Thứ Hai, 28 tháng 5, 2012

Tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân thì phải chia khi ly hôn

tai san hon nhan
        Bà N. và ông M. kết hôn năm 1979, chung sống hạnh phúc đến năm 1999 thì phát sinh mâu thuẫn. Năm 2002, ông bà được tòa án giải quyết cho ly hôn và giải quyết xong phần con cái. Riêng phần tài sản thì vẫn chưa giải quyết xong. Nay bà N. yêu cầu tòa án phân chia tài sản chung giữa bà và ông M.

       Theo bà N., vợ chồng bà đã tạo lập được hơn 12.000 m2 đất, chia làm ba phần. Phần thứ nhất (7.000 m2) do vợ chồng bà mua trả góp năm 1982 với giá 150 giạ lúa, thời hạn trả góp là năm năm. Phần thứ hai (4.000 m2) do vợ chồng bà mua năm 1983 với giá 3,5 chỉ vàng, trên đất có một căn nhà và một số cây tràm. Phần thứ ba (hơn 1.000 m2) do ông M. khai phá trước khi kết hôn, khi về chung sống thì vợ chồng bà trực tiếp sử dụng cho đến nay. Bà N. cho rằng vợ chồng bà đã trực tiếp sử dụng hơn 12.000 m2 nói trên đến khi hai người ly hôn. Vì vậy, đây là tài sản chung và phải chia đôi.

       Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với toàn bộ phần đất tranh chấp chỉ do ông M. đứng tên. Ông M. chỉ đồng chí chia phần đất thứ hai (4.000 m2) do vợ chồng ông mua năm 1983. Đối với hơn 8.000 m2 đất còn lại, ông M. cho rằng mình chỉ đứng tên giùm trên giấy tờ thay cho cha mẹ ruột của ông. Đây là tài sản riêng của cha mẹ ông nên không thể phân chia được.

       Xét xử sơ thẩm vụ án, TAND huyện Củ Chi (TP.HCM) chấp nhận yêu cầu chia tài sản của bà N. Cấp sơ thẩm nhận định đây là tài sản chung của vợ chồng nên ông M. phải chia bà N. hơn 6.000 m2 đất trong tổng số hơn 12.000 m2 diện tích đất tranh chấp. Bà N. có quyền liên hệ với cơ quan chức năng để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất phần đất được chia. Cấp sơ thẩm cũng kiến nghị UBND huyện Củ Chi thu hồi giấy đỏ đã cấp cho ông M. để điều chỉnh lại diện tích đất.

Cách giải quyết tranh chấp của TAND huyện Củ Chi được TAND TP.HCM đồng tình khi phúc thẩm vụ án.
Trả lời khiếu nại của ông M., TAND Tối cao cũng cho rằng đây là tài sản chung. Ông M. và bà N. kết hôn năm 1979 và phần đất nói trên có trong thời kỳ hôn nhân. Ông M. không có chứng cứ gì chứng minh đây là tài sản riêng của ông. Phần đất tranh chấp nói trên là tài sản chung của vợ chồng nên phải được chia.

KINH NGHIỆM PHÁP LÝ:
        Điều 27 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 quy định: “Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân… Trong trường hợp không có chứng cứ chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó là tài sản chung”.
Ông M. không chứng minh được phần tài sản tranh chấp là tài sản riêng nên về nguyên tắc, đó là tài sản chung và phải chia.
(Theo Báo pháp luật TP HCM online)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Bài đăng phổ biến