Thứ Năm, 14 tháng 8, 2008

THỰC TRẠNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP VỀ TRẢ LƯƠNG QUA TÀI KHOẢN

imagePHẠM THỊ ÁNH HÒA - Ban Thanh toán Ngân hàng nhà nước Việt Nam

1. N hững thành tựu đạt được

Cùng với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, việc hạn chế sử dụng tiền mặt, phát triển các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt nhằm đáp ứng tốt các yêu cầu của nền kinh tế, cũng như phù hợp với các chuẩn mực quốc tế trong hoạt động ngân hàng là những mục tiêu mà hệ thống Ngân hàng Việt Nam đang hướng tới. Để đẩy mạnh công tác thanh toán không dùng tiền mặt thì biện pháp cấp thiết đầu tiên là thực hiện trả lương qua tài khoản mà giai đoạn đầu của Đề án trả lương qua tài khoản là thực hiện trả lương qua tài khoản cho các đối tượng hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Do đây là đối tượng tiên phong làm hình mẫu cho xã hội hình thành thói quen sử dụng tài khoản ngân hàng để giao dịch thanh toán trên cơ sở công nghệ mới tiên tiến, đặt nền móng thúc đẩy phát triển thanh toán không dùng tiền mặt. Mặt khác, việc áp dụng thanh toán không dùng tiền mặt sẽ góp phần hạn chế các giao dịch bất hợp pháp, tăng cường sự quản lý nhà nước đối với các chi tiêu tài chính từ ngân sách và vốn nhà nước, triển khai thực hiện Luật Phòng chống tham nhũng, Luật thực hành tiết kiệm chống lãng phí cũng như Nghị quyết của Đảng về phòng, chống tham nhũng.

Trên tinh thần đó, ngày 24/8/2007 Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Chỉ thị 20/2007/CT-TTg về việc trả lương qua tài khoản cho các đối tượng hưởng lương từ ngân sách nhà nước (Chỉ thị 20). Sau 6 tháng triển khai thực hiện Chỉ thị 20 đã được một số kết quả khả quan như sau:

Sự hưởng ứng tích cực của xã hội tạo điều kiện triển khai rộng khắp toàn quốc, đạt được kết quả khả quan, đặc biệt là tại TP Hà Nội và TP Hồ Chí Minh

Phần lớn các đối tượng thực hiện trả lương qua tài khoản là những người hưởng lương từ ngân sách nhà nước hiện đang làm việc trong các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội… Do đó, các đối tượng này đã tích cực hưởng ứng và là những người gương mẫu đi đầu trong việc nghiêm túc thực hiện Chỉ thị của Thủ tướng để người dân noi theo, làm nền tảng cho việc thúc đẩy phát triển thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế.

Việc triển khai Chỉ thị 20 còn nhận được sự phối hợp, đồng bộ giữa các Bộ, ngành, UBND và ngành Ngân hàng nên khá thuận lợi. Đồng thời việc trả lương qua tài khoản (mà chủ yếu là thực hiện qua ATM) được tập trung tiến hành ở TP Hà Nội, TP Hồ Chí Minh và một số thị xã, thành phố, nơi đã lắp đặt nhiều máy ATM, là điều kiện thuận lợi cho việc triển khai thực hiện Chỉ thị. Cụ thể:

- Thành phố Hà Nội*:

Theo báo cáo của các NHTM đã gửi về NHNN Chi nhánh TP Hà Nội thì trên địa bàn thành phố số đơn vị hưởng lương từ ngân sách nhà nước đã trả lương qua tài khoản tính đến hết ngày 31/12/2007 là 529 đơn vị và đến 6/2008 tăng lên và đạt 1.660 đơn vị (chiếm tỷ trọng 64% trong tổng số 2.586 đơn vị sử dụng ngân sách trên địa bàn); số tài khoản nhận lương NSNN tại các NHTM tính đến hết ngày 31/12/2007 là 71.682 tài khoản và đến 6/2008 thì lên đến 139.666 tài khoản - tăng 67.984 tài khoản (tỷ lệ tăng 95%). Tính chung ở Hà Nội số máy ATM đến ngày 31/12/2007 có 949 máy chủ yếu tập trung tại các quận nội thành, các trung tâm kinh tế, thương mại, khu công nghiệp và đến 6/2008 là 1.145 máy - tăng 196 máy (tỷ lệ tăng 21%); số máy POS đến ngày 31/12/2007 là 5.596 máy và đến 6/2008 là 6.489 máy - tăng 893 máy (tỷ lệ tăng 16%). Kết quả đã đạt được bước đầu trong 6 tháng vừa qua tại Thành phố Hà Nội là rất đáng khích lệ.

+ Thành phố Hồ Chí Minh*:

Theo báo cáo của NHNN Chi nhánh TP.HCM thì trên địa bàn thành phố số đơn vị hưởng lương từ ngân sách nhà nước đã trả lương qua tài khoản tính đến hết ngày 31/12/2007 là 605 đơn vị và đến 6/2008 có 2.348 đơn vị (chiếm tỷ trọng 79% trong tổng số 2.963 đơn vị sử dụng ngân sách trên địa bàn); số tài khoản nhận lương NSNN tính đến tháng 6/2008 theo thống kê chưa đầy đủ vào khoảng 142.630 tài khoản. Số máy ATM đến ngày 31/12/2007 có 1.261 máy và đến 6/2008 có 1.572 máy - tăng 311 máy (tỷ lệ tăng 25%); số máy POS đến ngày 31/12/2007 là 7.169 máy và đến 6/2008 là 8.339 máy - tăng 1.170 máy (tỷ lệ tăng 16%).

- Tại 62/63 tỉnh, thành phố khác trực thuộc trung ương: mặc dù chưa phải là các địa phương trọng điểm thực hiện Chỉ thị 20 trong giai đoạn 1 của lộ trình nhưng các tỉnh cũng đã rất tích cực xây dựng kế hoạch triển khai, UBND tỉnh cũng đã quan tâm chỉ đạo các đơn vị liên quan để thực hiện tốt Chỉ thị 20, đồng thời các đối tượng hưởng lương từ ngân sách nhà nước cũng sẵn sàng đón nhận hình thức trả lương qua tài khoản tại các TCCUDVTT.

Người sử dụng dịch vụ trả lương qua tài khoản được hưởng nhiều tiện ích mới

Nhìn chung, các đơn vị hưởng lương từ NSNN sau khi được Bộ Tài chính, Kho bạc Nhà nước hướng dẫn cụ thể về kỹ thuật nghiệp vụ kế toán, hạch toán phí dịch vụ thanh toán cũng như đã được NHNN cung cấp thông tin ban đầu về năng lực cung ứng dịch vụ trả lương qua tài khoản của các TCCUDVTT đã có nhận thức rõ ràng về trách nhiệm triển khai trả lương qua tài khoản. Các đơn vị này còn được các TCCUDVTT tích cực quảng cáo và hướng dẫn với nhiều hình thức để cung cấp dịch vụ trả lương qua tài khoản giúp tiết kiệm được thời gian, nhân lực trong quản lý ngân quỹ và chi trả lương. Sau một thời gian sử dụng, nhiều cán bộ công nhân viên đã thấy được tiện lợi và lợi ích của việc sử dụng tài khoản cá nhân và thẻ thanh toán: người lĩnh tiền lương qua tài khoản thông qua việc rút tiền từ ATM được tiếp cận công nghệ mới văn minh, hiện đại; chủ động hơn trong việc chi tiêu khi tiền lương đã được chuyển vào tài khoản; cán bộ đi công tác ở tỉnh, thành phố khác có thể giảm bớt việc phải mang tiền mặt nhiều theo người...Tiền lương khi chưa rút còn được hưởng lãi suất tiền gửi theo quy định, ngoài ra người hưởng lương còn được hưởng các dịch vụ thanh toán tiện ích khác như chuyển tiền, thanh toán tiền điện, nước, điện thoại, dùng thẻ để mua sắm hàng hoá, dịch vụ ở các điểm chấp nhận thẻ (POS).

Tạo cơ hội đầu tư phát triển kinh doanh dịch vụ thu hút khách hàng của các TCCUDVTT được mở rộng

Việc ban hành Chỉ thị 20 là cơ hội tốt cho các TCCUDVTT phát triển thêm khách hàng, hầu hết các TCCUDVTT đều xác định trong thời gian hiện nay việc mở tài khoản và chi trả lương qua tài khoản cho khách hàng chủ yếu là nhằm mục đích mở rộng mạng lưới khách hàng và tạo thói quen sử dụng tài khoản tiền gửi tại ngân hàng từ đó làm cơ sở phát triển dịch vụ thanh toán đa tiện ích không dùng tiền mặt để đa dạng hoá các loại hình dịch vụ kinh doanh, từng bước gia tăng thu nhập trong tương lai.

Cho đến nay các TCCUDVTT, tuỳ thuộc vào chiến lược kinh doanh và năng lực cung ứng thực tế, đã cố gắng đầu tư lắp đặt thêm nhiều máy ATM tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh cũng như các tỉnh, thành phố khác trực thuộc trung ương; xây dựng kế hoạch cung ứng dịch vụ trả lương qua tài khoản, tích cực triển khai tiếp cận, tuyên truyền quảng bá tới các đối tượng khách hàng cho dù không ít tỉnh, thành phố chưa bắt buộc phải triển khai trả lương qua tài khoản từ 1/1/2008 theo lộ trình của Chỉ thị 20 (biểu số liệu về ATM và POS của các TCCUDVTT đính kèm).

Các TCCUDVTT đã triển khai cung ứng thêm nhiều sản phẩm dịch vụ tiện ích cho khách hàng như: dịch vụ thanh toán lương tự động, home banking, thấu chi tài khoản, Internet banking, thanh toán hoá đơn (điện, nước, điện thoại…) v.v…Cụ thể: ngoài các dịch vụ cơ bản như rút tiền, vấn tin, in sao kê tài khoản, chuyển khoản, đổi PIN, một số TCCUDVTT như Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam, Ngân hàng Công thương Việt Nam, NHTMCP Ngoại thương Việt Nam đã và đang triển khai thêm một số dịch vụ như chuyển tiền vào tài khoản tiền gửi tiết kiệm trực tiếp trên máy ATM; in sao kê, phát hành sổ séc và gần đây nhất là dịch vụ thanh toán hoá đơn của Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam kết hợp với Tập đoàn Điện lực Việt Nam EVN… Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã triển khai dịch vụ chấp nhận thanh toán thẻ qua 70 thiết bị chấp nhận thẻ (EDC) tại quầy giao dịch như rút tiền, chuyển khoản, in sao kê, nộp tiền vào tài khoản tiền gửi phát hành thẻ để giảm bớt áp lực cho các chi nhánh chưa được trang bị máy ATM.

Ngày 23/5/2008, với sự chỉ đạo tích cực của NHNN, hai liên minh thẻ lớn nhất toàn quốc Smartlink và Banknetvn đã tiến hành khai trương việc kết nối thành công mạng ATM của 5 ngân hàng thành viên: Ngoại thương, Công thương, Đầu tư & PTVN, Nông nghiệp & PTNT, Kỹ thương. Số lượng giao dịch qua ATM tăng mạnh trên cả 2 hệ thống, số lượng giao dịch lỗi chiếm tỷ lệ tương đối nhỏ và đều đã được phát hiện xử lý kịp thời. Theo phản ánh của khách hàng và báo cáo của các chi nhánh NHNN tỉnh, thành phố, báo cáo của một số TCCUDVTT, hầu hết các khách hàng đều ghi nhận việc kết nối mạng ATM của 2 liên minh là thuận tiện và cảm thấy hài lòng khi khả năng lựa chọn sử dụng ATM của các ngân hàng được gia tăng, nhất là vào thời gian cao điểm, hạn chế được phần nào tình trạng chờ đợi và ùn tắc.

Đạt được những kết quả khả quan nêu trên là do:

Một là: Việc ban hành Chỉ thị 20 là một chủ trương đúng đắn, phù hợp yêu cầu thúc đẩy hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt giúp phát triển, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn trong nền kinh tế, đồng thời tăng cường sự quản lý nhà nước đối với các chi tiêu tài chính từ ngân sách và vốn nhà nước đi đôi với thực hành tiết kiệm phòng chống tham nhũng trên cơ sở minh bạch hoá một phần chi tiêu ngân sách và thu nhập cá nhân. Do đó, Chỉ thị đã được các ngành, các cấp hưởng ứng tích cực, triển khai khá mạnh mẽ.

Hai là: Từ những lợi ích thiết thực của việc trả lương qua tài khoản đem lại cho các tổ chức và cá nhân sử dụng dịch vụ thông qua thanh toán thẻ là một phương tiện thanh toán văn minh, hiện đại, các đối tượng thuộc phạm vi điều chỉnh của Chỉ thị 20 đã đồng tình, hưởng ứng, nghiêm chỉnh chấp hành chỉ đạo của cấp trên.

Ba là: Sự tích cực, chủ động của hệ thống ngân hàng (NHNNTW và các chi nhánh, các TCCUDVTT) trong việc triển khai thực hiện Chỉ thị 20 có sự phối hợp chặt chẽ của các Bộ, ngành liên quan, đặc biệt là Bộ Tài chính (Tổng cục Thuế, Kho bạc Nhà nước), Bộ Thông tin & Truyền thông...

Bốn là: Mạng lưới cơ sở hạ tầng ATM của các TCCUDVTT bước đầu đã được hình thành rộng khắp trên toàn quốc, đặc biệt tập trung tại những thành phố lớn đang và sẽ được tiếp tục đầu tư củng cố, phát triển tạo nền tảng cho việc cung ứng dịch vụ trả lương qua tài khoản. Bên cạnh đó, các TCCUDVTT không ngừng tăng cường nâng cao chất lượng dịch vụ và gia tăng các tiện ích thanh toán không dùng tiền mặt đi đôi với sử dụng thẻ.

Có thể nói, việc ban hành Chỉ thị 20 là một chủ trương đúng đắn nhằm hạn chế sử dụng tiền mặt trong nền kinh tế, thúc đẩy phát triển thanh toán không dùng tiền mặt. Trong quá trình triển khai đã nhận được sự đồng thuận của xã hội, sự phối hợp chặt chẽ giữa các đơn vị liên quan đồng thời đối tượng hưởng lương từ ngân sách nhà nước cũng sẵn sàng đón nhận hình thức trả lương qua tài khoản tại các TCCUDVTT đã tạo điều kiện để triển khai thực hiện Chỉ thị 20 được thuận lợi. Do đó, chúng ta hoàn toàn có cơ sở để tin tưởng rằng với việc vào cuộc của các cấp, các ngành, sự ủng hộ mạnh mẽ của nhân dân và đặc biệt là các đối tượng hưởng lưong từ ngân sách nhà nước thì việc thực hiện Chỉ thị trên sẽ đem lại những kết quả khả quan.

2. Khó khăn, vướng mắc và một số giải pháp thực hiện trả tiền lương qua tài khoản

Qua 6 tháng triển khai thực hiện trả lương qua tài khoản cho các đối tượng hưởng lương từ ngân sách nhà nước đã đạt được những kết quả khả quan bước đầu. Tuy nhiên, nhìn chung đây là một sự thay đổi thói quen trong việc nhận lương, nên người nhận lương có tâm lý e ngại, bên cạnh đó tiền lương của các đối tượng hưởng lương ngân sách còn thấp nên việc trả lương qua tài khoản hiệu quả chưa cao. Về phía ngân hàng, bên cạnh những nỗ lực, cố gắng, ngành Ngân hàng còn hạn chế về vốn và nhân lực... Đặc biệt, một số tỉnh mặc dù chưa đến thời điểm bắt buộc triển khai hoặc chưa đủ điều kiện về hạ tầng kỹ thuật đã triển khai gây bất cập trong việc đáp ứng hạ tầng kỹ thuật của các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán (TCCUDVTT) và bất tiện cho người nhận lương. Bài viết này xin đề cập đến một số khó khăn chủ yếu và từ những lý do đó để đưa ra các giải pháp nhằm thực hiện chủ trương trả lương qua tài khoản.

* Những khó khăn, vướng mắc

Một là, một số nơi nhận thức về tinh thần Chỉ thị 20 về đối tượng và lộ trình áp dụng chưa thật chính xác đầy đủ, Chỉ thị 20 chỉ áp dụng đối với các đối tượng hưởng lương từ NSNN, còn cán bộ hưu trí hưởng lương hưu từ BHXH không thuộc phạm vi điều chỉnh của Chỉ thị này.

Tương tự đối với người lao động, công nhân viên của các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, các cá nhân khác nhận lương qua tài khoản là hoàn toàn mang tính chất thoả thuận tự nguyện cũng không thuộc đối tượng điều chỉnh của Chỉ thị 20. Việc trả lương qua tài khoản cho các đối tượng lao động này là do doanh nghiệp sử dụng lao động mở tài khoản trả lương cho người lao động thoả thuận với TCCUDVTT trên cơ sở được sự đồng ý của các đối tượng nhận lương ở các doanh nghiệp. Tuy nhiên, ở một số khu công nghiệp, cụm công nghiệp, có hiện tượng áp dụng trả lương qua tài khoản ồ ạt, không tính đến khả năng đáp ứng của cơ sở hạ tầng (máy ATM).

Một số địa phương chưa thuộc lộ trình triển khai giai đoạn 1 của Chỉ thị 20, chưa có đủ các điều kiện về công nghệ (khả năng cung ứng của các TCCUDVTT) nhưng vẫn làm ồ ạt theo phong trào.

Hai là, các TCCUDVTT chưa chuẩn bị kịp các điều kiện cơ sở hạ tầng: Số máy ATM mặc dù đã tăng lên đáng kể, nhưng vẫn chưa đáp ứng đủ cho người sử dụng, tần suất phục vụ khách hàng tăng cao nhưng chất lượng phục vụ khách hàng của các TCCUDVTT còn một số hạn chế, như: chưa đảm bảo việc bảo trì, bảo dưỡng mạng truyền thông, tiếp quỹ tiền mặt chưa kịp thời cho máy ATM dẫn đến các hiện tượng quá tải, hết tiền, máy hỏng, máy bị trục trặc chậm xử lý, máy chập điện, kém an toàn, bảo mật thấp… nhất là trong các thời gian cao điểm. Trong khi đó, nhiều tổ chức, cơ quan sử dụng dịch vụ yêu cầu lắp đặt ATM riêng cho đơn vị mình, gây sức ép đầu tư vượt quá khả năng của các TCCUDVTT.

Một số TCCUDVTT đã tiến hành quảng bá và tiếp thị vượt quá khả năng cung ứng dịch vụ của mình, quá nghiêng về tăng số lượng phát hành thẻ. Trong khi đó, việc tổ chức hướng dẫn, tư vấn chưa đầy đủ, cụ thể cho khách hàng; chưa tạo điều kiện thuận lợi và hướng dẫn khách hàng về khả năng rút tiền lương và giao dịch không chỉ qua ATM mà có thể tại các điểm giao dịch của ngân hàng phục vụ. Việc giải quyết các thắc mắc khiếu nại của khách hàng cũng còn chậm, phải qua nhiều thủ tục. Hiện nay, nhiều máy ATM mới chỉ cho phép sử dụng một số chức năng như: rút tiền, vấn tin, in sao kê giao dịch, chưa thực hiện được chuyển khoản và các tiện ích khác, do đó cũng làm cho tính tiện dụng của thẻ ATM bị hạn chế.

Công tác thông tin, tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn cho người sử dụng chưa đầy đủ, chu đáo: Việc thông báo cho khách hàng biết sau thời điểm kết nối giữa Banknetvn và Smartlink chưa đầy đủ và kịp thời để khách hàng có thể linh hoạt rút tiền ở máy ATM thuộc các ngân hàng khác cùng tham gia liên minh.

Hiệu quả của việc thực hiện trả lương qua tài khoản đối với thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt chưa cao vì tiền chuyển vào tài khoản hôm trước thì hôm sau khách hàng đã rút ra phần lớn, vì vậy lượng tiền mặt giao dịch trong thực tế không giảm mà chỉ chuyển từ Kho bạc Nhà nước sang các TCCUDVTT.

Nguyên nhân của những khó khăn, vướng mắc:

Một là, tâm lý, thói quen sử dụng tiền mặt trong xã hội đã thành nếp, thời gian qua tuy đã có thay đổi nhưng chưa thành phổ biến.

Hai là, công tác thông tin, tuyên truyền chưa đầy đủ, toàn diện đến các cấp, các ngành và địa phương. Một số phương tiện thông tin đại chúng đôi khi tập trung quá mức vào việc phản ánh những lỗi kỹ thuật của hệ thống ATM hoặc một số hiện tượng cụ thể không có tính phổ biến, có phần làm cho công chúng hiểu không đầy đủ, thậm chí hiểu nhầm tinh thần Chỉ thị 20.

Ba là, khả năng về đầu tư cơ sở hạ tầng của các TCCUDVTT phục vụ cho dịch vụ trả lương qua tài khoản còn nhiều hạn chế mặc dù đã hết sức cố gắng (hạn chế về vốn đầu tư vào máy ATM, hạn chế về chất lượng đường truyền, các chi phí tiếp quỹ, chi phí nhân lực, các điểm POS còn rất ít v.v…). Về mặt chủ quan, một số TCCUDVTT quan tâm chăm sóc khách hàng sử dụng dịch vụ ATM chưa tốt, xử lý chưa kịp thời các vướng mắc cho khách hàng.

Bốn là, việc chỉ đạo thực hiện Chỉ thị 20 chưa đồng bộ, chưa giảm đáng kể lượng sử dụng tiền mặt, chưa phát triển mạnh các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt trong dân cư... Công tác chỉ đạo triển khai thực hiện Chỉ thị 20 chưa triệt để, sát sao, việc tham mưu cho chính quyền địa phương của một số NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố chưa thận trọng và thiếu tính thực tế.

Năm là, tính đồng bộ chưa cao trong việc phối hợp giữa ngân hàng, người hưởng lương, các tập đoàn bán lẻ, các đơn vị bán hàng, cung ứng dịch vụ để đưa ra các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt phù hợp cùng với việc triển khai thực hiện Chỉ thị.

* Định hướng và các giải pháp cần triển khai nhằm thực hiện tốt Chỉ thị 20

Định hướng

Ngân hàng Nhà nước (TW và các chi nhánh địa phương) và các TCCUDVTT tiếp tục bám sát lộ trình trả lương qua tài khoản của Chỉ thị 20 trên cơ sở phát huy những mặt được, khắc phục những mặt chưa được; đặt trọng tâm vào chất lượng triển khai, bảo đảm tính vững chắc của việc thực hiện chủ trương của Chính phủ. Tiếp tục chú trọng chỉ đạo triển khai tại các địa bàn trọng tâm của giai đoạn 1 là Hà Nội, TP Hồ Chí Minh và những nơi có khả năng đáp ứng thuận lợi nhất. Trên cơ sở đó, rút kinh nghiệm mở dần ra các địa bàn khác khi các điều kiện cơ sở hạ tầng kỹ thuật được thiết lập.

Giải pháp

Để tạo điều kiện cho người lao động nhận lương qua tài khoản được thuận lợi với góc độ là cơ quan quản lý Nhà nước, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tiếp tục có những biện pháp tích cực và đồng bộ để khắc phục những hạn chế trong việc triển khai dịch vụ trả lương qua tài khoản như:

-  Ngân hàng Nhà nước

a) Tổ chức theo dõi sát sao tình hình triển khai Chỉ thị 20 tại các tỉnh, thành phố; đặc biệt tại Hà Nội và TP Hồ Chí Minh, chỉ đạo khắc phục các hạn chế và xử lý kịp thời các vướng mắc nảy sinh. Trước mắt, xúc tiến khẩn trương việc kết nối các liên minh thanh toán thẻ, tiến tới thống nhất mạng thanh toán thẻ trong toàn ngành; đi đôi với việc tiến hành kết nối với hệ thống POS của các TCCUDVTT và các nhà cung ứng hỗ trợ dịch vụ thanh toán.

b) Phối hợp chặt chẽ với Bộ Thông tin và Truyền thông và các cơ quan thông tấn báo chí đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quảng bá rộng rãi về dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt của TCCUDVTT nói chung và dịch vụ trả lương qua tài khoản nói riêng và các tiện ích của thẻ ngân hàng, cập nhật thông tin chính xác, đầy đủ và khách quan, đúng tinh thần chỉ đạo của Chỉ thị.

c) Nghiên cứu phối hợp với các Bộ, ngành liên quan chỉ đạo các TCCUDVTT phát triển các loại hình dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt trong mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, mở rộng tính năng sử dụng của thẻ thanh toán. Phối hợp với các nhà cung cấp đưa ra giải pháp hỗ trợ dịch vụ thanh toán, đại lý chấp nhận thẻ để tạo tiện ích cho khách hàng. Xây dựng chính sách giá cả dịch vụ hợp lý đối với khách hàng sử dụng thẻ.

d) Tăng cường hợp tác với các cơ quan chức năng và chỉ đạo các TCCUDVTT có các biện pháp tăng cường ngăn ngừa, phòng, chống tội phạm trong hoạt động kinh doanh thẻ, đảm bảo an ninh, an toàn tại địa điểm đặt máy ATM nhằm bảo vệ quyền lợi cho khách hàng và giảm thiểu tổn thất cho các TCCUDVTT.

đ) Phối hợp với Bộ Tài chính trong việc ban hành các chính sách đãi ngộ về thuế để khuyến khích thực hiện giảm giá hàng hoá dịch vụ cho các đối tượng thanh toán không dùng tiền mặt và hỗ trợ việc phát triển cung ứng dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt của các TCCUDVTT, tiến tới mở rộng diện thu chi ngân sách qua tài khoản tại ngân hàng.

- Các Tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán

a) Rà soát đánh giá lại năng lực cung ứng thực tế của tổ chức mình theo tinh thần: có khả năng thực sự đến đâu, thực hiện cung ứng dịch vụ trả lương đến đó.

b) Tiếp tục nâng cấp cơ sở hạ tầng và chất lượng phục vụ của mạng lưới ATM, POS cũng như các điểm giao dịch.

- Các ngân hàng tiếp tục triển khai lắp đặt thêm máy ATM và phát triển thêm nhiều điểm chấp nhận thẻ (POS) trên cả nước để đáp ứng nhu cầu thanh toán không dùng tiền mặt của các khách hàng sử dụng thẻ và yêu cầu triển khai Chỉ thị 20 theo lộ trình quy định.

- Chủ động hợp tác với các đơn vị cung ứng dịch vụ sinh hoạt thường kỳ như: công ty điện, nước, điện thoại,…để tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng trả tiền dịch vụ bằng thẻ và các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt khác. Chủ động phối hợp với các đơn vị cung ứng dịch vụ (nhà hàng, siêu thị, công ty bán lẻ...) để phát triển các điểm chấp nhận thẻ (POS); phát triển các tiện ích thanh toán thuận lợi gắn với việc nhận lương qua tài khoản bên cạnh dịch vụ thẻ qua ATM.

- Nâng cao chất lượng của các dịch vụ, các tiện ích của máy ATM, bảo đảm cho các máy ATM hoạt động liên tục, bố trí đội ngũ bảo trì, bảo dưỡng cho các máy ATM, xử lý kịp thời lỗi hỏng hóc của máy, đường truyền, tiếp quỹ tiền mặt cho các máy.

- Giải quyết các thắc mắc, khiếu nại của khách hàng kịp thời, đơn giản các thủ tục. Phối hợp chặt chẽ giữa các ngân hàng liên quan trong liên minh kết nối để thực hiện tra soát ngay các giao dịch của khách hàng không rút được tiền nhưng vẫn trừ tiền vào tài khoản cũng như sớm khắc phục những trục trặc khác.

c) Làm tốt hơn công tác tuyên truyền, hướng dẫn: Đẩy mạnh công tác tuyên truyền để khách hàng hiểu rằng người có thẻ không chỉ dùng thẻ giao dịch qua máy ATM để rút lương mà còn có thể giao dịch tại các chi nhánh, phòng giao dịch của các ngân hàng để khắc phục hiện tượng ATM bị quá tải. Đồng thời bố trí cán bộ hướng dẫn, tư vấn rõ ràng, cụ thể hơn cho khách hàng thực hiện các thao tác giao dịch nhận lương qua tài khoản; tăng cường tiếp thị và quảng bá đúng khả năng cung ứng dịch vụ thanh toán đến các đối tượng phải thực hiện trả lương qua tài khoản.

Các Bộ, ngành, UBND các tỉnh, thành phố

a) Các Bộ, ngành cần có sự chỉ đạo mang tính thống nhất theo hệ thống của mình đảm bảo triển khai Chỉ thị 20 theo đúng lộ trình, đồng thời chú ý khả năng đáp ứng về cơ sở hạ tầng kỹ thuật của các TCCUDVTT. Phối hợp đồng bộ với NHNN và các TCCUDVTT cũng như các nhà cung cấp giải pháp hỗ trợ dịch vụ thanh toán đảm bảo tính hiệu quả, tiện ích và an toàn cho người hưởng lương.

b) UBND các tỉnh, thành phố quán triệt đúng tinh thần Chỉ thị 20, thực hiện theo đúng lộ trình và có sự chỉ đạo cụ thể theo sự tham mưu của chi nhánh NHNN tỉnh, thành phố và tình hình thực tế tại địa phương. Xác định rõ trách nhiệm của các đơn vị có liên quan; tổ chức triển khai thí điểm, rút kinh nghiệm trước khi triển khai theo diện rộng.

Đây là các giải pháp mang tính thực tiễn và thiết thực, để chủ trương trả lương qua tài khoản và hạn chế tiền mặt đi vào cuộc sống của người dân, tránh gây nên những xáo trộn về mặt xã hội đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ và đồng bộ giữa các Bộ, ngành, các đơn vị liên quan và các đối tượng hưởng lương từ ngân sách nhà nước từ đó đẩy mạnh công tác thanh toán không dùng tiền mặt, tăng hiệu quả sử dụng nguồn vốn trong nền kinh tế.


* Số liệu ATM, POS lấy từ nguồn của các TCCUDVTT.

Số liệu các đơn vị hưởng lương ngân sách và số tài khoản lấy từ nguồn chi nhánh NHNN các tỉnh, thành (một số TCCUDVTT chưa tách giữa đối tượng HLNS và đối tượng khác nên số liệu không chính xác).

SOURCE: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

Trích dẫn từ: http://www.sbv.gov.vn/vn/home/tinnghiencuu.jsp?tin=533

Thứ Tư, 13 tháng 8, 2008

GIÁ CẢ TÀI SẢN, LẠM PHÁT VÀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ

PGS.TS. SỬ ĐÌNH THÀNH

Bài viết tập trung nghiên cứu cơ chế truyền dẫn của chính sách tiền tệ ảnh hưởng đến nền kinh tế thông qua giá cả các loại tài sản khác bên cạnh kênh lãi suất. Trên cơ sở phác họa và nhấn mạnh tầm quan trọng cơ chế truyền dẫn tiền tệ vận hành thông qua giá cả chứng khoán, giá cả bất động sản và tỷ giá hối đoái ảnh hưởng đến quyết định tiêu dùng và đầu tư của doanh nghiệp và hộ gia đình, bài viết đề xuất các khuyến nghị đổi mới cơ chế điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước VN nhằm hướng đến mục tiêu kiểm soát lạm phát.

1. Dẫn nhập

Kể từ sau cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ năm 1997, điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước VN gặt hái được nhiều thành công đáng kể trong kiểm soát lạm phát và ổn định tiền tệ, tạo đà cho kinh tế tăng trưởng nhanh. Tiếp đến, việc gia nhập vào WTO năm 2007 và sự gia tăng dòng vốn đầu tư trực tiếp (FDI) mới và dòng vốn gián tiếp (FII) nêu bật tiến trình cải cách kinh tế đầy ấn tượng của VN, đặc biệt trong lĩnh vực tự do hóa thương mại và đầu tư. Kết quả là, kinh tế tăng trưởng mạnh, bình quân 7,5% GDP/năm qua 10 năm, một trong tỷ lệ cao nhất trong khu vực Châu á.

Bảng 1: Tốc độ tăng trưởng GDP của VN 1997 -2007 (%)

image

Nguồn: Niên giám thống kê qua các năm.

Thành quả kinh tế đạt được rất đáng khích lệ, nhưng đồng thời xuất hiện các dấu hiệu cho thấy nền kinh tế đang bị đun nóng, đe dọa tăng trưởng kinh tế bền vững trong thời gian tới. Sự gia tăng mất cân bằng trong nước và ngoài nước là vấn đề rất quan tâm. Tín dụng gia tăng đáng kể trong năm 2006 trên 50%, góp phần làm gia tăng tỷ lệ lạm phát. Giá cả bất động sản trong các thành phố lớn cũng tăng lên nhanh. Trong khi xuất khẩu tiếp tục tăng lên, nhưng sức ép nhu cầu nhập khẩu tăng rất mạnh, dẫn đến ngày càng mở rộng thâm hụt thương mại. Ước tính sơ bộ thâm hụt tài khoản vãng lai lên đến 10% GDP trong năm 2007 và phải viện đến nguồn vốn FDI, ODA và kiều hối để tài trợ sự thâm hụt này. Sự suy thoái của nền kinh tế Mỹ và châu Âu, thị trường xuất khẩu lớn nhất của VN, đã đặt nền kinh tế phải đương đầu 2 thách thức mới: (i) Liệu có thể duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế ở mức 9% như kế hoạch Chính phủ đề ra hay không? (ii) Mức thâm hụt cán cân vãng lai tiếp tục mở rộng, vì thế sẽ gia tăng tổn thương cho nền kinh tế từ cú sốc bên ngoài.

Bảng 2: Nợ tín dụng trong nước 2004 -2007 (thay đổi % qua các năm)

image

Nguồn: Ngân hàng Nhà nước VN

Bảng 3: Mức nhập siêu của VN giai đoạn 2001 - 2007 (Triệu đô la)

image

Nguồn: Niên giám thống kê qua các năm

Từ thực trạng trên, Chính phủ đã đưa ra 19 giải pháp để kiểm soát lạm phát và phát triển thị trường chứng khoán, trong đó riêng về chính sách tiền tệ tập trung các giải pháp:

“…Ngân hàng Nhà nước tăng dự trữ bắt buộc, áp dụng biện pháp mua tín phiếu Ngân hàng Nhà nước bắt buộc; điều chỉnh tăng lãi suất; thực hiện mua ngoại tệ; điều hành tỷ giá theo hướng căn cứ vào cung cầu trên thị trường, với biên độ giao động 2%; kiểm soát tín dụng ngân hàng ở mức tăng trưởng tín dụng tối đa 30%; phát triển lành mạnh thị trường bất động sản….”

Sự phát huy tác dụng của các giải phát trên, theo tôi, còn tùy thuộc cơ chế điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước trên cơ sở nhận thức đúng đắn cơ chế truyền dẫn tiền tệ thông qua giá cả các loại tài sản, bên cạnh lãi suất (giá cả công cụ nợ).

2.Giả cá tài sản trong cơ chế truyền dẫn tiền tệ

F.Mishkin (2000) phân ra ba loại giá cả tài sản bên cạnh giá cả công cụ nợ (lãi suất) được xem như là những kênh truyền dẫn quan trọng, thông qua đó chính sách tiền tệ tác động đến nền kinh tế: (i) giá cả chứng khoán; (ii) giá cả bất động sản và (iii) tỷ giá hối đoái. Chính sách tiền tệ mở rộng hay thu hẹp thông qua các kênh truyền dẫn này tác động đến tình hình lạm phát và đầu tư trong nền kinh tế được minh họa qua sơ đồ dưới đây:

image

2.1. Tỷ giá hối đoái

Có hai kênh truyền dẫn cơ bản thông qua tỷ giá hối đoái: (i) tỷ giá hối đoái tác động xuất khẩu thuần; (ii) tỷ giá hối đoái tác động bảng cân đối tài sản của các đơn vị tài chính và phi tài chính.

- Tỷ giá hối đoái tác động xuất khẩu thuần: Nền kinh tế càng mở cửa thì cơ chế truyền dẫn tiền tệ qua kênh này tác động đến cán cân vãng lai và tổng cầu càng lớn. Chính sách tiền tệ mở rộng dẫn đến lãi suất đồng nội tệ giảm, kéo theo đồng tiền nội tệ giảm giá so với đồng ngoại tệ (tỷ giá hối đoái giảm. Sự giảm giá đồng nội tệ làm cho hàng hóa trong nước rẻ hơn hàng hóa nước ngoài, xuất khẩu ròng gia tăng, và vì thế gia tăng sản lượng .

- Tỷ giá hối đoái tác động đến bảng cân đối tài sản: Sự biến động tỷ giá hối đoái có ảnh hưởng đến tổng cầu thông qua bảng cân đối của các công ty tài chính và phi tài chính khi có một số lượng nợ đáng kể bằng đồng ngoại tệ. Với những hợp đồng nợ bằng đồng ngoại tệ, chính sách tiền tệ mở rộng sẽ làm giảm giá trị đồng nội tệ, gia tăng gánh nặng nợ; kéo theo là giá trị thuần tài sản giảm, dẫn đến vay mượn giảm, giảm đầu tư và giảm sản lượng.

2.2. Giá cả chứng khoán và giá cả bất động sản

2.2.1. Giá cả chứng khoán

Cơ chế truyền dẫn liên quan đến giá cả chứng khoán tác động đến: (i) đầu tư; (ii) bảng cân đối tài sản của doanh nghiệp) và (iii) sự giàu có các hộ gia đình.

- Tác động đến đầu tư: Mô hình q – Tobin (1969) thiết lập mối quan hệ giữa giá chứng khoán và chi đầu tư. q của Tobin là được xác định như là giá trị thị trường của công ty chia cho chi phí thay thế vốn (chi phí mua sắm các công cụ, tài sản…). Nếu q cao, thì giá cả thị trường của công ty cao so với chi phí thay thế vốn. Khi đó công ty phát hành chứng khoán và nhận một mức giá cao hơn so với giá cả các loại tài sản vốn mà họ mua. Vì vậy, chi tiêu vốn đầu tư gia tăng, bởi vì các công ty có thể mua nhiều tài sản vốn chỉ với một lượng nhỏ chứng khoán phát hành.

Chính sách tiền tệ mở rộng sẽ làm hạ thấp lãi suất thị trường, khi đó trái phiếu ít hấp dẫn so với cổ phiếu. Kết quả là, nhu cầu và giá cả cổ phiếu tăng cao. Giá cả cổ phiếu càng cao khiến cho mỗi cổ phiếu phát hành huy động được càng nhiều vốn hơn , theo đó chi phí thay thế vốn giảm , dẫn đến kích thích đầu tư tăng cao và làm cho tổng cầu tăng

- Tác động đến bảng cân đối của công ty: Tín dụng và giá cả chứng khoán tác động đến bảng cân đối công ty. Chính sách tiền tệ mở rộngdẫn đến làm gia tăng giá cả chứng khoán theo đó giá trị thuần (net worth) của công ty tăng lên . Một sự tăng lên giá trị thuần sẽ nâng cao khả năng thế chấp trong vay nợ của công ty và vì thế dẫn đến vay nợ tăng lên. Vay nợ càng tăng, chi đầu tư càng tăng , kéo theo .

- Tác động đến mức giàu có của các hộ gia đình: Mô hình chu kỳ cuộc sống của Modigliani (1963) thiết lập lý thuyết tiêu dùng được quyết định bởi nguồn lực suốt đời của người tiêu dùng. Một hợp phần quan trọng của nguồn lực suốt đời của người tiêu dùng là tài sản tài chính của họ, trong đó chứng khoán là hợp phần chủ yếu. Chính sách tiền tệ mở rộng sẽ làm gia tăng giá cả chứng khoán, gia tăng giá trị giàu có của các hộ gia đình ( , kéo theo làm gia tăng nguồn lực suốt đời của người tiêu dùng, dẫn đến tổng tiêu dùng tăng lên .

2.2.2. Giá cả bất động sản

Giá cả bất động sản tác động đến tổng cầu thông qua các kênh: (i) ảnh hưởng trực tiếp đến chi tiêu nhà ở; (ii) sự giàu các hộ gia đình; (iii) bảng cân đối ngân hàng.

- Tác động đến chi tiêu nhà ở: Mô hình chi tiêu nhà ở là một dạng biến đổi của lý thuyết q - Tobin. Chính sách tiền tệ mở rộng làm giảm lãi suất, giảm chi phí tài trợ nhà ở và vì thế làm gia tăng giá cả nhà ở. Sự gia tăng giá cả nhà ở làm gia tăng lợi nhuận của các công ty xây dựng nhà và vì thế chi tiêu nhà ở gia tăng , kéo theo tổng cầu xã hội gia tăng .

- Tác động đến mức giàu có của các hộ gia đình: Giá cả nhà ở là hợp phần quan trọng của mức giàu có các hộ gia đình và tác động đến mức chi tiêu dùng. Vì thế, chính sách tiền tệ mở rộng làm gia tăng giá nhà ở, gia tăng mức giàu có các hộ gia đình , kéo theo gia tăng chi tiêu dùng và tổng cầu xã hội .

- Tác động đến bảng cân đối tài sản ngân hàng: Mô hình này dựa vào giả thiết, khi vay mượn vốn các nhà đầu tư phải thế chấp bất động sản ở ngân hàng. Chính sách tiền tệ mở rộng ( làm gia tăng giá cả bất động sản , gia tăng giá trị tài sản thế chấp và vốn ngân hàng , dẫn đến đầu tư và sản lượng tăng lên.

3. Quyền lực của giá cả tài sản và phản ứng chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước VN

3.1. Tỷ giá hối đoái

Đối với những nền kinh tế mở và nhỏ, thay đổi tỷ giá có ảnh hưởng lớn lạm phát. Mishkin (2001) cho rằng ngân hàng trung ương quan tâm đến tỷ giá hối đoái vì nhiều lý do: (i) liên quan đến sức mua đồng tiền trong nước và cán cân thanh toán như đã phân tích ở trên; hoặc (ii) sức ép từ phía thị trường, công luận và các nhà chính trị hay sự mất giá đồng tiền trong nước là ngòi nổ cho các cuộc khủng hoảng tài chính.

Tuy nhiên, kinh nghiệm quốc tế cho thấy, sự tập trung quá nhiều vào giới hạn biến động tỷ giá hối đoái cũng gây nguy hiểm cho chính sách tiền tệ trong kiểm soát lạm phát. Bởi vì nó có thể làm cho phản ứng chính sách sai khi nền kinh tế phải đương đầu những cú sốc về thương mại như trường hợp xảy ra ở New Zealand và Chile vào cuối những năm 1990. Thật vậy, do ảnh hưởng trực tiếp của tỷ giá đến lạm phát, Ngân hàng Dự trữ New Zealand có khuynh hướng tập trung vào tỷ giá hối đoái như là chỉ số trạng thái của chính sách tiền tệ (Monetary Conditions Index: MCI) và thiết lập chỉ số cơ bản của chính sách tiền tệ trên cơ sở tính trung bình trọng số của tỷ giá hối đoái và lãi suất ngắn hạn với mục đích là bù đắp những tác động đến lạm phát. Khi tỷ giá giảm xuống, kéo theo lạm phát tăng trong tương lai và vì thế lãi suất cần tăng để khống chế mức tăng của lạm phát. Tuy nhiên, hiệu ứng bù đắp của tỷ giá và lãi suất đối với lạm phát tùy thuộc vào bản chất của cú sốc. Nếu như sự giảm giá của tỷ giá xuất phát từ quan tâm đến danh mục, kéo theo lạm phát tăng cao thì phản ứng tối ưu là nâng cao lãi suất, thắt chặt chính sách tiền tệ để kiềm chế lạm phát. Còn nếu như sự giảm giá của tỷ giá xuất phát từ cú sốc thương mại âm, thay vào đó là thực thi chính sách tiền tệ mới lỏng thì hiệu quả hơn. Cuộc khủng khoảng tài chính vào năm 1997 làm cho MCI giảm đáng kể, Ngân hàng Dự trữ New Zealand bắt đầu điều chỉnh tăng lãi suất vào tháng 6/1998. Bởi vì sự giảm giá là do cú sốc thương mại âm, nên thắt chặt chính sách tiền tệ đã làm cho cuộc suy thoái trở nên trầm trọng hơn, lạm phát tăng cao. Cuối cùng, Ngân hàng Dự trữ New Zealand nhận thấy sai lầm và đảo ngược tiến trình bằng việc giảm nhanh lãi suất vào tháng 7/1998 sau khi nền kinh tế đã rơi vào suy thoái, thế nhưng quá muộn. Ngân hàng Dự trữ New Zealand nhận thấy sự bất hợp lý khi sử dụng MCI như là chi số của chính sách tiền tệ và đã bỏ nó vào năm 1999. Trái ngược với kinh nghiệm của New Zealand, Ngân hàng Dự trữ Úc lại thực hiện chính sách tỷ giá linh hoạt không can thiệp. Ngân hàng Dự trữ Úc nhận thấy nền kinh tế đang đương đầu với cú sốc thương mại, do tỷ phần lớn trong cán cân chủ yếu là từ khu vực Châu á và quyết định không có chống chọi với sự sụt giá của đồng đô la Úc, vì cho rằng đó là điều không thể tránh khỏi trong lúc khủng hoảng. Với chính sách này, mặc dù đồng đô la Úc mất giá so với đồng đô la Mỹ lên tới 20% nhưng lạm phát vẫn trong phạm vi kiểm soát được.

Ở VN, với dòng chảy ngoại tệ đổ vào trong nước ngày càng tăng, trong năm 2007 ước gần 25 tỷ đô la (gồm FDI, ODA, FII, và kiều hối), đồng nội tệ có khuynh hướng lên giá so với đồng đô la, nhập siêu gia tăng khá mạnh trong năm 2007 (9 tỉ USD, bằng 19% tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2007). Các doanh nghiệp trong nước nói chung và doanh nghiệp xuất khẩu nói riêng đứng sức ép gia tăng giá cả đầu vào nguyên liệu (xăng dầu, sắt, thép, phân bón, thuốc trừ sâu…) của thế giới tăng cao, trong khi đồng nội tệ lên giá làm cho các doanh nghiệp xuất khẩu lỗ kép (gồm: chênh lệch giá đầu vào – đầu ra và chuyển đổi tiền tệ). Với cú sốc thương mại như vậy, Ngân hàng Nhà nước VN đã chấp nhận điều chỉnh nâng biên độ giao dịch tỷ giá hối đoái lên (+/-) 1% nhằm tạo ra một cơ chế tỷ giá linh hoạt hơn trong việc giải bài toàn tiền tệ và lạm phát hiện nay [2]. Động thái này cho thấy, Ngân hàng Nhà nước VN đang đeo đuổi thực hiện chính sách tiền tệ độc lập riêng của mình; và với một thị trường vốn đang mở cửa, VN chấp nhận tỷ giá hối đoái biến động và tăng cường chính sách can thiệp vào thị trường ngoại hối. Sự điều chỉnh chính sách này liệu có đủ để đối phó của cú sốc nhập siêu và thị trường ngoại hối hiện hay không? Thật là sớm để đưa ra câu trả lời trong bối cảnh tiền tệ thế giới đầy biến động và suy thoái kinh tế toàn cầu đang diễn ra theo chiều hướng xấu. Nhưng phải thừa nhận rằng, đó là giải pháp đúng đắn về điều hành chính sách tỷ giá nhằm đối phó với cú sốc thương mại âm, đang gây bất lợi cho chính sách kiểm soát lạm phát. Tuy nhiên, để tạo ra hiệu ứng tốt hơn nữa của chính sách tiền tệ đối với các cú sốc, theo tôi Ngân hàng Nhà nước nên tiến tới vận hành một chính sách tỷ giá thị trường linh hoạt, không nên tập trung quá nhiều vào việc giới hạn hay khống chế mức thay đổi của tỷ giá. Làm như vậy, khiến cho chính sách tiền tệ sẽ phản ứng sai khi nền kinh tế chuyển sang trạng thái sốc khác. Hiện tại, diễn biến thị trường ngoại hối lại xuất hiện nhiều dấu hiệu phức tạp, chứa đựng nguy cơ tiềm ẩn về rủi ro tiền tệ. Các ngân hàng thương mại đang đổi chiều dòng tiền cho vay. Tận dụng cơ hội lãi suất đồng đô la đang xuống thấp [3], trong khi đồng nội tệ kham hiếm và lãi suất đang tăng cao, các ngân hàng thương mại đẩy mạnh cho vay đồng ngoại tệ. Chính sách này hàm chứa rủi ro tiền tệ đối với các doanh nghiệp có danh mục nợ vay bằng đồng ngoại tệ một khi đồng la lên giá trở lại [4].

Chính vì thế, đi đôi với việc chuyển sang chế độ tỷ giá thị trường linh hoạt, đã đến lúc Ngân hàng Nhà nước cần phải thay đổi chế độ quản lý ngoại hối, chấm dứt cơ chế cho vay bằng ngoại tệ của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng. Việc mở rộng tín dụng ngoại tệ làm tăng nguy cơ rủi ro tỷ giá, lãi suất đối với tổ chức tín dụng và khách hàng do những diễn biến khó lường về tỷ giá, lãi suất trên thị trường quốc tế. Thay vào đó là nên chuyển sang cơ chế giao dịch mua đứt bán đoạn và đẩy mạnh phát triển phái sinh ngoại hối (forward, Option, Swap…).

3.2. Giá cả bất động sản và chứng khoán

Như đã phân tích ở phần cơ chế truyền dẫn tiền tệ, sự thay đổi giá bất động sản và giá chứng khoán có ảnh hưởng quan trọng đến tổng cầu và vì thế được chấp nhận làm “lý thuyết nền” để đánh giá lập trường của chính sách tiền tệ. Vào những năm cuối của thập niêm 90, hầu hết ngân hàng trung ương của các nước công nghiệp đều tập trung vào giá cả tài sản ở chừng nhất định để cung cấp thông tin đầu ra và lạm phát; và thiết lập mức độ phản ứng trong khuôn khổ của chính sách tiền tệ.

Khủng hoảng kinh tế của VN vào những năm cuối thập kỷ 80, bất động sản bấy giờ chưa trở thành tài sản lựa chọn trong danh mục đầu tư. Đến những năm đầu của thập kỷ 90 và cú sốc thị trường bất động sản xảy ra trong năm 1993-1994, thì đến nay bất động sản trở thành loại tài sản chủ yếu trong danh mục đầu tư của xã hội. Từ cuối năm 2007 đến nay, giá nhà đất bước vào “cơn sốt cấp”, với mức tăng giá diễn ra tốc độ nhanh. Nếu so với mặt bằng giá đất của các nước công nghiệp, thì giá đất của VN cao hơn gấp 1,5 lần. Ước tính lượng vốn đổ vào thị trường bất động sản đã lên đến hàng trăm nghìn tỉ đồng, gấp chục lần lượng vốn cho vay đầu tư chứng khoán. Trước những biến động về giá nhà đất, giá chứng khoán đi kèm theo tốc độ lạm phát tăng cao đặt ra câu hỏi: chính sách tiền tệ nên phản ứng như thế nào? Ngay từ đầu năm 2008, Ngân hàng Nhà nước VN thực hiện “ào ạt” các biện pháp thắt chặt tiền tệ như là tăng dự trữ bắt buộc thêm 1% (tổng cộng 11%) và mở rộng loại tiền phải dự trữ bắt buộc; phát hành 20.300 tỉ đồng tín phiếu bắt buộc để hút tiền về; tăng lãi suất cơ bản (từ 8,25%/năm lên 8,75%/năm), lãi suất chiết khấu (từ 4,5%/năm lên 6%/năm) và lãi suất tái cấp vốn (từ 6,5%/năm lên 7,5%/năm); điều chỉnh cho vay chứng khoán (từ việc khống chế 3% tổng dư nợ tín dụng sang khống chế 15 - 20% vốn điều lệ); kiểm soát cho vay bất động sản... Tất cả cho thấy Ngân hàng Nhà nước VN đã nhận thức được tầm quan trọng của giá cả tài sản trong cơ chế truyền dẫn tiền tệ. Tuy nhiên, với cách thức điều hành chính sách tiền tệ theo lối “đánh bủa vây”, Ngân hàng Nhà nước khó mà kiểm soát thành công mục tiêu lạm phát. Phản ứng thắt chặt chính sách tiền tệ không được thực hiện vào quý 4 năm 2007 – thời điểm lạm phát có nguy cơ tăng cao, mà để cho đến mãi tháng 2 & 3/2008 – thời điểm thị trường bất động sản ở hai thành phố lớn “sốt nóng”. Kết quả bước đầu của thắt chặt tiền tệ tuy có làm lắng dịu thị trường bất động sản, nhưng chưa thể nói là kiểm soát được tốc độ lạm phát. Bởi lẽ, lãi suất cao (12%/năm) cùng với sự gia tăng giá cả các yếu tố đầu vào tạo ra lực cộng hưởng “chi phí đẩy”, không những không kiểm soát được lạm phát mà làm cho lạm phát tăng lại cao hơn nữa! [5]. Đó là chưa kể lãi suất cao tạo ra hiệu ứng Fisher có lợi cho các nhà đầu tư tiền tệ quốc tế [6]. Hay nói khác đi, giải bài toán lạm phát trong bối cảnh hiện nay của VN bằng giải pháp tăng lãi suất có tính “đánh bủa vây” là không thích hợp và “phản tác dụng”. Từ đó, tôi cho rằng, trước hết, trong điều kiện thông tin bất cân xứng, thật rất khó cho Ngân hàng Nhà nước để xác định bong bóng khi nào phát triển đến “đỉnh điểm”. Không có thông tin đầy đủ, Ngân hàng Nhà nước không thể tiên liệu đúng trạng thái bong bóng tài sản; kết quả là sẽ phản ứng sai chính sách tiền tệ. Bernanke (1999) và Mishkin (2001) cho rằng ngân hàng trung ương không nên quá chú trọng phản ứng đối với giá tài sản, nếu như nó không ảnh hưởng quan trọng đến sản lượng, mà bỏ qua đi tìm hiểu căn nguyên của cú sốc gây ra lạm phát. Thứ hai, mặc dù giá chứng khoán là một phần quan trọng của cơ chế truyền dẫn, nhưng giữa giá chứng khoán và chính sách tiền tệ có mối quan hệ rất yếu. Những biến động của giá chứng khoán xảy ra bắt nguồn từ nhiều lý do không liên quan đến chính sách tiền tệ, như là tâm lý bầy đàn, đầu cơ…. Vì thế, chính mối quan hệ khá “lỏng lẻo” giữa chính sách tiền tệ và giá chứng khoán nên chắc chắn sẽ làm hạn chế rất lớn khả năng của Ngân hàng Nhà nước trong việc kiểm soát giá chứng khoán. Thứ ba, hướng đến mục tiêu kiểm soát giá tài sản sẽ đặt cho Ngân hàng Nhà nước rơi vào tình trạng kiểm soát quá nhiều yếu tố kinh tế, gây nhiễm loạn trong các kênh truyền dẫn tiền tệ. Sự thành công trong điều hành chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương ở các nước phát triển cho thấy, ngân hàng trung ương nên thu hẹp mức độ tập trung và cần xử lý, phân định rõ cái gì nên làm và cái gì không nên làm. Đặc biệt, các ngân hàng đều thừa nhận rằng họ ít có khả năng để quản lý sự biến động ngắn hạn của chu kỳ kinh doanh, và vì thế nên tập trung vào ổn định giá cả như là mục tiêu cơ bản. Sự thành công của Ngân hàng Trung ương Đức (Bundes Bank) là điểm sáng về kinh nghiệm điều hành chính sách tiền tệ không tập trung vào sự biến động đầu ra trong ngắn hạn và họ đã thành công trong việc kiểm soát lạm phát (Bernanke, Laubach, Posen, 1999). Bằng việc thu hẹp phạm vị tập trung trong điều hành chính sách tiền tệ, trong những năm gần đây, Bundes Bank nhận được nhiều ý kiến từ công luận ủng hộ tăng cường tính độc lập của nó.

4. Kết luận

Lý thuyết truyền dẫn tiền tệ khẳng định vai trò giá cả tài sản đối với việc thiết kế chính sách tiền tệ. Để kiểm soát lạm phát, Ngân hàng Nhà nước cũng phải phản ứng đối với những thay đổi của giá cả tài sản nếu như nó có ảnh hưởng đáng kể đến sản lượng. Tuy nhiên, đối với tỷ giá hối đoái, tùy theo cú sốc mà Ngân hàng Nhà nước thực hiện điều chỉnh tỷ giá sao cho hợp lý. Trong bối cảnh của VN, Ngân hàng Nhà nước nên tiến tới vận hành một chính sách tỷ giá thị trường linh hoạt, không nên tập trung quá nhiều vào việc giới hạn hay khống chế mức thay đổi của tỷ giá. Làm như vậy, khiến cho chính sách tiền tệ sẽ phản ứng sai khi nền kinh tế chuyển sang trạng thái sốc khác. Đối với giá bất động sản và giá chứng khoán, Ngân hàng Nhà nước không nên quá chú trọng phản ứng đối với các loại giá tài sản này, nếu như nó không ảnh hưởng quan trọng đến sản lượng, mà bỏ qua kiểm soát mục tiêu lạm phát. Kiểm soát lạm phát bằng biện phát tăng lãi suất là không phù hợp với bản chất lạm phát “chi phí đẩy” hiện nay của VN.

Chú thích:

[1] Ngày 3/3/2008, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Nguyễn Sinh Hùng đã ký công văn số 319/TTg - KTTH truyền đạt ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường các biện pháp kiềm chế lạm phát năm 2008.

[2] Theo QĐ 504/QĐ-NHNN của Thống đốc NHNN ban hành ngày 7/3/2008.

[3] Ngày 19/8 FED quyết định cắt giảm lãi suất đồng đô la xuống còn 2,25%. Đây là mức cắt giảm khá mạnh của FED nhằm ngăn ngừa tình trạng khủng hoảng về tài chính của Mỹ.

[4] Với quyết định cắt giảm lãi suất, tình hình tài chính thế giới đã bị tác động ngay lập tức. Đồng USD bắt đầu hồi phục mạnh mẽ khi tỷ giá EUR/USD trở về gần ngưỡng 1,56.

[5] Theo Sở Tài chính, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) TP HCM trong tháng 3 tăng 1,9% so với tháng 2, đẩy CPI quý 1 lên đến mức 7,2%, cao nhất trong nhiều năm nay. Hiệp hội các doanh nghiệp TP.HCM dự đoán đây chỉ mới là khởi đầu cho cơn bão giá thực sự có thể bùng phát vào đầu tháng 4. (http://www.vnexpress.net/Vietnam/Kinh-doanh).

[6] Theo lý thuyết hiệu ứng Fisher, nếu như lãi suất trong nước cao hơn lãi suất thị trường quốc tế sẽ tạo ra lực hút dòng ngoại tệ thị trường trong nước đổ vào trong nước để kiếm lời.

Tài liệu tham khảo:

Shogo Ishii (2008), Vietnam's New Challenges Amid Signs of Overheating, IMF Asia and Pacific Department. Frederics Mishkin (2001), The Transmission Mechanism and the Role of Asset Prices in Monetary Policy, Working paper 8617. Bernanke and Mark Gertler (1999), Should Central Banks Respond to Movements in Asset Prices? Charles Goodhart and Boris Hofmann (2002), Asset Prices and the Conduct of Monetary Policy. Ngày 3-3-2008, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Nguyễn Sinh Hùng đã ký công văn số 319/TTg - KTTH truyền đạt ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường các biện pháp kiềm chế lạm phát năm 2008.

SOURCE: TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KINH TẾ SỐ 210, THÁNG 4/2008

Chủ Nhật, 10 tháng 8, 2008

DOANH NGHIỆP VIỆT NAM TRONG HỘI NHẬP VÀ PHÁT TRIỂN

NGUYỄN ANH NGỌC. MBA

I. Vai trò của Nhà nước trong quá trình hội nhập

Hội nhập kinh tế thế giới với sự tham gia vào những tổ chức thương mại toàn cầu, khu vực mậu dịch tự do, hiệp ước song phương và đa phương ,…, tham gia cạnh tranh trên thị trường quốc tế và chấp nhận cạnh tranh ngay trên thị trường nội địa không còn những bảo hộ thương mại của Nhà nước. Hội nhập kinh tế thế giới cũng là giai đoạn mà doanh nghiệp phải đối mặt mạnh hơn với những rào cản kỹ thuật của khu vực và từng quốc gia riêng biệt. Muốn hội nhập kinh tế thế giới nhất thiết phải gia nhập WTO vì đây là thị trường chiếm tới 97% thị trường xuất nhập khẩu thế giới. VN vào tổ chức này chính là xâm nhập vào thị trường rộng lớn nhất thế giới. Vào WTO, VN được hưởng những ưu đãi của tổ chức, đồng thời cũng phải cam kết thực hiện hoạt động bình đẳng và minh bạch. Nhà nước cần phải thực hiện những gì để hỗ trợ cho doanh nghiệp nhưng không vi phạm những qui định chung của các tổ chức và thị trường?

Thứ nhất là chúng ta phải điều chỉnh lại hệ thống luật pháp cho phù hợp với thông lệ quốc tế. Song song với cải thiện khuôn khổ luật pháp, cần đẩy mạnh cải cách trong các lĩnh vực quản lý như tăng cường năng lực quản lý kinh tế vĩ mô, nâng cao năng lực chính quyền địa phương, tăng cường đối thọai giữa chính quyền và các thành phần kinh tế, tạo thông thoáng hơn trong hành xử pháp luật,….

Thứ hai tăng cường tính hiệu quả của các dịch vụ cơ bản như viễn thông, giao thông, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, v.v… làm nền tảng cho sự vận hành thông thoáng các hoạt động kinh doanh ; bên cạnh đó, tiếp tục hiện đại hóa phương thức quản lý , chuyên môn hóa nhân viên quản lý, hợp lý hóa kỹ thuật quản lý; đồng thời phát huy tính năng động của các nghiệp vụ thương mại, xúc tiến, đầu tư.

Thứ ba là mở rộng mạng lưới thông tin, cung cấp nhiều thông tin hơn cho doanh nghiệp về cạnh tranh, thị trường và thị trường mục tiêu, kể cả những thông tin về thay đổi chính sách trong nước cũng như chính sách của các tổ chức thương mại thế giới. Thông tin phân tích và dự báo đang thiếu trầm trọng trong môi trường kinh doanh hiện nay của VN!

Thứ tư là tiếp tục cải tổ doanh nghiệp nhà nước, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tư nhân phát triển, thực hiện chế độ đa sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; chú trọng duy trì vốn nhà nước vào những công ty lớn; đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, không chỉ tập trung vào những thị trường tiêu thụ mạnh như châu Âu và Mỹ. Song song đó, thúc đẩy hình thành và phát huy tác dụng của các hiệp hội ngành nghề, xem đây là một công cụ chiến lược để hỗ trợ cho hoạt động doanh nghiệp.

Kế đến là những giải pháp tổng hợp để nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngành và doanh nghiệp trong nền kinh tế, những vấn đề mấu chốt cần thực hiện như định hướng thị trường, xác định ngành chủ lực cần phát triển, xác định thị trường mục tiêu, xây dựng thương hiệu quốc gia và thương hiệu sản phẩm, xây dựng các chuẩn mực quốc tế trong sản xuất và quản lý, minh bạch hóa các tài liệu hạch toán, tăng cường đào tạo nguồn nhân lực phù hợp với tri thức kinh doanh toán cầu,,… Đây thực sự là một thách thức không nhỏ vì nền kinh tế của VN còn rất bé nhỏ, sức cạnh tranh còn rất yếu. VN lại ở nhóm 40 nước nghèo nhất thế giới (bình quân 400 USD/ người/năm). Các doanh nghiệp của VN tiềm lực cũng còn rất nhỏ bé. Tuy nhiên, có một thuận lợi lớn là người VN rất thông minh và cần cù, sẽ tiếp thu nhanh những tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sản xuất và quản lý. Thời gian gần đây, sau khi gia nhập ASEAN, đã minh chứng cho điều này. Cụ thể, để chuẩn bị cho các doanh nghiệp, chúng ta cần nâng cao mức độ hiểu biết của doanh nghiệp về thị trường thế giới, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp vừa và nhỏ.

II. Những vấn đề đặt ra đối với các doanh nghiệp VN

1. Xây dựng chiến lược kinh doanh trong thời kỳ hội nhập: thật sự đây không phải là một giải pháp tình huống, mà là chiến lược lâu dài để xác định vị trí và định hướng kinh doanh trong kinh tế toàn cầu. Doanh nghiệp cần phải xác định nhiệm vụ mục tiêu dựa trên sự phân tích môi trường bên ngoài và môi trường bên trong; những điểm mạnh, điểm yếu bên trong và những cơ hội , nguy cơ của môi trường bên ngoài sẽ giúp việc định hướng chiến lược vừa trong tầm hạn của doanh nghiệp. Các công cụ phân tích chiến lược sẽ hỗ trợ doanh nghiệp có những thông số định lượng trong việc lựa chọn và thực hiện chiến lược trong từng giai đọan nhất định của quá trình tăng trưởng. Xác định chiến lược cũng đồng thời tạo điều kiện cải tiến các hoạt động chức năng như tổ chức sản xuất, quản trị Marketing, R&D, tài chính kế toán, quản trị nhân sự, xử lý thông tin,…. Doanh nghiệp cũng cần nhận thức rằng thiếu chiến lược sẽ giống như một con tàu không có bánh lái, không biết sẽ đi về đâu trên biển cả mênh mông và đầy sóng gió. Cũng nên biết rằng việc xây dựng chiến lược dài hạn, phân chia ra những giai đoạn thực hiện ngắn hạn cũng đồng thời là việc xây dựng lộ trình hội nhập cho doanh nghiệp.

2. Thông hiểu luật pháp quốc tế: Một trong những yếu kém thấy rõ của doanh nghiệp VN là chưa thông hiểu luật pháp và những qui định theo thông lệ quốc tế. Các vụ kiện về Vietnam Airlines, thay đổi tên thương mại của sản phẩm, chống phá giá cá basa, tôm , giày da,… cho thấy khả năng và bản lãnh đối mặt với hững vấn đề luật pháp quốc tế của doanh nghiệp cần phải được cải thiện nhanh chóng. Tìm hiểu luật pháp của những thị trường và thị trường tiềm năng, dành ngân khoản thích đáng cho việc thuê chuyên gia tư vấn luật cũng như luật sư trong các hoạt động kinh doanh là điểm cần quan tâm đúng mức trong giai đoạn hiện nay.

3. Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ: Những tranh cãi, kiện tụng để đòi lại nhãn hiệu nước mắm Phú Quốc, giày dép Biti’s, kẹo dừa Bến Tre,… đã giúp doanh nhân VN nhận thức rõ việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của sản phẩm trên thương trường thế giới. Trong thực tiễn kinh doanh, quyền sở hữu trí tuệ không chỉ bao gồm những vấn đề phát sinh từ nhãn hiệu, mà còn gồm nhiều vấn đề khác trong lĩnh vực: sáng chế phát minh, kiểu dáng công nghiệp, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh, giống cây trồng-vật nuôi, quyền tác giả,…. Từ đó, có thể nêu ra ba vấn đề mấu chốt mà các doanh nghiệp cần quan tâm để bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ là : (i) nắm rõ qui định pháp luật có liên quan đến sở hữu trí tuệ trong và ngoài nước để không vi phạm quyền sở hữu trí tuệ của người khác và không để người khác vi phạm sở hữu trí tuệ của mình; (ii) đánh giá đúng mức và tầm quan trọng của sở hữu trí tuệ, bảo vệ sở hữu trí tuệ của doanh nghiệp bằng những giải pháp tốt nhất; (iii) đăng ký nhãn hiệu (bao gồm tên gọi, âm thanh, màu sắc, hình ảnh, logo, slogan,…,gắn với sản phẩm) ở thị trường sẵn có và cả thị trường tiềm năng. Bên cạnh việc đăng ký và bảo vệ nhãn hiệu, một vấn đề vô cùng quan trọng trong quảng bá hình ảnh và tạo lợi thế cạnh tranh là xây dựng và quảng bá thương hiệu, kể cả thương hiệu của doanh nghiệp và của sản phẩm.

4. Đối phó với những rào cản kỹ thuật: Ba rào cản chính cần phải vượt qua trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới là rào cản thuế quan (tariff barries), rào cản kỹ thuật trong kinh doanh (technical barries to trade) và rào cản về luật pháp-tập quán (law/legal system-customs barries). Rào cản thuế quan như thuế xuất nhập, hạn ngạch mua bán,… sẽ giảm dần khi tham gia các tổ chức thương mại khu vực và thế giới. Hai rào cản còn lại thường gọi là rào cản phi thuế quan. Rào cản luật pháp và tập quán cũng sẽ giảm dần trong tiến trình kinh doanh; riêng rào cản kỹ thuật không giảm mà ngày càng tăng khi doanh nghiệp không biết và không chuẩn bị cho mình để hội nhập. Về bản chất, rào cản kỹ thuật hay qui tắc thống nhất, bao gồm những tiêu chí đảm bảo an toàn, đảm bảo sức khỏe, bảo vệ môi trường, bảo vệ người tiêu dùng và những yếu tố khác của phát triển bền vững; những qui tắc này thường được xem là cản ngại áp dụng cho các nước đang phát triển muốn hội nhập vào các nước phát triển, vì các nước đang phát triển chưa có những chuẩn mực phù hợp. VN cũng nằm trong nhóm này, theo thống kê, chỉ có khoảng 25% chuẩn mực VN phù hợp tiêu chuẩn quốc tế ! Những chuẩn mực thông thường và bắt buộc các doanh nghiệp phải đạt được khi tiếp cận thị trường thế giới bao gồm :

- ISO 9001 (phiên bản 2005): hệ thống quản lý chất lượng - đảm bảo và cải tiến chất lượng đối với khách hàng (từ khâu thiết kế) (Quality Management System – Quality Assurance for Internal and External Customers)

- ISO 14001 ((phiên bản 2004): hệ thống quản lý môi trường ( EMS – Environ mental Management System)

- OHSAS 18001 (phiên bản 1999): Hệ thống đánh giá an toàn và sức khoẻ nghề nghiệp (Occupation Health and Safety Assessment Series)

- SA 8000 (phiên bản 2001): trách nhiệm xã hội (Social Account - ability)

- Ngoài ra trong từng ngành cụ thể, cần có những chuẩn mực như : HACCP (Hazard Analysis and Critical Control Point) - Phân tích mối nguy và điểm kiểm soát tới hạn về vệ sinh trong công nghiệp thực phẩm; SQF (Safe Quality Food)-Nguyên liệu và thực phẩm an toàn; ISO 22000 (Food Safety Management System)-Hệ thống quản lý an toàn thực phẩm; GMP (Good Manufac turing Practices) - Thực hiện tốt trong sản xuất công nghiệp; GAP (Good Agriculture Practices) - Thực hiện tốt trong sản xuất nông nghiệp; ISM Code (Inter - national Safety Management Code) - Qui định quốc tế về an toàn trên biểnnhư tàu biển và dàn khoan di động ; FSC (Forest Stewardship Council) - Quản lý rừng bền vững …

Những đơn vị quản lý chất lượng, đơn vị hỗ trợ sản xuất kinh doanh trong và ngoài nước sẵn sàng giúp đỡ các doanh nghiệp tiếp cận những tổ chức hỗ trợ xây dựng để đạt được những tiêu chuẩn nêu trên.

5. Thực hiện những liên kết kinh tế: Những yếu kém của doanh nghiệp vừa và nhỏ, ngoài yếu tố quản lý còn có yếu tố qui mô, cả qui mô đầu tư công nghệ lẫn qui mô sản phẩm. Để có được một thế đứng trong việc chống chọi những áp lực về qui mô, doanh nghiệp cần nghiên cứu thực hiện những liên kết kinh tế:

- Liên kết theo chiều dọc: thường áp dụng trong những ngành mà sản phẩm của doanh nghiệp này là nguyên vật liệu đầu vào của những doanh nghiệp khác. Ví dụ sản phẩm con giống cung ứng cho chăn nuôi thương phẩm, sản phẩm thương phẩm trong chăn nuôi cung ứng cho hệ thống bán sĩ-lẻ và các nhà máy chế biến, sản phẩm chế biến cung ứng cho xuất khẩu để nhập con giống và thuốc thú y cho ngành chăn nuôi….Liên kết theo dạng này thường tạo thành những chuỗi kinh doanh đa ngành hoặc thành một vòng tròn khép kín trong kinh doanh, vừa tăng qui mô trong sản xuất, vừa tạo thế liên hoàn trong cạnh tranh. Những tổ hợp công nông, tập đoàn công nghiệp của Nhật và Hàn Quốc cũng khởi đầu với những liên kết theo chiều dọc mà yếu tố thành công chủ chốt (Key success factor) là mối liên hệ vòng tròn khép kín.

- Liên kết theo chiều ngang : (i) một trong những liên kết chiến lược bền vững theo chiều ngang phổ biến hiện nay là sáp nhập (Merger) , như Boeing sáp nhập với McDonell Douglas để tăng qui mô về vốn công nghệ và tăng lợi thế cạnh tranh với Airbus; Sonny và Ericsson, Plussz và Upsa C,… sáp nhập để giảm cạnh tranh với nhau, tăng qui mô vốn kỹ thuật, tăng cường vốn R&D và tăng uy tín nhãn hiệu ;…. Dĩ nhiên những sáp nhập này muốn thực hiện trong điều kiện kinh doanh của VN cần phải có những thay đổi tư duy trong quản lý, xóa bỏ tư tưởng sản xuất nhỏ trong kinh doanh và phải đạt một qui mô vừa đủ để có sự tách rời thực sự của quyền quản lý và quyền sở hữu. (ii) Một liên kết theo chiều ngang khá phổ biến và phù hợp với trình độ phát triển của doanh nghiệp VN là liên kết thành chuỗi của những doanh nghiệp có cùng ngành nghề, những liên kết này tạo thành mô hình tổ hợp hay hợp tác xã chuyên ngành kiểu mới, có thể ngắn hạn hay dài hạn, có thể có tư cách pháp nhân mới hay vẫn giữ tư cách pháp nhân độc lập trong liên kết, nhưng tập hợp vừa đủ về qui mô để thực hiện những hợp đồng kinh doanh dài và ngắn hạn. (iii) Một dạng liên kết thấp hơn và giảm tính độc lập của doanh nghiệp, nhưng vẫn được thực hiện khi không còn những lựa chọn tối ưu về chiến lược, là ký hợp đồng gia công hay làm vệ tinh cho những doanh nghiệp cùng ngành có uy tín và khả năng cạnh tranh mạnh trên thị trường; liên kết dạng này là giải pháp tình huống khi phải lựa chọn bị hủy diệt hoàn toàn hay kéo dài tình thế đề tìm những cơ hội cho sự phát triển theo chiều hướng tốt hơn.

Năm vấn đề lớn và cũng là năm bài toán khó đang đặt ra cho doanh nghiệp VN, hãy sắp xếp ưu tiên và đặt ra một khoảng thời gian giới hạn (Time-bound) để thực hiện .Và chắc chắn rằng nền kinh tế toàn cầu đầy năng động này luôn đặt ra những bài toán ngày càng khó hơn cho những nhà quản trị doanh nghiệp, những bài toán thực tế này giúp sàng lọc doanh nghiệp trên thương trường, giúp nhà quản trị linh hoạt hơn, sáng tạo hơn; đó cũng là mối quan hệ lợi ích, khích lệ, lôi cuốn doanh nghiệp VN đi trên con đường kinh doanh với “tâm-tài-trí-tầm” .

SOURCE: TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KINH TẾ SỐ 196, THÁNG 2 NĂM 2007

Thứ Tư, 6 tháng 8, 2008

MỘT SỐ VẤN ĐỀ NHÃN HIỆU HÀNG HÓA NỔI TIẾNG

image THS. NGUYỄN NHƯ QUỲNH - Khoa Luật dân sự - Đại học Luật Hà Nội

Kể từ khi Việt nam chuyển đổi nền kinh tế từ tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước cho đến nay đã chứng tỏ là một thị trường hấp dẫn đối với các nhà đầu tư, nhà sản xuất nước ngoài. Ngày càng nhiều nhãn hiệu hàng hoá nôỉ tiếng xuất hiện và được sử dụng tại nước ta như : Malboro, Coca-cola, Pepsi-Cola, Honda, Toyota, Ford, Mercedes, Sony, Nike, Adidas, Pampers, Colgate, Kodak, Bristol Myers, Levis, Johnson & Johnson, Shell, Mobil, Esso..

Việt nam đã trở thành thành viên của công ước Paris về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp từ 8/3/1949. Trong khi đó những hiểu biết về nhãn hiệu nổi tiếng nói chung và nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng nói riêng của chúng ta không nhiều (thực tế cho thấy không ít nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng bị vi phạm tại Việt Nam. Ví dụ: vụ Công ty Phillip Moris (Mỹ)- chủ sở hữu của nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng Malboro đã kiện Công ty Lotaba (Thanh Hoá), Công ty thuốc lá Khánh Hoà, Công ty Goldern Desire về việc làm giả thuốc lá gắn nhãn hiệu Malboro tại Việt Nam). Chính vì vậy, việc tìm hiểu các vấn đề pháp lý và thực tiễn về nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng không chỉ có ý nghía đối với các nhà quản lý, nhà sản xuất mà cả đối với người tiêu dùng.

Trong bài viết này , chúng tôi xin bàn về những vấn đề sau:

1. Các tiêu chí để xác định một nhãn hiệu hàng hoá là nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng .

2. Bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng theo các Công ước quốc tế (hành vi vi phạm và cách thức bảo hộ ).

3. Bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng ở Việt nam .

Cho đến nay, nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng được quy định chủ yếu trong các văn bản pháp luật quốc tế sau: Công ước Paris về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp (Điều 6bis); Thoả thuận về những khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (TRIPs - Điều 16) và Hiệp định Thương mại Thuế quan và Mậu dịch của Tổ chức thương mại thế giới –WTO. Liên minh Châu Âu có văn bản pháp luật về nhãn hiệu hàng hoá (bao gồm cả nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng) ngày 21/12/1988 (Directive 89/104/EEC). Tuy nhiên, chưa có văn bản pháp luật quốc tế nào đưa ra khái niệm nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng cũng như các tiêu chí để xác định một nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng. Điều 6bis - Công ước Paris chỉ đưa ra các quy định nhằm bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng. Trong khi đó, Điều 16(2) - TRIPs có quy định “để xác định một nhãn hiệu hàng hoá có nổi tiếng hay không các thành viên phải chú ý đến sự nhận biết nhãn hiệu hàng hoá đó trong bộ phận công chúng liên quan, bao gồm sự nhận biết đạt được tại nước thành viên liên quan đó nhờ quảng cáo nhãn hiệu hàng hoá đó”. Theo chúng tôi, TRIPs đã đưa ra tiêu chí cơ bản nhất để xác định nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng. Cũng lưu ý thêm rằng: Điều 6bis - Công ước Paris chỉ đề cập đến nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng nhưng Điều 16 - TRIPs mở rộng việc bảo hộ đối với cả nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng, nhãn hiệu dịch vụ nổi tiếng.

Như vậy, việc xác định một nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng tuỳ thuộc vào hệ thống đánh giá (nếu có) của từng quốc gia hay nói cách khác nó mang tính chủ quan. Nhưng trước hết, nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng (well-known trademark) phải là một nhãn hiệu hàng hoá (trademark). Đó là những dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hoá, dịch vụ cùng loại của các cơ sở sản xuất, kinh doanh khác nhau. Nhãn hiệu hàng hoá có thể là từ ngữ, hình ảnh hoặc sự kết hợp các yếu tố đó được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc . Theo Bộ luật sở hữu trí tuệ của Pháp (1), một nhãn hiệu hàng hoá được coi là nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng khi nó được biết đến trong một bộ phận công chúng. Việc xác định tính chất nổi tiếng dựa vào những tiêu chí sau: thời hạn sử dụng nhãn hiệu hàng hoá; nhãn hiệu hàng hoá được sử dụng rộng rãi (được sản xuất và phân phát tới công chúng với một số lượng lớn, trọng phạm vi rộng); được quảng cáo liên tục trên một phạm vi rộng. Còn theo Luật sở hữu trí tuệ của Trung Quốc (1996) (2), nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng là một nhãn hiệu hàng hoá được sử dụng (trên thị trường) trong một thời gian dài, có danh tiếng và gần gũi với công chúng. Các tiêu chí cụ thể là: thời hạn sử dụng nhãn hiệu hàng hoá; chất lượng hàng hoá; số lượng hàng hoá và phạm vi phân phối hàng hoá trong và ngoài lãnh thổ Trung Quốc; các tiêu chí công nghiệp chính cho việc sản xuất hàng hoá; phạm vi, thời hạn quảng cáo; việc đăng ký nhãn hiệu hàng hoá trong và ngoài lãnh thổ Trung Quốc; một số tiêu chí khác nhằm mục đích chứng minh một nhãn hiệu hàng hoá là nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng.

Qua tìm hiểu pháp luật một số nước trên thế giới và thực tiễn, chúng tôi cho rằng để đánh giá một nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng có thể dựa vào một số tiêu chí sau đây:

1. Mức độ hiểu biết và sự công nhận của công chúng.

Một nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng được nhiều người biết đến về đặc điểm nhãn hiệu hàng hoá, chất lượng sản phẩm được gắn nhãn hiệu hàng hoá, nhà sản xuất sản phẩm đó.. ; đồng thời cũng nhiều người công nhận uy tín, sự nổi tiếng của nó. Tức là: nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng phải có danh tiếng (reputation) trong một bộ phận công chúng nhất định. "Bộ phận công chúng" được hiểu là những người có liên quan đến loại nhãn hiệu hàng hoá đó, những khách hàng tiềm năng (potential consumer). Ví dụ, khi nói đến tivi Sony, nhiều người chỉ có trình độ hiểu biết trung bình cũng biết được đó là tivi của Nhật Bản, chất lượng tốt, rất bền, kiểu dáng đẹp..

2. Phạm vi, thời hạn sử dụng nhãn hiệu hàng hoá.

Đây là tiêu chí xác định yếu tố không gian, thời gian mà nhãn hiệu hàng hoá được sử dụng. Nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng không những được sử dụng tại nước đăng ký bảo hộ lần đầu tiên mà còn được sử dụng rộng rãi ở khu vực và trên toàn thế giới. Mặt khác, nhãn hiệu hàng hoá đó phải được sử dụng lâu dài kể từ thời điểm đăng ký bảo hộ lần đầu tiên hoặc được sử dụng lần đầu tiên. Hai yếu tố không gian và thời gian tỉ lệ thuận với mức độ nổi tiếng của một nhãn hiệu hàng hoá. Chính phạm vi sử dụng rộng rãi và sự tồn tại, phát triển lâu dài của nhãn hiệu hàng hoá tạo nên uy tín, danh tiếng của nhãn hiệu hàng hoá; ngược lại, nhãn hiệu hàng hoá càng nổi tiếng thì càng nhiều người biết đến, sử dụng, công nhận nó. Ví dụ: tháng 5/1986, Toà Phúc thẩm Paris đã phán quyết: nhãn hiệu LIBERTY (gắn trên sản phẩm dệt, quần áo) là nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng với lý do chính nó được đăng ký từ năm 1893.

3. Phạm vi, thời hạn, tính chất của các chương trình quảng cáo sản phẩm gắn nhãn hiệu hàng hoá.

Quảng cáo là một công cụ hữu hiệu “chuyển tải” sản phẩm tới người tiêu dùng. Nhiều người tiêu dùng biết đến sản phẩm nhờ hoạt động quảng cáo. Thông thường các nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng được quảng cáo ở nhiều nước thuộc các châu lục, khu vực khác nhau trên thế giới, trong các chương trình truyền hình lớn hay các sự kiện mang tính chất toàn cầu như WorldCup, Thế vận hội Olympic...; chủ sở hữu nhãn hiệu hàng hoá/nhà sản xuất thường đầu tư một số tiền lớn cho quảng cáo với chương trình quảng cáo ấn tượng. Trong một vụ kiện tại Canada, thẩm phán Cattanach đã khẳng định các nhãn hiệu hàng hoá Coca-Cola, esso, Chevrolet là nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng vì lý do chúng được quảng cáo hàng ngày ở mọi nơi trên lãnh thổ Canada, ở các tạp chí, đài phát thanh, truyền hình mà ai cũng có thể nhìn thấy được, nghe thấy được (3).

Nói chung, chủ sở hưũ nhãn hiệu hàng hoá/ nhà sản xuất coi quảng cáo là một trong những nội dung cơ bản trong chiến lược cơ bản trong chiến lược phát triển. ở đây cũng cần lưu ý rằng: một nhãn hiệu hàng hoá không thể trở thành nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng chỉ nhờ quảng cáo.

4. Phạm vi, thời hạn mà nhãn hiệu hàng hoá được đăng ký.

Các nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng có số lượng quốc gia bảo hộ lớn và thời hạn bảo hộ lâu dài. Nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng Honda (Nhật bản) được trên 100 quốc gia bảo hộ; nhãn hiệu Valentino (ý) được bảo hộ ở gần 130 quốc gia; Pierre Cardin (Pháp) được gần 100 quốc gia bảo hộ (4).

5. Giá trị thương mại của nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng.

Việc xác định giá trị thương mại của một nhãn hiệu hàng hoá dựa vào một số yếu tố sau: Giá trị khi nhãn hiệu hàng hoá được chuyển nhượng, giá trị đầu tư vào nhãn hiệu hàng hoá, năng lực/ khả năng của công ty có nhãn hiệu hàng hoá, giá trị của các tài sản khác của công ty có nhãn hiệu hàng hoá, giá trị của sản phẩm được gắn nhãn hiệu hàng hoá, thị phần của sản phẩm được gắn nhãn hiệu hàng hoá. Các nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng có gía trị thương mại lớn hơn rất nhiều so với giá trị thương mại của các nhãn hiệu hàng hoá không phải là nhãn hiệu hãng hoá nổi tiếng. Chúng tôi xin đưa ra đây một ví dụ: P/S là một nhãn hiệu hàng hoá có uy tín của Việt nam, giá trị của nhãn hiệu hàng hoá này đã được xác định khi chuyển nhượng là 7,3 triệu USD. Trong khi đó giá trị thương mại của Malboro là 300 tỷ USD và của Coca Cola là 336 tỷ USD (5).

6. Ngoài ra, việc xác định một nhãn hiệu hàng hoá là nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng còn căn cứ vào một số tiêu chí sau: doanh thu bán hàng; nhãn hiệu hàng hoá đã từng được cơ quan có thẩm quyền thừa nhận là nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng. Chẳng hạn như Toà án quốc gia, Toà án Quốc tế (International Court) đã công nhận một nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng khi có khiếu kiện về nhãn hiệu hàng hoá này.

Một số nước phân chia nhãn hiệu hàng hoá thành 3 loại: nhãn hiệu hàng hoá cực kỳ nổi tiếng, nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng, nhãn hiệu hàng hoá mới nổi tiếng. Theo chúng tôi, việc phân loại này không có ý nghĩa thực tế.

Trên đây là một số tiêu chí cơ bản thường được dùng để xác định nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng. Như vậy, vẫn có thể xảy ra tình trạng cùng một nhãn hiệu hàng hoá nhưng quốc gia này công nhận là nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng và cho hưởng quy chế pháp lý của nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng nhưng quốc gia khác lại không công nhận.

Theo điêù 6 bis- Công ước Paris, những hành vi sau bị coi là hành vi vi phạm nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng:

- Sao chép, bắt chước, chuyển đổi và có khả năng gây nhầm lẫn với nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng. Ví dụ: sử dụng nhãn hiệu hàng hoá Valentno là vi phạm nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng Valentino.

- Sử dụng nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng trên loại hàng hoá giống (the same) và tuơng tự (the similar). Ví dụ một trường hợp vi phạm tại Trung Quốc: sử dụng nhãn hiệu Malboro (thuốc lá) để gắn lên rượu. ở một số nước, quy định sử dụng nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng gắn lên sản phẩm "tương tự" được xem xét rất nghiêm ngặt. Ví dụ: Toà Phúc thẩm Paris ngày 21/2/1989 đã phán quyết việc sử dụng nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng American express (cho tín dụng và họat động du lịch) để gắn lên sản phẩm quần áo là vi phạm (6).

- Thành phần chủ yếu của nhãn hiệu là sự sao chép của bất kỳ nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng nào hoặc là sự bắt chước có khả năng gây nhầm lẫn với nhãn hiệu hàng hoá đó. Ví dụ: một nhà sản xuất Trung Quốc đã bị xác định là vi phạm nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng Mickey Mouse của Công ty Walt disney Production (Mỹ) khi sử dụng nhãn hiệu hàng hoá Mickey Mouse-like cho sản phẩm của mình.

Thực tế cho thấy, các nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng bị vi phạm thường là những nhãn hiệu gắn trên các sản phẩm nhỏ, dễ làm, dễ tẩu tán, dễ tiêu thụ, và không cần vốn lớn (Việc làm giả các sản phẩm thơì trang mang nhãn hiệu Valentino, Pierre Cardin dễ dàng hơn làm giả máy bay Boing hay xe hơi Roll Royce). Hình thức vi phạm chủ yếu là làm giả tức là gắn nhãn hiệu hàng hoá giống hệt (the same) lên sản phẩm bị làm giả. Bởi vì bản thân nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng (bao gồm dấu hiệu, màu sắc, chữ viết, hình ảnh...) được người tiêu dùng nhận thức tương dối dễ dàng nhưng chất lượng của sản phẩm gắn nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng đôi khi khó kiểm soát, đánh giá.

Bất kì cá nhân, tổ chức nào có một trong các hành vi vi phạm nêu trên, chủ văn bằng bảo hộ hoặc người sử dụng hợp pháp nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng có quyền áp dụng các hình thức xử lý thích hợp. Trước hết, họ có quyền áp dụng các quy định bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá nói chung. Tức là: nếu “bên bị vi phạm” và bên “vi phạm” đều là thành viên của công ước Paris thì bên bị vi phạm có quyền yêu cầu quốc gia có bên vi phạm sử dụng các công cụ pháp lý thích hợp để ngăn chặn có hiệu quả tất cả các hành vi vi phạm. Ngoài ra, họ còn có quyền khởi kiện tại toà án(cả toà án quốc tế )và các cơ quan hành chính có thẩm quyền khác (xem thêm điều 10-Công ước Paris). Trong trường hợp bên bị vi phạm và bên vi phạm hoặc một trong hai bên không phải là thành viên của Công ước Paris thì việc giải quyết đựơc tiến hành theo sự thoả thuận của hai bên. Đối với nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng, bên bị vi phạm có quyền yêu cầu huỷ bỏ nhãn hiệu hàng hoá vi phạm. Thời hạn yêu cầu huỷ bỏ được quy định không ít hơn 5 năm kể từ ngày đăng kí nhãn hiệu hàng hoá vi phạm được đăng ký (điều 6 bis- Công ước Paris). Bên cạnh đó, các nước thành viên cũng có quyền quy định thời hạn có thể yêu cầu cấm sử dụng nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng. Nếu việc vi phạm có “dụng ý xấu” (bad faith) (xem thêm điều 6 bis) tức là nhằm gây tổn hại nghiêm trọng về uy tín, vật chất ...cho chủ sở hữu, người sử dụng hợp pháp nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng thì thời hạn yêu cầu huỷ bỏ hoặc ngăn cấm việc sử dụng của chủ văn bằng nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng/ người sử dụng hợp pháp nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng là vô hạn.

Xuất phát từ đặc điểm của nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng là có uy tín, danh tiếng trên toàn thế giới sau một thời hạn nhất định kể từ thời điểm đăng kí bảo hộ lần đầu tiên. Cho nên đối với nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng, thủ tục đăng ký bảo hộ bắt buộc chỉ đặt ra lần đầu tiên với ý nghĩa là đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá. Các văn bản pháp luật quốc tế và văn bản pháp luật quốc gia đều không quy định: Chủ sở hữu/ nhà sản xuất phải tiếp tục đăng kí tại bất kỳ quốc gia nào có sử dụng nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng. Như vậy, việc chủ sở hữu có muốn đăng ký nhãn hiệu hàng hoá hay không hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí của họ. Tuy nhiên trong thực tế, chủ sở hữu/ nhà sản xuất vẫn tiến hành thủ tục đăng kí cho nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng để đảm bảo quyền lợi chắc chắn của mình. Chẳng hạn hãng Coca-cola vẫn đăng ký bảo hộ cho nhãn hiệu nổi tiếng Coca-Cola tại Cục Sở hữu công nghiệp Việt Nam; Công ty Walt Disney Productions (Mỹ) vẫn đăng ký cho các nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng của mình là Mickey Mouse và Snow White taị Trung Quốc.

Như vậy, các quy định bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng trong các văn bản pháp luật quốc tế chỉ mang tính chất định khung. Để giải quyết tránh chấp phát sinh, các quốc gia cần cụ thể hoá trong các văn bản pháp luật quốc gia và Hiệp định song phương hay đa phương cho phù hợp.

Hiện nay, ở nước ta xuất hiện ngày càng nhiều các nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng thuộc các lĩnh vực khác nhau, chúng ta cũng đã tham gia Công ước Paris từ rất sớm. Tuy nhiên, cho đến nay cơ sở pháp lý để bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng còn nhiều khiếm khuyết. Trong hệ thống pháp luật Việt Nam chỉ có một điều luật duy nhất đề cập đến nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng. Cụ thể là điểm e-khoản 1- Điều 6-Nghị định 63/CP ngày 24/10/1996 của Chính Phủ quy định chi tiết về sở hữu công nghiệp. Chúng ta chưa có quy định cụ thể thế nào là một nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng hay đưa ra các tiêu chí xác định một nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng. Đây chính là khiếm khuyết đầu tiên về mặt pháp lý cần phải giải quyết.

Theo Điều 6 (điểm 1e) - Nghị định 63/CP, Điều 6bis - Công ước Paris sễ được áp dụng khi giải quyết các vấn đề liên quan đến nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng tại Việt Nam. Tuy nhiên, như chúng ta đã biết, những thoả thuận trong Công ước Paris và TRips chỉ mang tính định khung, các quốc gia thành viên cần có quy định cụ thể, phù hợp với những quy định định khung đó. Hầu hết các nước đều ban hành văn bản pháp luật riêng về sở hữu trí tuệ, trong đó khi điều chỉnh nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng có dẫn chiếu tới Công ước Paris, TRips và các văn bản pháp luật quốc tế khác bên cạnh những quy định riêng, cụ thể, phù hợp cho mình. Pháp ban hành Bộ luật sở hữu trí tuệ (Intellectual Property Code), Trung Quốc ban hành Luật nhãn hiệu hàng hoá (Trademark Law), Canada ban hành Luật nhãn hiệu hàng hoá (Trademark Act)...

Một số nước trên thế giới ban hành danh mục các nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng và được bổ sung liên tục hàng năm (như Mỹ, Nhật Bản - Xem danh mục The Japan 300; United State 300). Việc ban hành danh mục các nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, tránh tình trạng tranh chấp phát sinh khi cùng một nhãn hiệu hàng hoá nhưng quốc gia này công nhận là nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng, quốc gia khác lại không công nhận. Đây cũng là một văn bản cần thiết mà Việt Nam cũng cần xem xét để ban hành.

Bên cạnh đó, Việt Nam cũng chưa xác định rõ ràng cơ quan Nhà nước nào có thẩm quyền công nhận một nhãn hiệu hàng hoá là nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng. ở Trung Quốc, Luật nhãn hiệu hàng hoá năm 1996 quy định rõ cơ quan có thẩm quyền giải quyết mọi vấn đề liên quan đến nhãn hiệu hàng hoá nói chung là Phòng nhãn hiệu hàng hoá thuộc Uỷ ban nhà nước về công nghiệp và thương mại (SAIC) còn ở Pháp - Toà án có thẩm quyền này. Điều này gây khó khăn cho các chủ văn bằng bảo hộ/nhà sản xuất khi đưa nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng vào Việt Nam. Đây cũng chính là nguyên nhân, chủ văn bằng bảo hộ/nhà sản xuất cứ “chạy” từ Cục sở hữu công nghiệp sang Cục Bản quyền cho đến khi nào được đăng ký bảo hộ thì thôi. Trong thực tế, thẩm quyền quyền này thuộc về Cục Sở hữu công nghiệp. Bởi vì không có cơ quan nhà nước công nhận nhãn hiệu hàng hoá là nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng cho nên không có “con dấu” xác nhận nhãn hiệu hàng hoá đó đã được Việt Nam công nhận là nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng. Trong khi chủ văn bằng bảo hộ/nhà sản xuất rất cần điều này. Bởi vì, như chúng tôi đã trình bày từ phần đầu, số lượng quốc gia công nhận nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng là một trong các tiêu chí xác định nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng.

Để hoàn thiện cơ sở pháp lý bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng ở Việt Nam, cần khắc phục những khiếm khuyết nêu trên. Chúng ta phải có những quy định cụ thể phù hợp với các văn bản pháp luật quốc tế mà Việt nam tham gia, ký kết. Trước mắt, khi sửa đổi Nghị định 63/CP cần có những quy định đối với nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng: khái niệm, tiêu chí xác định một nhãn hiệu hàng hoá là nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng, quy định thẩm quyền của Cục Sở hữu công nghiệp trong việc xác định nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng. Có như vậy mới khuyến khích được việc đưa nhiều nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng, nhãn hiệu dịch vụ nổi tiếng hơn nữa vào Việt nam. Nói rộng hơn, đây cũng là một biện pháp khuyến khích đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực sở hữu trí tuệ đồng thời bảo hộ chính các nhà sản xuất và người tiêu dùng Việt Nam./.

Ghi chú:

(1) Xem Trang 269, 270 (Phần Pháp) của Tài liệu Famous and Wellknown marks - An international anlysis (Frederick W. Mastert). Butter Worths 1995.

(2) Xem Trang 255, 256 (Phần Trung Quốc) của Tài liệu Famous and Wellknown marks - An international anlysis (Frederick W. Mastert). Butter Worths 1995.

(3) Xem Trang 240 (Phần Canada) của Tài liệu Famous and Wellknown marks - An international anlysis (Frederick W. Mastert). Butter Worths 1995.

(4) + (5) Từ tài liệu của "Hội thảo về vai trò của hệ thống sở hữu trí tuệ trong việc thúc đẩy cạnh tranh ngày càng tăng giữa các doanh nghiệp" ( The asean regional symposeum on the role of the interllectual property system in augmenting interprises competativeness) được tổ chức tại Băngladet từ 22 đến 24/11/1999.

(6) Xem Trang 279 (Phần Pháp) của Tài liệu Famous and Wellknown marks - An international anlysis (Frederick W. Mastert). Butter Worths 1995.

Chủ Nhật, 3 tháng 8, 2008

VÀI NÉT VỀ ĐÀU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM

XT- VPNHNN

image Thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng từ năm 1986, nền kinh tế Việt Nam đã từng bước chuyển sang hoạt động theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập với nền kinh tế thế giới. Trong đó có việc hoàn thiện, nâng Điều lệ đầu tư năm 1977 thành bộ Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987, đã khẳng định sự đúng đắn của chủ trương, đường lối mở cửa kinh tế của Đảng. Nhờ đó, trong 20 năm qua, đầu tư nước ngoài đã không ngừng được mở rộng và phát triển, góp phần quan trọng vào những thành công của công cuộc đổi mới đất nước, cụ thể:

1. Tình hình thu hút vốn đầu tư nước ngoài từ 1988-2007

Cho đến cuối năm 2007, cả nước đã thu hút 9.500 dự án ĐTNN với tổng vốn đăng ký khoảng 98 tỉ USD. Trừ những dự án đã hết thời hạn hoạt động và giải thể trước thời hạn, hiện có 8.590 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký trên 83 tỉ USD. Riêng năm 2007 đã thu hút 20,3 tỉ USD, tăng gần 70% so năm 2006, gần bằng tổng mức ĐTNN trong 5 năm 2001-2005 và chiếm 20% tổng vốn ĐTNN trong 20 năm qua.

Sau 20 năm, vốn ĐTNN đã trải rộng khắp 64 tỉnh, thành phố trong nước, nhất là tại những địa bàn trọng điểm hoặc có lợi thế đầu tư, tập trung chủ yếu vào lĩnh vực công nghiệp (61% vốn đăng ký) và dịch vụ (34,4% vốn đăng ký). Trong đó, vùng kinh tế trọng điểm phía Nam thu hút 44,87 tỉ USD, chiếm 54%; vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc thu hút 24 tỉ USD, chiếm 27%; vùng kinh tế trọng điểm miền Trung thu hút 8,6 tỉ USD, chiếm 6% tổng vốn đăng ký.

Cho tới nay, đã có 82 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư tại Việt Nam. Trong đó, khu vực châu Á chiếm 69% tổng vốn đăng ký, châu Âu chiếm 24%, các nước châu Mỹ chiếm 5%. Hiện có 15 quốc gia có vốn đăng ký trên 1 tỉ USD, đứng đầu là Hàn Quốc (trên 13 tỉ USD), thứ hai là Singapore (10,7 tỉ USD), thứ ba là Đài Loan (10,5 tỉ USD), thứ tư là Nhật Bản (9 tỉ USD), thứ năm là British Virgin Islands (8 tỉ USD).

Trong số những dự án còn hiệu lực, có khoảng 50% dự án triển khai với tổng vốn đầu tư thực hiện đạt 30 tỉ USD. Đứng đầu là Nhật Bản với lượng vốn giải ngân đạt gần 5 tỉ USD, tiếp theo là Singapore với lượng vốn giải ngân đạt 3,8 tỉ USD, thứ ba là Đài Loan với lượng vốn giải ngân đạt 3 tỉ USD.

Trong 20 năm qua, ĐTNN đã đóng góp đáng kể cho phát triển kinh tế, từ mức đóng góp trung bình 6,3% GDP trong giai đoạn 1991-1995 lên 10,3% GDP trong giai đoạn 1996-2000 và 14,6% GDP trong giai đoạn 2001-2005, riêng các năm 2006 và 2007 đạt 17% GDP.

Giá trị doanh thu tăng từ 4,1 tỉ USD trong giai đoạn 1991-1995 lên 77,4 tỉ USD trong giai đoạn 2001-2005, giá trị xuất khẩu trong giai đoạn 2001-2005 đạt trên 34,6 tỉ USD, tăng gấp 3 lần so với giai đoạn 1996-2000. Năm 2006, giá trị xuất khẩu của khu vực có vốn ĐTNN đạt 22,6 tỉ USD (kể cả dầu thô), chiếm trên 56% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước.

2. Tác động của đầu tư nước ngoài đối với nền kinh tế

Có thể nói, khu vực kinh tế có vốn ĐTNN đã khẳng định được vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt nam và là khu vực có tốc độ phát triển năng động nhất.

ĐTNN là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho vốn đầu tư, đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế và nâng cao năng lực sản xuất công nghiệp, thúc đẩy quá trình chuyển giao công nghệ…. Tốc độ tăng trưởng công nghiệp của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN thường cao hơn tốc độ tăng trưởng công nghiệp chung của cả nước, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa và tăng tỉ trọng công nghiệp trong cơ cấu GDP từ 23,7% năm 1991 lên 40% năm 2004. Đến nay, khu vực kinh tế có vốn ĐTNN chiếm khoảng 35% giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước, thậm chí đạt 65-70% tại một số địa phương như Bình Dương, Đồng Nai, Vĩnh Phúc. Đáng chú ý, ĐTNN đã góp phần tăng cường năng lực của nhiều ngành công nghiệp như dầu khí, công nghệ thông tin, viễn thông, cơ khí, hóa chất, điện tử, một số sản phẩm nông – lâm nghiệp có hàm lượng kỹ thuật cao và nhiều loại giống cây trồng, vật nuôi mới với năng suất cao.

Nhìn chung, trình độ công nghệ của khu vực ĐTNN cao hơn hoặc bằng các thiết bị tiên tiến đã có trong nước và tương đương các nước trong khu vực. Hầu hết, các doanh nghiệp có vốn ĐTNN đều áp dụng phương thức quản lý tiên tiến, được kết nối với hệ thống quản lý hiện đại từ công ty mẹ. Thông qua sự liên kết giữa doanh nghiệp có vốn ĐTNN với các doanh nghiệp trong nước, công nghệ và năng lực kinh doanh được chuyển giao và lan tỏa đến các thành phần khác của nền kinh tế.

ĐTNN đóng góp quan trọng vào tăng thu NSNN và các cân đối vĩ mô, tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động. Mức đóng góp của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN vào ngân sách thời kỳ 1996-2000 tăng gấp 4,5 lần so với thời kỳ 5 năm trước và tăng bình quân 24% trong 5 năm 2001-2005, góp phần đảm bảo cân đối ngân sách và những đối lớn trong nền kinh tế như cải thiện cán cân vãng lai, cán cân thanh toán quốc tế thông qua việc chuyển vốn quốc tế vào Việt Nam và tăng nguồn thu ngoại tệ gián tiếp qua khách quốc tế, tiền thuê đất, mua máy móc và nguyên vật liệu. Cho tới cuối năm 2007, khu vực kinh tế có vốn ĐTNN tạo việc làm cho khoảng 1,26 triệu lao động trực tiếp và hàng triệu lao động gián tiếp.

ĐTNN góp phần giúp Việt Nam tiếp cận và mở rộng thị trường quốc tế, nâng cao năng lực xuất khẩu. Kim ngạch xuất khẩu của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN tăng nhanh hơn mức bình quân chung của cả nước, đóng góp quan trọng vào việc gia tăng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Thời kỳ 1996-2000, kim ngạch xuất khẩu của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN đạt 10,6 tỉ USD (không kể dầu thô), tăng 8 lần so với 5 năm trước và chiếm 23% kim ngạch xuất khẩu của cả nước, tỉ trọng này tăng mạnh và hiện nay chiếm trên 55%.

ĐTNN góp phần mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, đẩy nhanh quá trình tự do hóa thương mại và đầu tư. Đến nay, Việt Nam là thành viên chính thức của ASEAN, APEC, ASEM và WTO. Ngoài ra, Việt Nam đã ký kết 51 hiệp định song phương và đa phương về khuyến khích và bảo hộ đầu tư.

Liên quan đến ngành Ngân hàng, chính sách quản lý ngoại hối đối với hoạt động ĐTNN đã có những thay đổi cơ bản, phù hợp với tình hình mới và thông lệ quốc tế. Trên cơ sở Luật ĐTNN năm 2000, nhà ĐTNN được mở và sử dụng tài khoản bằng ngoại tệ và VND tại các TCTD được phép để đáp ứng nhu cầu đối với các giao dịch vãng lai, được mở tài khoản ngoại tệ nước ngoài trong trường hợp cần thiết; nhà ĐTNN được tự do mua bán ngoại tệ với TCTD để đáp ứng nhu cầu về giao dịch vãng lai, giao dịch vốn và những giao dịch khác theo qui định. Chính phủ Việt Nam cam kết và bảo lãnh ngoại tệ đối với một số dự án đặc biệt quan trọng trong lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng, năng lượng, v.v. Trên cơ sở đó, NHNN xây dựng cơ chế đặc biệt về bảo lãnh chuyển đổi ngoại tệ đối với những dự án này. Trong trường hợp các ngân hàng chuyển đổi không có đủ ngoại tệ đáp ứng nhu cầu dự án, NHNN sẽ đáp ứng đầy đủ, kịp thời lượng ngoại tệ thiếu hụt này. Nghĩa vụ kết hối ngoại tệ cũng bị xóa bỏ và nhà ĐTNN được tự chủ ký kết các hợp đồng vay, trả nợ nước ngoài nếu phù hợp với các qui định của NHNN, không phải thông qua khâu xem xét, chấp thuận của NHNN như trước đây. Trên cơ sở Luật Đầu tư áp dụng chung cho tất cả các loại hình doanh nghiệp tại Việt Nam, NHNN đang hoàn thiện dự thảo Thông tư hướng dẫn Nghị định 160/2006/NĐ-CP nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng một môi trường pháp lý đồng bộ và bền vững và tạo thuận lợi cho nhà ĐTNN.

Bên cạnh những kết quả đạt được, ĐTNN tại Việt Nam trong thời gian qua còn một số tồn tại cần giải quyết:

– Tỉ trọng vốn ĐTNN trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội giảm dần do vốn ĐTNN thực hiện tăng chậm hơn so với vốn đầu tư của những thành phần kinh tế khác, lợi thế về chi phí sử dụng vốn ĐTNN chưa cao do vốn vay từ các ngân hàng trong nước chiếm tới 30% vốn ĐTNN thực hiện;

– Đầu tư từ các nước phát triển có thế mạnh về công nghệ như Hoa Kỳ, EU tăng chậm;

– Việc phân bổ luồng vốn ĐTNN theo ngành và địa phương còn một số bất hợp lý, tập trung chủ yếu vào những địa phương có điều kiện thuận lợi, trong khi tác động rất ít đến khu vực miền núi phía Bắc, các tỉnh miền Trung, Tây Nguyên và khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long. Mặc dù có chính sách ưu đãi nhưng lĩnh vực nông – lâm nghiệp chỉ thu hút được một lượng vốn rất thấp và tỉ trọng vốn ĐTNN đăng ký vào lĩnh vực này liên tục giảm;

– Sự liên kết giữa khu vực ĐTNN và kinh tế trong nước còn lỏng lẻo, khả năng của các doanh nghiệp trong nước trong việc cung cấp nguyên liệu và phụ kiện cho các doanh nghiệp có vốn ĐTNN còn hạn chế, làm giảm khả năng tham gia vào chương trình nội địa hóa và xuất khẩu qua các doanh nghiệp có vốn ĐTNN. Do phải nhập khẩu nhiều thiết bị, máy móc cũng như nguyên vật liệu để gia công, sản xuất hàng xuất khẩu, nên khu vực ĐTNN luôn trong tình trạng thâm hụt thương mại với mức thâm hụt ngày càng tăng;

– Môi trường pháp lý tuy đã được cải thiện đáng kể, nhưng còn nhiều bất cập và còn có sự phân biệt đối xử so với các doanh nghiệp trong nước, mỗi địa phương lại có chính sách khác nhau, cơ sở hạ tầng thiếu đồng bộ và giá thuê nhà đất còn cao, gây khó khăn cho việc triển khai các dự án có vốn ĐTNN.

Để đảm bảo dòng vốn ĐTNN cho phát triển kinh tế trong nước, Chính phủ đã chỉ đạo thực hiện những giải pháp chủ yếu sau đây:

Thứ nhất, tập trung hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế chính sách theo hướng phù hợp với lộ trình hội nhập quốc tế đã cam kết, góp phần tạo môi trường thuận lợi để huy động nguồn lực của mọi thành phần kinh tế cho đầu tư phát triển. Theo dõi và giám sát việc thi hành pháp luật về đầu tư và hoạt động doanh nghiệp để kịp thời phát hiện và xử lý những vướng mắc phát sinh. Đồng thời, nâng cao hiệu lực quản lý thị trường, nhất là thị trường tiền tệ, thị trường chứng khoán và thị trường bất động sản, đảm bảo ổn định giá cả và các chỉ số kinh tế vĩ mô trong bối cảnh hội nhập với những diễn biến phức tạp và tác động khó lường của thị trường quốc tế.

Thứ hai, tiếp tục đổi mới quản lý hành chính theo cơ chế “một cửa” trong việc giải quyết thủ tục và cấp giấy phép đầu tư. Xứ lý kịp thời và dứt điểm những vướng mắc trong quá trình cấp phép và điều chỉnh giấy chứng nhận đầu tư. Tăng cường cơ chế phối hợp quản lý ĐTNN giữa trung ương và địa phương và giữa các bộ, ngành liên quan. Nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ, công chức nhằm đảm bảo thực hiện nhiệm vụ theo qui định tại Luật Đầu tư và những qui định mới về phân cấp quản lý ĐTNN.

Thứ ba, tập trung các nguồn lực để đầu tư, nâng cấp cơ sở hạ tầng nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư trong việc triển khai các hoạt động đầu tư tại Việt Nam, có chính sách thích hợp về khuyến khích tư nhân và các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư xây dựng các công trình hạ tầng.

Thứ tư, coi trọng và tăng cường đào tạo nguồn nhân lực, đáp ứng tốt hơn yêu cầu của các doanh nghiệp và các thành phần kinh tế. Nâng cao hiệu quả hoạt động khoa học công nghệ, tạo ra bước đột phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách về lao động, tiền lương, nâng cao nhận thức chấp hành pháp luật về sở hữu trí tuệ.

Thứ năm, tiếp tục rà soát, cập nhật, bổ sung danh mục thu hút đầu tư phù hợp với nhu cầu đầu tư và qui hoạch phát triển ngành, địa phương. Sớm thành lập bộ phận xúc tiến đầu tư tại những địa bàn trọng điểm và xây dựng cơ chế phối hợp giữa các cơ quan xúc tiến đầu tư và hoạt động thương mại, nhằm tạo sự đồng bộ và nâng cao hiệu quả giữa các hoạt động này, kết hợp chặt chẽ các chuyến công tác của các nhà lành đạo cấp cao với các hoạt động xúc tiến đầu tư và thương mại.

Thứ sáu, chuyển dịch cơ cấu đầu tư theo hướng công nghệ hóa, hiện đại hóa, mở rộng ĐTNN theo hướng đa dạng hóa và đa phương hóa. Nâng cao chất lượng qui hoạch ĐTNN phù hợp với qui hoạch phát triển ngành, lãnh thổ, chiến lược sản phẩm, thị trường tiêu thụ và chiến lược hội nhập trong từng thời kỳ. Cải tiến bộ máy quản lý nhằm nâng cao hiệu lực quản lý và hiệu quả kinh doanh. Thúc đẩy các hoạt động hỗ trợ, xúc tiến đầu tư, bảo đảm quyền sở hữu trí tuệm, tạo điều kiện chuyển giao công nghệ, chống độc quyền và bảo đảm cạnh tranh lành mạnh.

Thứ bảy, xây dựng hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu tốt về ĐTNN và các giao dịch vốn cũng như những biện pháp quản lý và tập hợp dữ liệu, từng bước tự do hóa giao dịch vốn.

SOURCE: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

Trích dẫn từ: http://www.sbv.gov.vn/vn/home/tinnghiencuu.jsp?tin=488

Bài đăng phổ biến