá công phu, tuy nhiên hoàn toàn theo tinh thần của người Pháp. Ngày 6/7/1917, Toàn quyền Đông Dương đã ban hành một Nghị định thiết lập một uỷ ban Việt - Pháp để xây dựng dự thảo Bộ luật Dân sự Bắc Kỳ. Bộ luật Dân sự Bắc Kỳ 1931 gồm 1455 Điều chia thành 1 Thiên sơ bộ và 4 Quyển. Trong Thiên sơ bộ quy định các nguyên tắc của luật dân sự hiện đại như nguyên tắc bất hồi tố, nguyên tắc bình đẳng và tự do cá nhân, nguyên tắc tôn trọng quyền tư hữu, nguyên tắc tự do khế ước. Quyển thứ nhất của Bộ luật Dân sự Bắc Kỳ thể hiện sự tiếp nhận có chọn lọc một số nội dung của Bộ luật Dân sự Napoleon trong sự kết hợp với giá trị văn hoá truyền thống của Việt Nam trong các quan hệ về hôn nhân, gia đình và thừa kế. Tuy nhiên, Bộ luật này cũng có một số quy định không phù hợp với thực tiễn ở Việt Nam. Ví dụ, việc hạn chế năng lực hành vi của người đàn bà có chồng trong các giao dịch dân sự như mua, bán hoặc nhận tài sản thừa kế. Việc mua, bán hoặc nhận thừa kế tài sản người phụ nữ có chồng chỉ có thể thực hiện được khi có sự đồng ý của người chồng. Các quy định trên đây không phù hợp với thực tiễn ở Việt Nam vì trong các quan hệ kinh tế, dân sự, thương mại người phụ nữ Việt Nam có quyền khá rộng rãi, họ hoàn toàn độc lập và không hề phụ thuộc vào chồng khi thực hiện một hành vi dân sự như mua, bán các loại hàng hoá cần thiết cho cuộc sống.

- Bộ luật Dân sự Trung Kỳ được ban hành năm 1936 (còn gọi là Hoàng Việt Trung Kỳ hộ luật 1936). Bộ luật Dân sự Trung Kỳ 1936 bao gồm 5 Quyển, 1709 Điều (nhiều hơn Bộ luật Dân sự Bắc Kỳ 254 Điều). Tác giả của bộ luật này là Collet, cố vấn pháp luật của Chính phủ bảo hộ. Các quy định về hợp đồng được xây dựng giống với luật La Mã và được quy định khá chi tiết. Đó là các nguyên tắc cơ bản về hợp đồng bảo lãnh, hợp đồng thuê nhân công, hợp đồng công nghệ, hợp đồng vận tải. Một số quy định trong bộ luật mang tính hiện đại và tiến bộ. Ví dụ, Điều 9 Bộ luật Dân sự Trung Kỳ quy định: “ Người và của (tài sản) đều không ai được xâm phạm và do pháp luật bảo hộ. Tục bắt người làm nô lệ nhất thiết là nghiêm cấm”. Ngoài một số quy định mang tính đặc thù như phần khế ước được quy định chi tiết và chặt chẽ hơn các Bộ luật Dân sự Nam Kỳ và Bắc Kỳ, về cơ bản, Bộ luật này giống Bộ luật Dân sự Bắc Kỳ 1931.

Sau Cách mạng Tháng 8 năm 1945, trong điều kiện chưa xây dựng được các Bộ luật mới, Sắc lệnh ngày 10/10/1945 đã cho phép áp dụng các luật lệ của chế độ cũ, trừ những điều khoản trái với nền độc lập tự do của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Năm 1954, sau chiến thắng Điện Biên Phủ và Hội nghị Giơ-ne-vơ thắng lợi, miền Bắc Việt Nam được hoàn toàn giải phóng. Đất nước tạm thời chia làm hai miền và việc thống nhất đất nước theo Hiệp định sẽ được thực hiện sau hai năm, bằng cuộc tổng tuyển cử trong cả nước do chính quyền hai miền hiệp thương tổ chức. Nhưng sau khi hất cẳng Pháp, đế quốc Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm đã vi phạm hiệp định Giơ-ne-vơ, từ chối hiệp thương tổng tuyển cử để thống nhất đất nước. Vì vậy từ năm 1955 đến 1975, ở Việt Nam đã hình thành hai chính quyền: Việt Nam dân chủ cộng hoà ở Miền Bắc và Việt Nam cộng hoà ở Miền Nam.

Ở Miền Bắc, ngày 1/7/1959, Toà án nhân dân tối cao đã có chỉ thị số 772-TATC đình chỉ áp dụng những luật lệ của chế độ cũ và từ thời điểm đó, chỉ áp dụng những luật lệ của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. ở Miền Nam, ngày 20/12/1972 Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ký sắc lệnh đồng thời ban hành 5 Bộ luật trong đó có Bộ luật Dân sự. Bộ luật này về cơ bản duy trì hệ thống pháp luật của Pháp tại Nam Kỳ trước đây.

Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng và thống nhất đất nước, các bộ luật ở miền Nam trong đó có Bộ luật Dân sự bị bãi bỏ, pháp luật miền Bắc được áp dụng thống nhất trong phạm vi cả hai miền Nam Bắc. Ngày 28/10/1995 Bộ luật Dân sự của nhà nước thống nhất được ban hành và có hiệu lực từ ngày1 /7/1996. Sau 10 năm có hiệu lực, nhiều quy định của Bộ luật này cần được bổ sung và sửa đổi.Vì vậy Quốc hội khoá XI, tại Kỳ họp thứ VII, ngày 14/6/2005 đã thông qua Bộ luật Dân sự mới. Bộ luật Dân sự 2005 cũng có kết cấu gồm 7 phần như Bộ luật Dân sự 1995, tuy nhiên số lượng các điều được giảm bớt cho gọn nhẹ hơn, chỉ còn 777 Điều (Bộ luật Dân sự 1995 có 838 Điều). Bộ luật Dân sự 2005 được xây dựng trên tinh thần hội nhập quốc tế, tiếp thu nhiều tư tưởng pháp luật lục địa châu Âu (Pháp, Đức) nhưng vẫn giữ được bản sắc văn hoá truyền thống của đời sống dân sự Việt Nam.

2.3 Ảnh hưởng của hệ thống tổ chức toà án Pháp đối với Việt Nam

Trước khi người Pháp đặt ách đô hộ, hệ thống toà án ở Việt Nam được xây dựng theo mô hình toà án phong kiến, ở đó không có sự tách biệt giữa cơ quan hành chính và cơ quan tư pháp, các quan cai trị đầu hạt đồng thời là các quan xét xử. Hơn thế nữa, trong hệ thống cơ quan tư pháp thời kỳ này không phân biệt cơ quan điều tra, cơ quan truy tố, cơ quan xét xử. Các tri phủ, tri huyện tự mình điều tra, tự mình truy tố và đồng thời tự mình xét xử. Trong hệ thống tố tụng lúc này chưa thiết lập được nguyên tắc mọi công dân bình đẳng trước pháp luật vì còn tồn tại chế định “bát nghị” (tám trường hợp được miễn giảm hình phạt) và nhiều thiết chế khác bảo vệ những người có quan hệ huyết thống với vua và quan lại cao cấp của triều đình. Quyền được bào chữa của các bị cáo cũng chưa được thiết lập.

Khi thực dân Pháp đặt ách đô hộ lên Việt Nam, bên cạnh các toà án của người Việt xây dựng theo mô hình toà án phong kiến để xét xử người Việt, người Pháp đã thành lập thêm hệ thống toà án Pháp xây dựng theo mô hình toà án tư sản để xét xử công dân Pháp và công dân nước ngoài kể cả người Việt đã nhập quốc tịch Pháp. Các toà án Pháp được xây dựng trong thời kỳ này hoàn toàn là những toà án theo mô hình toà án hiện đại. Đó là đảm bảo nguyên tắc tư pháp tách khỏi hành chính thành một ngành độc lập, không một quan cai trị hành chính nào đồng thời có thể là thẩm phán. Các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử được tách biệt và độc lập với nhau. Nguyên tắc mọi công dân bình đẳng trước pháp luật được thiết lập, quyền được bào chữa của các bị cáo được đảm bảo. Nhờ hệ thống toà án này du nhập vào Việt Nam, mô hình toà án tư sản đã có ảnh nhất định đến tư duy tố tụng và cách thức tổ chức hệ thống toà án cho người Việt Nam. Và một hệ thống toà án như vậy đã nhanh chóng được thiết lập sau cách mạng tháng 8/1945 khi Việt Nam đã giành được độc lập.

2.4 Ảnh hưởng của các cơ quan đại diện dân chúng trong thời Pháp thuộc đến ý tưởng tổ chức Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp sau khi Việt Nam giành được độc lập

Trong thời kỳ người Pháp đô hộ Việt Nam, một hệ thống cơ quan đại diện dân chúng được thành lập. Đó là Hội đồng quản hạt Nam Kỳ (Conseil Colonial du Cochinchine) thành lập theo Sắc lệnh ngày 8/2/1880 của Tổng thống Pháp; Uỷ ban tư vấn kỳ hào Bắc Kỳ (Commission Consultative des Notables du Tonkin) thành lập theo Nghị định của Toàn quyền Đông Dương ngày 30/4/1886 và sau đó, ngày 4/5/1907 đổi thành Viện tư vấn bản xứ Bắc Kỳ (Chambre Consultative indigène du Tonkin); Trung kỳ tư vấn Hội đồng thành lập theo Đạo dụ ngày 19/3/1920 của vua Bảo Đại, đến năm 1926 đổi thành Trung Kỳ nhân dân đại biểu viện.

Ngoài các cơ quan đại diện cho dân chúng ở cấp Kỳ còn có cơ quan đại diện cho dân chúng ở cấp tỉnh và thành phố. ở Nam Kỳ, Hội đồng quận được thiết lập theo Sắc lệnh của Tổng thống Pháp ngày 5/8/1889 (Conseil d,Arrondissement). Toàn bộ Nam Kỳ được chia làm 20 quận (theo tên gọi của đơn vị hành chính ở Pháp là Arrondissement), vì vậy Nam Kỳ có 20 Hội đồng quận. ở Bắc Kỳ từ năm 1886 Uỷ ban tư vấn hàng tỉnh được thiết lập (Commission Consultative Provincial) đến năm 1898 đổi thành Uỷ ban tư vấn bản xứ hành tỉnh (Commission Consultative Indigènes Provincial). Nghị định của Thống sứ Bắc Kỳ ngày 19/3/1913 chính thức thành lập Hội đồng hàng tỉnh và các Hội đồng hàng tỉnh ở Bắc Kỳ tồn tại đến năm 1940. ở Trung Kỳ, Hội đồng hàng tỉnh được thiết lập theo Nghị định của Khâm sứ Trung Kỳ năm 1913 (bổ sung, sửa đổi vào các năm 1930, 1935, 1939). Các cơ quan đại diện dân chúng cũng được thành lập tại các thành phố Sài Gòn, Hà Nội, Hải Phòng trong đó chỉ có Sài Gòn là thành phố duy nhất ở Việt Nam có cả hai cơ quan Quyết nghị và Chấp hành đều do bầu cử thành lập nên. Từ năm 1882, ở Sài Gòn đã áp dụng chế độ thị trưởng bầu (Maire élu).

Các cơ quan đại diện dân chúng trong thời kỳ Pháp thuộc phần lớn chỉ mang tính chất hình thức vì chỉ có tầng lớp kỳ hào mới được tham gia bầu cử và ứng cử vào các cơ quan đại diện. Vai trò của các cơ quan đại diện lúc này rất hạn chế vì chỉ có thẩm quyền tư vấn. Các kiến nghị của các cơ quan đại diện chỉ được thực hiện khi được sự đồng ý của đại diện Chính phủ bảo hộ.

Mặc dù có những hạn chế trên đây, nhưng thiết chế cơ quan đại diện cho dân chúng bên cạnh các cơ quan hành chính nhà nước là một thiết chế mới mà nhà nước phong kiến chuyên chế không có. Thiết chế cơ quan đại diện dân chúng đã được nhiều nhà cách mạng yêu nước sử dụng để đòi quyền lợi chính trị cho nhân dân Việt Nam. Thiết chế này đã có ảnh hưởng nhất định đến tư duy tổ chức bộ máy nhà nước hiện đại theo hướng càng ngày càng dân chủ hơn. Sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, nước nhà đã giành được độc lập, những kinh nghiệm dù rất hạn chế của các cơ quan đại diện dân chúng trong thời Pháp thuộc đã giúp cho người dân Việt Nam tổ chức Quốc hội và Hội đồng nhân dân là hệ thống cơ quan dân cử thực sự dân chủ của mình.

2.5 Ảnh hưởng của khoa học pháp lý của Pháp với khoa học pháp lý Việt Nam

Do những ảnh hưởng trên đây, một hệ quả tất yếu là nền khoa học pháp lý Việt Nam, một yếu tốquan trọng trong văn hoá pháp lý Việt Nam, cũng chịu ảnh hưởng của khoa học pháp lý của Pháp vì Việt Nam cũng đã có một lớp luật sư và các nhà khoa học pháp lý có tên tuổi như tiến sĩ, luật sư Phan Văn Trường, luật sư Phan Anh, luật sư Vũ Đình Hoè, giáo sư Nguyễn Ngọc Minh, Vũ Văn Mẫu, Vũ Quốc Thông, Vũ Quốc Thúc… được đào tạo và trưởng thành trong nền văn hoá pháp luật Pháp. Các nhà luật học Việt Nam được đào tạo ở các trường luật của Pháp đã đóng góp vai trò quan trọng trong việc xây dựng Hiến pháp 1946 và các văn bản pháp luật quan trọng khác cho nhà nước Việt Nam trong những năm tháng đầu tiên giành được độc lập, cũng như trong công tác đào tạo các từng lớp cử nhân luật sau này. Sau khi Việt Nam xoá bỏ chế độ hành chính quan liêu, bao cấp chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, hội nhập nền kinh tế quốc tế, hệ thống pháp luật lục địa châu Âu, trong đó có hệ thống pháp luật Pháp lại tiếp tục có những ảnh hưởng nhất định đối với hệ thống pháp luật Việt Nam. Nền khoa học pháp lý của Pháp thông qua Nhà pháp luật Việt - Pháp (La Maison du Droit Vietnamo - Francaise) và nhiều con đường hợp tác khoa học và đào tạo khác nhau lại tiếp tục ảnh hưởng đến nền khoa học pháp lý Việt Nam. /.

SOURCE: TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP ĐIỆN TỬ

Trích dẫn từ: http://www.nclp.org.vn/nha_nuoc_va_phap_luat/van-hoa-phap-luat-phap-va-nhung-anh-huong-toi-phap-luat-o-viet-nam/?searchterm=tố%20tụng

Chủ Nhật, 21 tháng 6, 2009

NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

GS. VS. NGUYỄN DUY QUÍ 

1 - Về phương diện lý luận, nhà nước pháp quyền không phải là một kiểu nhà nước. Nhà nước pháp quyền là giá trị phổ biến, là biểu hiện của một trình độ phát triển dân chủ

Trong ý nghĩa này, nhà nước pháp quyền được nhìn nhận như một cách thức tổ chức nền dân chủ, cách thức tổ chức nhà nước và xã hội trên nền tảng dân chủ. Điều này có nghĩa là nhà nước pháp quyền gắn liền với một nền dân chủ. Tuy không phải là một kiểu nhà nước được xác định theo lý luận về hình thái kinh tế - xã hội, nhưng nhà nước pháp quyền không thể xuất hiện trong một xã hội phi dân chủ.

Sự phủ nhận quan điểm xem nhà nước pháp quyền như một kiểu nhà nước có ý nghĩa nhận thức luận quan trọng trong việc nhìn nhận đúng bản chất của nhà nước pháp quyền. Ý nghĩa nhận thức luận này bao hàm các khía cạnh sau:

- Chỉ từ khi xuất hiện dân chủ tư sản, mới có cơ hội và điều kiện để xuất hiện nhà nước pháp quyền. Do vậy, trên thực tế, nhà nước pháp quyền tư sản đang được tuyên bố xây dựng ở hầu hết các quốc gia tư bản phát triển và đang phát triển.

- Nhà nước pháp quyền, với tính chất là cách thức tổ chức và vận hành của một chế độ nhà nước và xã hội, không những được xây dựng ở chế độ tư bản mà còn được xây dựng ở chế độ xã hội chủ nghĩa. Như vậy, trong nhận thức lý luận cũng như trong thực tiễn, có nhà nước pháp quyền tư sản và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

- Ngoài các giá trị phổ biến, nhà nước pháp quyền còn bao hàm các giá trị đặc thù. Tính đặc thù của nhà nước pháp quyền được xác định bởi nhiều yếu tố. Các yếu tố này, về thực chất, là rất đa dạng, phong phú và phức tạp, được xác định bởi các điều kiện lịch sử, kinh tế, văn hóa, tâm lý xã hội và môi trường địa lý của mỗi dân tộc. Chúng không chỉ tạo ra các đặc sắc, tính riêng biệt của mỗi dân tộc trong quá trình dựng nước, giữ nước và phát triển mà còn quyết định mức độ tiếp thu và dung nạp các giá trị phổ biến của nhà nước pháp quyền. Việc thừa nhận tính đặc thù của nhà nước pháp quyền có ý nghĩa nhận thức luận quan trọng. Với ý nghĩa này, nhà nước pháp quyền là một phạm trù vừa mang tính phổ biến, vừa mang tính đặc thù; vừa là giá trị chung của nhân loại, vừa là giá trị riêng của mỗi dân tộc, quốc gia. Do vậy, không thể có một nhà nước pháp quyền như một mô hình chung, thống nhất cho mọi quốc gia, dân tộc. Mỗi quốc gia, dân tộc, tùy thuộc vào các đặc điểm lịch sử, chính trị, kinh tế - xã hội và trình độ phát triển mà xây dựng cho mình một mô hình nhà nước pháp quyền thích hợp.

2 - Đối với Việt Nam, vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền đang được đặt ra như một tất yếu lịch sử và tất yếu khách quan

Tính tất yếu lịch sử của việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam bắt nguồn từ chính lịch sử xây dựng và phát triển của Nhà nước ta. Ngay từ khi thành lập và trong quá trình phát triển, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã và luôn là một nhà nước hợp hiến, hợp pháp. Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở các quy định của Hiến pháp và pháp luật và luôn vận hành trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Các đạo luật tổ chức Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân và các đạo luật về chính quyền địa phương được xây dựng trên cơ sở các Hiến pháp năm 1946, năm 1959, năm 1980 và năm 1992. Những lần Hiến pháp được sửa đổi và thông qua là những bước củng cố cơ sở pháp luật cho tổ chức và hoạt động của bản thân các cơ quan nhà nước. Vì vậy, có thể nói, quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam là một quá trình lịch sử được bắt đầu ngay từ Tuyên ngôn độc lập năm 1945 và Hiến pháp năm 1946. Quá trình này đã trải qua hơn nửa thế kỷ với nhiều giai đoạn phát triển đặc thù. Ngày nay, quá trình này đang được tiếp tục ở một tầng cao phát triển mới với nhiều đòi hỏi và nhu cầu cải cách mới.

Tính tất yếu khách quan của việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam xuất phát từ định hướng xã hội chủ nghĩa mà mục tiêu cơ bản là xây dựng một chế độ xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Chúng ta ý thức sâu sắc rằng, để xây dựng được một chế độ xã hội có tính mục tiêu như vậy, công cụ, phương tiện cơ bản chỉ có thể là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Tính tất yếu khách quan ấy còn xuất phát từ đặc điểm của thời đại với xu thế toàn cầu hóa. Nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục đẩy mạnh cải cách nhà nước, cải cách pháp luật, bảo đảm cho Nhà nước không ngừng vững mạnh, có hiệu lực để giải quyết có hiệu quả các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, thực hành dân chủ, củng cố độc lập, tự chủ và hội nhập vững chắc vào đời sống quốc tế.

3 - Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở nước ta là một nhà nước vừa phải thể hiện được các giá trị phổ biến của nhà nước pháp quyền đã được xác định trong lý luận và thực tiễn của một chế độ dân chủ hiện đại, vừa phải khẳng định được bản sắc, đặc điểm của riêng mình

Sự khác nhau cơ bản giữa nhà nước pháp quyền tư sản và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nói chung, trong đó có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam nói riêng, đã được các đề tài của Chương trình KX.04 khái quát trên những nét chính sau:

Một là, cơ sở kinh tế của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường không phủ nhận các quy luật khách quan của thị trường, mà là cơ sở để xác định sự khác nhau giữa kinh tế thị trường trong chủ nghĩa tư bản và kinh tế thị trường trong chủ nghĩa xã hội. Do vậy, đặc tính của nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa tạo ra sự khác nhau giữa nhà nước pháp quyền tư sản và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đồng thời tạo ra nét đặc trưng của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Hai là, cơ sở chính trị của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là chế độ dân chủ nhất nguyên. Chế độ dân chủ nhất nguyên là điều kiện cơ bản để tạo ra một đời sống dân chủ có tính thống nhất cao, một hệ thống chính trị thống nhất và là một đòi hỏi có tính nội tại của chế độ nhà nước và chế độ xã hội trong các điều kiện xây dựng chủ nghĩa xã hội. Do vậy, sự nhất nguyên chính trị phải luôn là thuộc tính của nhà nước xã hội chủ nghĩa - một nhà nước đòi hỏi tính thống nhất và tính tổ chức cao trong tổ chức cũng như trong hoạt động của mọi cấu trúc nhà nước để có thể đạt được các mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.

Tính nhất nguyên chính trị được thể hiện trong việc khẳng định vai trò lãnh đạo của một đảng duy nhất cầm quyền ở Việt Nam. Bản chất của một nền dân chủ không lệ thuộc vào chế độ đa đảng hay chế độ một đảng, mà lệ thuộc vào chỗ đảng cầm quyền đại diện cho lợi ích của ai, sử dụng quyền lực nhà nước vào những mục đích gì trên thực tế. Vì vậy, điều kiện để xây dựng nhà nước pháp quyền không thể là chế độ đa đảng hay chế độ một đảng và không thể coi đó là căn cứ để đánh giá tính chất và trình độ của một nền dân chủ. Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản - đảng duy nhất cầm quyền đối với đời sống xã hội và đời sống nhà nước không những không trái với bản chất nhà nước pháp quyền nói chung mà còn là điều kiện có ý nghĩa tiên quyết đối với quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở nước ta.

Ba là, cơ sở xã hội của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Với khối đại đoàn kết toàn dân tộc, nhà nước pháp quyền có được cơ sở xã hội rộng lớn và khả năng to lớn trong việc tập hợp, tổ chức các tầng lớp nhân dân thực hành và phát huy dân chủ.

Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tuy không loại bỏ được sự phân tầng xã hội theo hướng phân hóa giàu, nghèo nhưng có khả năng xử lý tốt hơn mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. Những mâu thuẫn xã hội phát sinh trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường do được điều tiết thông qua pháp luật, chính sách và các công cụ khác của nhà nước nên ít có nguy cơ trở thành các mâu thuẫn đối kháng và tạo ra các xung đột có tính chất chia rẽ xã hội. Đây là một trong những điều kiện để bảo đảm ổn định chính trị, đoàn kết các lực lượng xã hội vì các mục tiêu chung của sự phát triển.

Tính nhất nguyên chính trị và sự lãnh đạo của một đảng duy nhất cầm quyền tạo ra khả năng đồng thuận xã hội, tăng cường khả năng hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau giữa các giai tầng, các cộng đồng dân cư và các dân tộc. Nhờ vậy, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có được sự ủng hộ rộng rãi từ phía xã hội, nguồn sức mạnh từ sự đoàn kết toàn dân, phát huy được sức sáng tạo của các tầng lớp dân cư trong việc thực hành và phát huy dân chủ.

4 - Một số vấn đề về xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật của nước ta hiện nay

Để xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở nước ta hiện nay, một trong những nhiệm vụ quan trọng, cấp thiết là chúng ta phải sớm xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật.

Nhu cầu đổi mới tư duy pháp lý đã được đặt ra và quán triệt trong giai đoạn đấu tranh loại bỏ cơ chế pháp lý của nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp, xây dựng cơ chế pháp lý cho cơ chế kinh tế mới. Ngày nay, một lần nữa nhu cầu đổi mới tư duy pháp lý lại được đặt ra với tính cấp thiết mạnh mẽ, kiên quyết, vượt ra khỏi khuôn khổ có tính truyền thống lâu nay trong việc xây dựng pháp luật và thi hành pháp luật. Tư duy pháp lý mới có thể được phác thảo trên những nét chính sau:

1 - Xác định và quán triệt cơ sở lý thuyết cho mô hình luật pháp nước ta trong giai đoạn phát triển đến 2010 và các giai đoạn tiếp theo. Điều này có nghĩa là chúng ta cần nhanh chóng xác định mô hình luật pháp nước ta được xây dựng theo lý thuyết nào. Dĩ nhiên, chúng ta không thể áp dụng một cách máy móc các mô hình lý thuyết hiện đang được áp dụng ở các quốc gia trên thế giới. Nhưng chúng ta cũng không thể không tính đến sự ảnh hưởng và chi phối của các lý thuyết này đối với sự vận động của đời sống pháp luật hiện đại. Vì vậy, việc nghiên cứu xây dựng các cơ sở lý thuyết cho mô hình luật pháp nước ta cần đặt trong mối quan hệ giữa hai yếu tố: dân tộc và hiện đại.

Cần có các nghiên cứu tổng kết kinh nghiệm lịch sử của các thế hệ người Việt Nam trong tiến trình xây dựng và thực thi các thể chế pháp lý. Các kinh nghiệm làm luật và thi hành luật trong các giai đoạn lịch sử cho thấy, các thế hệ người Việt Nam khá thành công trong việc tiếp thu các giá trị pháp lý nước ngoài, làm nên một bản sắc pháp lý Việt Nam. Xin hãy lấy Quốc triều hình luật thời Lê (Bộ Luật Hồng Đức) để suy ngẫm: Bộ Luật Hồng Đức, theo đánh giá của sử gia Phan Huy Chú, "Thật là cái mẫu mực để trị nước, các khuôn phép để buộc dân". Điều cần nhấn mạnh là, mặc dù chịu ảnh hưởng của tư tưởng pháp lý và các quy tắc pháp luật của Trung Hoa thời phong kiến, nhưng Bộ Luật Hồng Đức vẫn là bộ luật của người Việt Nam, là sản phẩm văn hóa của người Việt Nam, chứ không phải là sự sao chép máy móc pháp luật của nhà Đường hay nhà Minh.

Trong lịch sử, dân tộc ta đã rất thông minh và chủ động trong việc tiếp thu pháp luật nước ngoài để cách tân đất nước. Ngày nay, chúng ta cũng cần tiếp thu có chọn lọc các giá trị pháp luật nước ngoài một cách chủ động và thông minh để tiếp tục củng cố và phát triển đất nước. Tuy nhiên, việc tiếp thu các giá trị và kinh nghiệm pháp luật nước ngoài cần tuân theo ba điều kiện cơ bản: Thứ nhất, tư tưởng của pháp luật du nhập phải tương đồng với ý thức pháp lý đang thống trị ở nước tiếp nhận. Thứ hai, pháp luật du nhập phải tương đồng với cấu trúc, hình thái và phương thức tổ chức quyền lực nhà nước tại quốc gia sở tại. Thứ ba, pháp luật du nhập phải phù hợp với phương thức sản xuất xã hội, phải được số đông thành viên trong xã hội chấp nhận và ủng hộ.

2 - Nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế trong bối cảnh toàn cầu hóa, bảo đảm sự tương thích của pháp luật quốc gia với các không gian pháp lý có tính quốc tế đang đòi hỏi chúng ta phải đẩy mạnh việc đổi mới công tác lập pháp. Việc đổi mới công tác lập pháp có thể khái quát trên một số nét sau:

Một là, đổi mới công tác kế hoạch lập pháp: Kế hoạch làm luật nếu chỉ được tiến hành trên cơ sở đề xuất của các cơ quan hữu quan để tập hợp, cân đối và thông qua sẽ không thể khắc phục được tình trạng không hoàn thành kế hoạch, vì không ít dự án luật được đăng ký theo kiểu "giữ chỗ" và trên thực tế, rất khó xây dựng do chưa xác định được đầy đủ tính chất, mục tiêu, đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh. Sự đăng ký văn bản theo kiểu "ghi danh" đã không ràng buộc một cách chặt chẽ trách nhiệm của cơ quan đề xuất dự luật. Để khắc phục tình trạng này, nên chăng, thay vì xây dựng và thông qua kế hoạch làm luật hằng năm và 5 năm thường lệ, Quốc hội chỉ cần thông qua các sáng kiến pháp luật. Cá nhân, cơ quan (theo quy định của pháp luật) nêu sáng kiến pháp luật có trách nhiệm lập luận các căn cứ về sự cần thiết của mục tiêu, đối tượng cần điều chỉnh và tính khả thi của công tác xây dựng văn bản; trên cơ sở đó, Quốc hội thảo luận, thông qua và giao trách nhiệm xây dựng dự thảo cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân phù hợp.

Hai là, thay đổi quan niệm về quy mô các đạo luật: Thực tiễn làm luật ở nước ta thời gian qua cho thấy, các đạo luật được xây dựng và thông qua phần nhiều đều có dung lượng khá lớn các quy phạm và đối tượng điều chỉnh; phạm vi điều chỉnh cũng khá lớn. Chính sự đầu tư "nhân, tài, vật, lực" cho các đạo luật có quy mô lớn đã làm cho công việc soạn thảo các dự thảo văn bản bị kéo dài, tính chất đồng bộ và thống nhất của dự thảo trong mối quan hệ với các đạo luật khác nhiều khi không được bảo đảm. Đặc biệt, các đạo luật lớn vì phức tạp nên thường phải tranh luận, thảo luận nhiều thời gian mới mong đạt được sự thống nhất các quan điểm và cách thức thể hiện. Do vậy, việc chuẩn bị xây dựng dự thảo tại các ban soạn thảo, thẩm định, thảo luận, chỉnh lý và thông qua tại Quốc hội thường kéo dài. Khoảng cách giữa nhu cầu cấp bách phải điều chỉnh và khả năng điều chỉnh của đạo luật ngày càng xa đã dẫn đến tình trạng, đợi được luật ra đời, cuộc sống đã biến chuyển sang một mức độ phát triển khác. Để khắc phục tình trạng này, thay vì xây dựng và thông qua các đạo luật có quy mô lớn, nên tập trung xây dựng và thông qua các đạo luật có quy mô điều chỉnh hẹp. Một đạo luật với ít các điều khoản sẽ được nhanh chóng xây dựng, đáp ứng kịp thời các nhu cầu điều chỉnh pháp luật, dễ dàng tương thích với các không gian pháp lý quốc tế. Tính hữu ích của một đạo luật ít điều khoản không chỉ thể hiện ở sự gọn nhẹ về nội dung, dễ xây dựng, mà còn thể hiện ở việc dễ kiểm soát tính đồng bộ và thống nhất, dễ sửa đổi khi có nhu cầu và dễ áp dụng trên thực tế.

Ba là, đổi mới cách thức và quy trình thông qua luật: Phong cách làm luật lâu nay của cơ quan lập pháp thể hiện ở các hoạt động thảo luận của các đại biểu Quốc hội, thẩm định của các ủy ban của Quốc hội, giải trình tiếp thu của cơ quan soạn thảo, đã rất khó nâng cao được chất lượng và hiệu quả của đạo luật. Sự thảo luận chủ yếu ở dạng câu chữ đã chiếm khá nhiều thời gian, trong khi nội dung dự thảo lại ít được chú ý. Do vậy, ý kiến thảo luận của đại biểu Quốc hội đối với các dự thảo chất lượng chưa cao. Để khắc phục tình trạng này, trước khi dự thảo luật được đưa ra thảo luận tại Quốc hội, cần tiến hành thẩm định về mặt khoa học bởi các nhóm chuyên gia từ các viện nghiên cứu, các trường đại học với nhiệm vụ đánh giá về phương diện khoa học toàn bộ dự án luật, từ hình thức biểu đạt, cấu trúc đến nội dung các điều luật, nhằm phát hiện ra các lỗi cả về kỹ thuật văn bản, lẫn nội dung văn bản. Sự thẩm định khoa học về dự thảo văn bản do các nhóm chuyên gia thực hiện một cách độc lập vừa là cơ sở để ban soạn thảo chỉnh lý văn bản, vừa là tài liệu tham khảo cho các đại biểu Quốc hội khi thảo luận dự thảo. Mặt khác, để nâng cao chất lượng các đạo luật, quy trình thông qua dự thảo cần được tiến hành theo hai bước: thảo luận, thông qua tại một ủy ban tương ứng của Quốc hội và thảo luận, thông qua tại phiên họp toàn thể của Quốc hội. Như vậy, chỉ khi nào dự thảo được thông qua tại một ủy ban của Quốc hội thì mới được xem xét, thảo luận, thông qua tại Quốc hội. Quy định như vậy không chỉ nêu cao vai trò làm luật của các ủy ban của Quốc hội, mà còn tiết kiệm thời gian làm việc của Quốc hội, nâng cao hiệu quả của đạo luật.

Bốn là, tăng cường lắng nghe ý kiến nhân dân đóng góp xây dựng các dự thảo luật: Các dự thảo luật một khi được xây dựng ngắn gọn, ít điều khoản sẽ rất dễ dàng cho nhân dân tiếp cận. Sự tham gia đóng góp ý kiến xây dựng pháp luật của đông đảo các tầng lớp nhân dân là điều kiện quan trọng để pháp luật phản ánh đúng ý chí, nguyện vọng của nhân dân, bảo đảm cho pháp luật thật sự là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Cần quy định, việc lấy ý kiến của nhân dân (chứ không chỉ là lấy ý kiến của các cơ quan, tổ chức hay của một số cán bộ) đối với các dự án luật là điều kiện bắt buộc trong quá trình xây dựng dự thảo. Đặc biệt, việc tiếp thu ý kiến của nhân dân vào các dự thảo (tiếp thu ý kiến nào, không tiếp thu ý kiến nào, vì sao) phải được thông báo công khai và minh bạch. Có như vậy, nhân dân mới cảm thấy ý kiến của mình được tôn trọng và mặt khác, mới củng cố niềm tin của họ vào luật pháp.

SOURCE: TẠP CHÍ CỘNG SẢN SỐ 96 NĂM 2005

Bài đăng phổ biến