Hiển thị các bài đăng có nhãn CHÍNH SÁCH VÀ PHÁP LUẬT VỀ GIA ĐÌNH. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn CHÍNH SÁCH VÀ PHÁP LUẬT VỀ GIA ĐÌNH. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Bảy, 18 tháng 10, 2008

GIẢI QUYẾT QUYỀN LỢI CỦA VỢ CHỒNG ĐỐI VỚI NHÀ, ĐẤT THUÊ CỦA NHÀ NƯỚC

 TƯỞNG DUY LƯỢNG - Chánh tòa Dân sự, Tòa án nhân dân tối cao

1. Phải xác định giá trị quyền thuê nhà ở thuộc sở hữu nhà nước là tài sản chung của vợ chồng

Trong nhiều vụ án ly hôn, hai bên đương sự tranh chấp với nhau về quyền thuê nhà của Nhà nước. Đương sự nào cũng yêu cầu được sử dụng diện tích nhà đang thuê củaNhà nước. Đối với trường hợp vợ chồng vừa có quyền sở hữu nhà đất, vừa có diện tích nhà thuê của Nhà nước thì trước năm 2001 các tòa án đều không coi quyền thuê nhà của Nhà nước là tài sản chung của vợ chồng. Sau năm 2001, mặc dù đã có Nghị định 70/2001/NĐ-CP ngày 3/10/2001 của Chính phủ nhưng khi giải quyết, nhiều tòaán vẫn tỏ ra lúng túng, có không ít trường hợp tòa án không coi quyền thuê nhà là tài sản chung vợ chồng, nên không xác định giá trị để chia. Đây là một điều không hợp lý, dưới đây là một ví dụ:

Chị Phạm Thị Thanh, trú tại 38 Đại lộ Hồ Chí Minh, thành phố HD ly hôn anh Nguyễn Đình Chuyền, hiện đang cư trú tại Cộng hòa Liên bang Nga.

Năm 2000, vợ chồng chị Thanh, anh Chuyền mua “hỏa hồng”, mà thực chất là nhận chuyển nhượng quyền thuê nhà của Nhà nước đối với căn nhà số 69 Đại lộ Hồ Chí Minh - là nhà 3 tầng, diện tích 26,7 m2, chiều ngang theo mặt đường là 2,06m - với giá 395.000.000 đồng. Ngày 20/02/2001 anh Chuyền đứng tên hợp đồng thuê căn nhà này với cơ quan quản lý nhà của Nhà nước.

Trong quá trình giải quyết vụ án, tòa án đã tiến hành định giá vào đầu năm 2004 thìtheo giá nhà do Nhà nước bán cho người đang ở thuê thì căn nhà này có giá là 37.500.000 đồng; trong khi đó giá chuyển nhượng thực tế theo thị trường là 1.200.000.000 đồng.

Khi giải quyết tranh chấp quyền sử dụng căn nhà này, Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân tỉnh HD có nhiều quan điểm khác nhau:

Quan điểm thứ nhất: Căn nhà số 38 Đại Lộ Hồ Chí Minh, thành phố HD hiện đang là nhà thuộc sở hữu nhà nước, chưa phải là tài sản chung vợ chồng, cần chờ Nhà nước hóa giá sang tên cho vợ chồng lúc đó mới đem ra chia.

Quan điểm thứ hai: Xác định giá trị căn nhà theo giá thị trường, coi giá trị đó là tài sản chung vợ chồng. Giao nhà cho bên nào thì bên đó phải thanh toán tài sản cho bên kia.

Quan điểm thứ ba: Lấy giá thị trường trừ đi giá tiền sẽ phải thanh toán cho Nhà nước (khi hóa giá) phần còn lại là tài sản chung của vợ chồng. Giao nhà cho bên nào sử dụng thì bên đó phải thanh toán chênh lệch cho bên kia.

Chúng tôi cho rằng quyền sử dụng nhà thuê là một quyền về tài sản, trên thực tế Nhà nước đã thừa nhận việc chuyển nhượng quyền thuê nhà thuộc sở hữu nhà nước. Đặc biệt gần đây Chính phủ vừa ban hành Nghị định 70/2001/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật hôn nhân và gia đình, tại Điều 28 Nghị định này có quy định: “Việc giải quyết quyền lợi của vợ chồng khi ly hôn đối với nhà ở do vợ hoặc chồng hoặc cả vợ và chồng được thuê của Nhà nước trước hoặc sau khi kết hôn, được thực hiện theo quy định sau đây:

1. Trong trường hợp hợp đồng thuê nhà ở vẫn còn thời hạn, thì các bên thỏa thuận về việc tiếp tục thuê nhà ở đó; nếu các bên không thỏa thuận được và cả hai bên đều có nhu cầu sử dụng, thì được tòa án giải quyết theo quy định tại Điều 95 của Luật Hôn nhân và gia đình.

Trong trường hợp vợ chồng đã nâng cấp, sửa chữa, cải tạo nhà thuê của Nhà nước hoặc xây dựng mới trên diện tích có nhà thuê của Nhà nước, thì khi ly hôn, việc chia quyền sử dụng nhà ở và phần diện tích nâng cấp, sửa chữa, cải tạo, xây dựng mới do các bên thoả thuận; nếu không thỏa thuận được, thì được tòa án giải quyết theo quy định tại Điều 95 của Luật hôn nhân và gia đình. Nếu chỉ một bên có nhu cầu sử dụng, thì bên sử dụng phải thanh toán cho bên kia phần giá trị quyền thuê nhà của Nhà nước và một phần giá trị nhà đã nâng cấp, cải tạo, sửa chữa, xây dựng mới mà bên đó được hưởng vào thời điểm chia tài sản khi ly hôn.

2. Trong trường hợp vợ chồng đã được Nhà nước chuyển quyền sở hữu đối với nhà ở đó, thì việc chia nhà khi ly hôn được thực hiện theo quy định tại Điều 95 của Luật Hôn nhân và gia đình. Như vậy, giá trị quyền thuê nhà đối với nhà ở của Nhà nước do vợ hoặc chồng hoặc cả vợ và chồng được thuê của Nhà nước trước hoặc sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng (trường hợp hợp đồng thuê nhà ở còn thời hạn thuê trong hợp đồng hoặc còn quyền thuê nhà trên thực tế). Đối với trường hợp hợp đồng thuê nhà đã hết, thì phải hỏi ý kiến của cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý nhà cho thuê, nếu cơ quan đó cho biết vẫn công nhận cho chủ đã ký hợp đồng thuê vẫn tiếp tục được thuê, vẫn thu tiền thuê nhà thì cũng coi giá trị quyền thuê nhà là tài sản chung. Do đó, khi ly hôn Tòa án phải áp dụng Điều 95 Luật Hôn nhân và gia đình để giải quyết. Trường hợp diện tích nhà không thể phân chia quyền sử dụng được hoặc một bên đương sự chỉ xin chia giá trị, thì Tòa án giao nhà cho bên có nhu cầu sử dụng và buộc bên được Tòa án giao quyền sử dụng nhà phải thanh toán cho bên kia một phần giá trị quyền thuê nhà tương ứng với quyền lợi của họ.

Việc xác định giá trị quyền thuê nhà (thuộc sở hữu nhà nước) là tài sản chung trước hết cũng phải căn cứ vào giá trị chuyển nhượng quyền thuê nhà của căn nhà đó (bao gồm cả giá trị quyền sử dụng đất) theo giá thị trường là bao nhiêu? Phần giá trị đó là tài sản chung của vợ chồng. Trở lại vụ án trên, nếu giá trị chuyển nhượng quyền thuê nhà số 69 Đại lộ Hồ Chí Minh là 1,2 tỷ đồng thì 1,2 tỷ đồng là tài sản chung; nếu giá trị 1,2 tỷ đồng là giá trị chuyển quyền sở hữu nhà thì phần giá trị thuộc tài sản chung vợ chồng sẽ là 1,2 tỷ đồng - 37.500.000đ.

2. Giải quyết quyền sử dụng đất mà vợ chồng được Nhà nước cho thuê

Quyền sử dụng đất là một quyền về tài sản đã được ghi nhận trong Bộ luật Dân sự. Theo quy định tại Điều 25 Nghị định 70/2001/NĐ-CP nói trên của Chính phủ thì sau khi kết hôn, quyền sử dụng đất mà cả vợ và chồng hoặc chỉ một bên vợ hoặc chồng được Nhà nước cho thuê là tài sản chung của vợ chồng. Do đó, khi vợ chồng ly hôn thì quyền sử dụng đất được Nhà nước cho thuê xử lý như sau:

- Nếu vợ chồng đã trả tiền thuê đất hàng năm mà khi ly hôn, nếu cả 2 vợ chồng đều có nhu cầu và điều kiện trực tiếp sử dụng đất thì việc phân chia quyền sử dụng đất được thực hiện theo quy định của Điều 95 Luật Hôn nhân và gia đình. Sau khi được Tòa án xác định quyền sử dụng đất cho mỗi bên thì các bên phải ký hợp đồng thuê với Nhà nước. Nếu chỉ có một bên có nhu cầu và có điều kiện trực tiếp sử dụng đất thì bên đó được tiếp tục sử dụng.

- Trong trường hợp vợ chồng đã trả tiền thuê đất cho cả thời gian thuê, thì khi ly hôn, các bên thỏa thuận về việc sử dụng đất đó và thanh toán cho nhau phần tiền thuê đất đã nộp trong thời hạn thuê còn lại.

Trong trường hợp một bên được sử dụng toàn bộ diện tích đất, thì phải thanh toán cho bên kia một nửa số tiền thuê đất tương ứng với thời gian thuê đất còn lại, kể từ thời điểm chia tài sản khi ly hôn.

Tuy nhiên, theo chúng tôi đối với trường hợp quyền sử dụng đất thuê của Nhà nước được đem chuyển nhượng quyền thuê quyền sử dụng đất được cơ quan có thẩm quyền cho phép thì giá trị chuyển nhượng quyền thuê quyền sử dụng đất cũng được coi là tài sản chung của vợ chồng.

Căn cứ vào Điều 714 Bộ luật dân sự trong trường hợp vợ chồng cho thuê lại quyền sử dụng đất thuê (đối với trường hợp pháp luật không có quy định khác) thì giá trị cho thuê lại quyền sử dụng đất cho thuê cũng được coi là tài sản chung của vợ chồng. Việc phân chia giá trị nói trên được giải quyết theo tinh thần của Điều 95 Luật Hôn nhân và Gia đình.

Cần lưu ý khi giải quyết các tranh chấp về quyền thuê nhà và quyền thuê quyền sử dụng đất, nếu các bên đã đầu tư tài sản vào nhà, đất (sửa chữa, nâng cấp đối với nhà, xây dựng, cải tạo đối với đất v.v..) thì phải xác định phần đầu tư này là tài sản chung của vợ chồng và giải quyết theo quy định của Điều 95 Luật Hôn nhân và gia đình.

SOURCE: TẠP CHÍ KHOA HỌC PHÁP LÝ SỐ 2 (39) NĂM 2007

Thứ Tư, 18 tháng 6, 2008

MỘT SỐ TỒN TẠI, VƯỚNG MẮC VỀ VẤN ĐỀ NUÔI CON NUÔI THEO NGHỊ ĐỊNH SỐ 68/2002/NĐ-CP NGÀY 10 THÁNG 7 NĂM 2002 CỦA CHÍNH PHỦ

PHẠM VĂN CHUNG

Thực hiện các văn bản của Chính phủ và Bộ Tư pháp về vấn đề nuôi con nuôi. Trong những năm vừa qua các Sở Tư pháp đã tích cực tham mưu UBND các tỉnh, thành phố ban hành các văn bản về công tác nuôi con nuôi và quan tâm triển khai đưa công tác này vào thực tế cuộc sống. Do vậy việc quản lý và giải quyết vấn đề nuôi con nuôi trong nước, nuôi con nuôi quốc tế thời gian quan đã được thực hiện đúng theo quy định của pháp luật, đáp ứng tốt nhu cầu về nuôi con nuôi của người dân trên địa bàn cả nước.

Tuy nhiên, qua hơn 5 năm thực hiện các văn bản của Chính phủ về vấn đề nuôi con nuôi nói chung và nuôi quốc tế nói riêng. Đặc biệt là từ khi ban hành Nghị định 68/2002/NĐ-CP ngày 10/7/2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật hôn nhân và Gia đình về quan hệ hôn nhân gia đình có yếu tố nước ngoài (sau đây gọi tắt là NĐ 68), chúng tôi nhận thấy có một số khó khăn, vướng mắc sau đây:

         - Về cơ sở nuôi dưỡng: Theo quy định của NĐ 68 thì Cơ sở nuôi dưỡng để giải quyết cho trẻ em làm con nuôi của người nước ngoài phải là cơ sở nuôi dưỡng được thành lập hợp pháp. Tuy nhiên, một số địa phương như tỉnh Kon Tum thì hiện có nhiều cơ sở nuôi dưỡng; trong đó các cơ sở nuôi dưỡng của các tổ chức tôn giáo, các cơ sở này đã được hình thành từ trước giải phóng. Nhà nước ta không thành lập các cơ sở nay, nhưng các cơ sở này vẫn tồn tại và hoạt động, trong đó hoạt động nuôi dạy trẻ. Người nước ngoài đến Kon Tum chủ yếu xin trẻ em từ cơ sở này làm con nuôi. Theo thủ tục của Nghị định số 184, việc giải quyết các trường hợp này là bình thường. Nay, theo quy định mới, hồ sơ của trẻ em do cơ sở nuôi dưỡng thành lập theo hướng dẫn của Sở Tư pháp. Tuy nhiên, vì là tổ chức tự quản, nên tư cách của cơ sở, tổ chức, hoạt động của cơ sở không rõ ràng, việc giao dịch với Sở Tư pháp trong việc lập hồ sơ là không đảm bảo theo yêu cầu chung.

- Về trình tự chuẩn bị hồ sơ của trẻ em được xin đích danh: Theo quy định sau khi nhận được yêu cầu của cơ quan con nuôi quốc tế Việt Nam, Sở Tư pháp có trách nhiệm hướng dẫn cơ sở nuôi dưỡng trẻ em (nếu trẻ em được xin đích danh từ cơ sở nuôi dưỡng) hoặc cha, mẹ, người giám hộ của trẻ em (nếu trẻ em được xin đích danh từ gia đình) lập hồ sơ của trẻ em. Tuy nhiên, khi hướng dẫn lập hồ sơ còn gặp vướng mắc, cụ thể là khoản 3, Điều 44 của NĐ 68 quy định: “Sau khi đã được thông báo và nhận thức một cách rõ ràng về hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, những người sau đây có quyền ký giấy đồng ý cho trẻ em làm con nuôi”. Vấn đề hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài hiện trong NĐ 68 chưa có quy định cụ thể. Tuy nhiên, khi thực hiện thì có thể hiểu rằng hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài là hệ quả pháp lý của hình thức nuôi con nuôi “Trọn vẹn” hay hình thức “Đơn giản(theo mẫu số TP/HTNNg-2003-CN.2 và mẫu TP/HTNNg-2003-CN.2.a ban hành kèm theo Quyết định số 15/2003/QĐ-BTP ngày 12 tháng 02 năm 2003 của Bộ Tư pháp). Nhưng để thiết lập hồ sơ, khi hướng dẫn, Sở Tư pháp chưa có đủ cơ sở pháp lý để giải thích rằng thế nào là hình thức cho con nuôi “Trọn vẹn” hay hình thức “Đơn giản”. Vấn đề này cần có quy định hướng dẫn rõ ràng và cụ thể, để có cơ sở thống nhất thực hiện.

- Việc giao nhận con nuôi: Khoản 2 Điều 49 của Nghị định số 68 quy định: “Việc giao nhận con nuôi được tổ chức tại trụ sở Sở Tư pháp, với sự có mặt của đại diện Sở Tư pháp; trẻ em được nhận làm con nuôi; bên nhận là cha, mẹ nuôi; bên giao là đại diện cơ sở nuôi dưỡng, nếu trẻ em được xin nhận làm con nuôi từ cơ sở nuôi dưỡng hoặc cha, mẹ đẻ, người giám hộ của trẻ em, nếu trẻ em được xin nhận làm con nuôi từ gia đình”. Như vậy, việc giao nhận con nuôi được tổ chức tại Sở Tư pháp với sự tham gia của “04 bên”, trong đó biên giao, nếu trẻ em được xin nhận làm con nuôi từ cơ sở nuôi dưỡng thì có đại diện cơ sở nuôi dưỡng, nếu trẻ em được xin nhận làm con nuôi từ gia đình thì cha, mẹ đẻ, người giám hộ của trẻ phải có mặt tại buổi giao nhận. Tuy nhiên, những trường hợp trẻ em sống ở cơ sở nuôi dưỡng, nhưng còn cha, mẹ thì tại buổi giao nhận con nuôi, ngoài sự có mặt của người đại diện cơ sở nuôi dưỡng, việc có hay không có sự có mặt của cha, mẹ đẻ của trẻ lại chưa được quy định rõ ràng, cụ thể. Theo chúng tôi, vì điều kiện nào đó, cha, mẹ mới phải đồng ý cho con mình làm con nuôi người nước ngoài, trong trường hợp này tại buổi giao nhận con nuôi rất cần thiết sự có mặt cha, mẹ của trẻ, làm cơ sở để Sở Tư pháp kiểm tra lại tính xác thực của việc thoả thuận của cha, mẹ trẻ cho con làm con nuôi người nước ngoài. Vì NĐ 68 quy định trường hợp này khi đồng ý cho trẻ làm con nuôi mặc dù người đứng đầu cơ sở nuôi dưỡng có quyền đồng ý, nhưng vẫn còn phải có sự đồng ý bằng văn bản của cha, mẹ đẻ của trẻ em đó.

- Vấn đề công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài xin nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi:  Điều 79 áp dụng Nghị định trong một số trường hợp đặc biệt, khoản 1 quy định: “Các quy định của Nghị định này cũng được áp dụng để giải quyết việc đăng ký kết hôn, nhận cha, mẹ, con, nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với nhau mà một biên hoặc cả hai bên định cư ở nước ngoài. Trong trường hợp công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi thì không bị giới hạn về đối tượng trẻ em được nhận làm con nuôi theo quy định tại khoản 2 Điều 36 của Nghị định này”. Về nguyên tắc giải quyết việc cho nhận con nuôi, theo NĐ 68 thì chúng ta chỉ giải quyết cho nhận trẻ em có quốc tịch Việt Nam làm con nuôi, nếu Việt Nam và nước nơi người xin nhận con nuôi thường trú đã ký kết hoặc cùng gia nhập điều ước quốc tế về hợp tác nuôi con nuôi. Trừ trường hợp đặc biệt ngoại lệ áp dụng cho người nước ngoài. Như vậy, trường hợp công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài, nước mà chưa ký kết Hiệp định về nuôi con nuôi với Việt Nam xin nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi, thì có phải tuân thủ nguyên tắc trên hay không? Nếu không phải áp dụng, thì trình tự giải quyết được thực hiện như thế nào?

- Trẻ em được cho nhận làm con nuôi. Theo quy định, trẻ em Việt Nam được nhận làm con nuôi phải là trẻ em từ mười lăm tuổi trở xuống. Trẻ em trên mười lăm tuổi (từ 16 tuổi trở xuống - theo Luật chăm sóc và bảo vệ trẻ em) có thể được nhận làm con nuôi nếu là trẻ em tàn tật hoặc mất năng lực hành vi dân sự. Trong khi Luật Hôn nhân và gia đình quy định người trên mười lăm tuổi có thể được nhận làm con nuôi nếu là thương binh, người tàn tật, người mất năng lực hành vi dân sự hoặc làm con nuôi của người già yếu cô đơn. Như vậy, theo tinh thần của Luật người được nhận làm con nuôi trong trường hợp này lại giới hạn về độ tuổi (trẻ em trên 15 tuổi, tức là người lớn hơn 15 tuổi nhưng nhỏ hơn 16 tuổi) thì được giải quyết. Vấn đề này có ảnh hưởng đến việc giải quyết một số trường hợp như cô, chú, bác... định cư ở nước ngoài xin nhận cháu của mình còn ở trong nước có hoàn cảnh như đã nêu làm con nuôi mà các địa phương đã gặp.

Để tiếp tục thực hiện có hiệu quả NĐ 68 trong thời gian tới đề nghị Bộ Tư pháp có văn bản hướng dẫn việc giải quyết cho người Việt Nam định cư ở các nước chưa ký với Việt Nam Hiệp định về nuôi con nuôi, tạo cơ sở pháp lý cho việc giải quyết khi có yêu cầu. Đồng thời, Bộ Tư pháp cần có hướng dẫn đối với các vấn đề mà các địa phương còn vướng mắc như đã đề cập ở trên./.

SOURCE: http://www.moj.gov.vn/p/tag.idempotent.render.userLayoutRootNode.target.n420.uP

Thứ Năm, 12 tháng 6, 2008

DƯ LUẬN XÃ HỘI VỀ HÔN NHÂN CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI

TS. HOÀNG BÁ THỊNH - Bộ môn Xã hội học Giới và Gia đình - Trường Đại học KHXH và NV, ĐHQG Hà Nội.

1. Định nghĩa Hôn nhân có yếu tố nước ngoài.

Trong điều 8 (Giải thích từ ngữ) của Luật Hôn nhân và gia đình (năm 2000) có định nghĩa quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài, như sau:

Quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài là quan hệ hôn nhân và gia đình: a) giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài; b) giữa người nước ngoài với nhau thường trú tại Việt Nam; c) giữa công dân Việt Nam với nhau mà căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài”.

Trong bài viết này, chúng tôi xem vấn đề hôn nhân có yếu tố nước ngoài ở nghĩa thứ nhất của thuật ngữ này, đó là hôn nhân “giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài”, và cũng giới hạn ở phạm vi hẹp hơn nữa: phụ nữ Việt Nam lấy chồng nước ngoài (chứ không xem xét khía cạnh nam giới Việt Nam lấy vợ nước ngoài).

2. Dư luận xã hội và cuộc sống

Thuật ngữ dư luận xã hội (DLXH, tiếng Anh: Public Opinion) là thuật ngữ được dùng nhiều trong đời sống xã hội và trong một số ngành khoa học như xã hội học, tâm lý học xã hội, báo chí v.v.. dư luận xã hội được coi là những trạng thái đặc trưng của ý thức xã hội, tâm trạng xã hội. Có thể hiểu rằng DLXH chính là một thành phần thuộc kiến trúc thượng tầng của xã hội và tính chất của nó bị quy định bởi tính chất các quan hệ kinh tế trong xã hội. Mặc dù vậy, với tư cách là một phần của thượng tầng kiến trúc, DLXH cũng có sự độc lập tương đối với hạ tầng cơ sở. Thí dụ, có những lúc DLXH lại tỏ ra bảo thủ hơn so với sự phát triển của các quan hệ kinh tế trong xã hội, cũng có những lúc nó lại “đi nhanh hơn” so với hạ tầng xã hội.

Có nhiều định nghĩa khác nhau về "dư luận xã hội", diển hình là một số định nghĩa sau. Theo nhà triết học cổ đại Socrat thì "dư luận xã hội" là cái gì đó nằm giữa sự mù quáng và nhận thức. Theo Kant: "dư luận xã hội" nằm ở cấp độ thấp hơn so với kiến thức và niềm tin. Theo các tác giả hiện đại thì "dư luận xã hội" là ý kiến được đông đảo công chúng chia sẻ và có thể tìm thấy ở mọi nơi.

Chúng ta có thể đưa ra một cách hiểu về DLXH sau đây. Đó là những ý kiến có tính chất phán xét, đánh giá về các vấn đề xã hội mà nhóm công chúng cảm thấy có ý nghĩa với họ hoặc là vấn đề đó động chạm đến lợi ích chung.

Chủ thể của DLXH là đơn vị xã hội mà ý kiến được coi là dư luận (ý kiến) xã hội chứ không phải là một dạng ý kiến nào khác. Đơn vị xã hội này có thể là nhóm xã hội, tập đoàn hay hệ thống xã hội tùy theo cách tiếp cận.

Khách thể của dư luận xã hội: là vấn đề xã hội động chạm đến lợi ích chung hoặc là có ý nghĩa đối với các nhóm công chúng. Căn cứ của lợi ích chung và căn cứ của ý nghĩa ở đây chính là các giá trị và chuẩn mực chung (Nguyễn Quý Thanh, 2005).

Các thuộc tính của dư luận xã hội: có năm thuộc tính cơ bản:

-Khuynh hướng: thể hiện ở chỗ tỏ thái độ đồng tình, phản đối, lưỡng lự, chưa rõ thái độ đối với vấn đề xã hội mà nó đề cập đến. Người ta cũng có thể phân chia theo khuynh hướng tích cực hay tiêu cực, tiến bộ hoặc lạc hậu.

-Cường độ: thể hiện sức căng về ý kiến của mỗi khuynh hướng dư luận xã hội.

- Sự thống nhất và xung đột của dư luận xã hội: theo các nhà xã hội học, đồ thị phân bố dư luận xã hội hình chữ U là biểu thị sự xung đột, hình chữ J là biểu thị sự thống nhất.

-Tính ổn định, độ bền vững thể hiện ở chỗ: dư luận xã hội có dễ bị thay đổi hay không khi có những tác động bổ sung. Ví dụ như cung cấp thêm những thông tin mới.

- Sự tiềm ẩn: dư luận xã hội có thể ở dạng tiềm ẩn, không bộc lộ bằng lời. Có người dùng thuật ngữ “dư luận của đa số im lặng” để nói về trạng thái này (Ban tư tưởng – văn hoá trung ương, 1999: 17- 21).

Dư luận xã hội và chuẩn mực xã hội có mối quan hệ rất chặt chẽ. Tác động đầu tiên của dư luận xã hội đối với chuẩn mực xã hội là tạo ra các chuẩn mực mới và loại bỏ các chuẩn mực lỗi thời. Sự ủng hộ sẽ tăng lên nếu như người dân nhận thức được hành vi đó phù hợp với trình độ phát triển cơ bản của xã hội, ngược lại hành vi đó vẫn bị coi là hành vi lệch lạc.

Trong trường hợp họ nhận thức được hành vi không phù hợp với định hướng phát triển cơ bản của xã hội thì hành vi đó tiếp tục bị phê phán và vẫn là hành vi lệch chuẩn.

Các chức năng của dư luận xã hội: đánh giá; điều chỉnh các mối quan hệ xã hội; giáo dục; giám sát; tư vấn, phản biện; giải toả tâm lý – xã hội.

Cơ chế hình thành dư luận xã hội: các nhà xã hội học thường coi quá trình hình thành dư luận xã hội gồm 4 giai đoạn: 1) Giai đoạn tiếp nhận thông tin; 2) giai đoạn hình thành các ý kiến cá nhân; 3) giai đoạn trao đổi ý kiến giữa các cá nhân; 4) giai đoạn hình thành dư luận chung (Ban tư tưởng – văn hoá trung ương, 1999: 27).

Các con đường hình thành dư luận xã hội. Chủ yếu có 2 con đường sau:1) Hình thành qua kênh giao tiếp cá nhân: con đường này phổ biến trong các xã hội khi chưa có các phương tiện truyền thông đại chúng. 2) Hình thành qua kênh giao tiếp đại chúng dưới tác động của phương tiện truyền thông đại chúng: sự phổ biến thông tin qua con đường này rất nhanh. Thông tin ban đầu đến với hàng triệu, thậm chí hàng tỷ người.

Dư luận có nghĩa là phản ứng của nhân dân (đó là tán thành, không tán thành, hay bàng quan) đối với những vấn đề đáng lưu ý chung về chính trị và xã hội nảy sinh, như là: quan hệ quốc tế, chính sách nội bộ, các ứng cử viên bầu cử, quan hệ dân tộc. Đó cũng là quan niệm của A.K. Uledov về dư luận xã hội là “Sự phán xét thể hiện sự đánh giá và thái độ của mọi người đối với các hiện tượng đời sống xã hội”. Mối quan hệ giữa truyền thông và dư luận có tính hai mặt: ở khía cạnh thứ nhất, ảnh hưởng của dư luận đến truyền thông còn khía cạnh thứ hai thì ngược lại: sự ảnh hưởng của truyền thông đến dư luận.

Trong xã hội hiện đại, DLXH thường được phản ánh qua các phương tiện truyền thông đại chúng, và truyền thông địa chúng qua các sản phẩm của mình lại làm tăng thêm DLXH.

3. Báo chí với việc Phụ nữ Việt Nam lấy chồng ngoại: nhìn từ Hàn Quốc.

Tháng 4 năm 2006, có một bài viết đăng trên báo Chosun (Hàn quốc) đề cập đến phụ nữ Việt nam lấy chồng Hàn quốc (HQ), bài báo đã tạo nên một làn sóng dư luận phản đối dữ dội không chỉ ở Việt Nam mà cả ở HQ, và nó không dừng ở lĩnh vực truyền thông đại chúng mà còn tác động đến cả lĩnh vực ngoại giao.

Nhưng, điều gì tạo nên làn sóng phản đối quyết liệt như vậy? Chúng ta thử xem, qua lăng kính báo chí nước ngoài nhìn nhận vấn đề phụ nữ Việt Nam kết hôn có yếu tố nước ngoài như thế nào.

Có thể nói, người phụ nữ Việt Nam được xem như một món hàng rất dễ mua, qua các quảng cáo trên báo chí ở HQ. Hiện nay ở HQ, trên bất kỳ nhật báo nào cũng dễ dàng tìm thấy những lời quảng cáo như “Cô dâu Việt Nam đã sẵn sàng, chỉ cần có ý định (của bạn)”. Không những vậy, việc lấy vợ Việt Nam vô cùng dễ dàng, cho dù đàn ông HQ là người thế nào cũng có thể cưới được vợ Việt Nam “Người già, người muốn tái hôn, người đã có con, người khuyết tật đều có thể lấy trinh nữ Việt Nam xinh đẹp”. Để thêm sức thuyết phục cho việc tiếp thị lấy vợ Việt Nam, những quảng cáo nói trên còn liệt kê chi tiết về những ưu điểm của con gái Việt Nam. Đó không chỉ là vẻ hấp dẫn về hình thức như “dáng người đẹp nhất trên thế giới” và quyến rũ hơn so với phụ nữ ở một số nước trong châu lục “khác với phụ nữ Trung Quốc và Philippines, phụ nữ Việt Nam có mùi cơ thể dễ chịu” mà còn có những phẩm hạnh tuyệt vời như “xuất giá tòng phu”, “tôn trọng người già, thờ cúng tổ tiên đến bốn đời”, “giữ gìn trinh tiết và chung thuỷ với chồng”.[1]

Trong bối cảnh báo chí nhìn nhận việc kết hôn với phụ nữ Việt Nam như vậy, cũng dễ hiểu vì sao nhật báo Chosun lại có thể “bình thản kể lại một câu chuyện bất thường mà như là bình thường” sau đây:

Trên bàn tiếp khách làm bằng tre, một người đàn ông HQ đang ngồi. 11 phụ nữ đang hồi hộp với ước mơ thoát khỏi cái nghèo. Người đàn ông HQ nhìn lướt qua một lượt khuôn mặt những cô gái đang ngồi xếp chân sang một bên. Sau 20 phút, ông ta quyết định thôi không chọn nữa và nói “Ôi, thật ngại quá, không biết chọn ai bây giờ”.

Người đàn ông HQ này 35 tuổi, không nghề nghiệp, có mẹ đang điều hành một quán ăn.Trước khi xem mắt trực tiếp 11 cô gái này, ông ta đã xem qua ảnh của họ “Ông chuyển qua phòng bên cạnh, mở đĩa CD có thời gian một tiếng rưỡi, thời gian ghi hình là tháng 4.2006. Trên màn hình lần lượt xuất hiện 150 cô gái có mã số. Ống kính quay từ khuôn mặt rồi đến toàn thân. Chỉ được 20 phút, ông lại bỏ cuộc. Có vẻ như ông đã chọn được hai trong số 11 cô gái lúc nãy”.

Người đàn ông HQ này sang Việt Nam tìm vợ, với mục đích về để giúp bà mẹ của mình, như lời ông ta hỏi với cô gái được chọn “Tôi đang thất nghiệp nhưng sẽ xin việc làm. Mẹ tôi đã có tuổi và đang kinh doanh một của hàng thức ăn nhỏ. Có nuôi mẹ tôi được không?”. Cũng chính vì mục đích lấy vợ về để phục vụ gia đình, nên người đàn ông HQ này sau một lúc chần chừ cũng chọn Sen (cô gái xuất thân từ một vùng quê nghèo khó, cách Tp. HCM bốn giờ xe chạy) vì “Mẹ tôi dặn đi dặn lại là chọn cô nào có tướng tá to lớn để mai mốt còn phục vụ cơm nước cho bà”.

Phải chăng vì lấy vợ Việt Nam dễ, giá thấp lại có chất lượng cao như trên, nên xu hướng đàn ông HQ lấy vợ Việt Nam ngày càng nhiều?

Theo Cục thống kê Hàn Quốc, chỉ trong vòng năm năm, tỷ lệ kết hôn với người nước ngoài của HQ tăng lên ba lần, trong đó tỷ lệ lấy vợ Việt Nam tăng lên đến 43 lần, năm 2001 là 134 người, đến năm 2005 là 5.822 người. Con số này chiếm 1/5 tổng số người HQ kết hôn với người nước ngoài, đứng thứ hai sau Trung Quốc (18.527 người). Nhưng hầu hết phụ nữ Trung Quốc này có gốc là người Hàn. Như vậy, chiếm số lượng nhiều nhất trong tổng số người nước ngoài mà đàn ông HQ kết hôn là phụ nữ Việt Nam”.

Bên cạnh những quảng cáo cho việc lấy vợ Việt Nam như một món hàng dễ mua, cũng có những bài viết cho thấy sự khó khăn trong đời sống gia đình của những cuộc hôn nhân có yếu tố nước ngoài “Phụ nữ Châu Á đến HQ để kết hôn và có cuộc sống mới đều gặp rất nhiều khó khăn vì sự khác biệt về mặt văn hoá và những định kiến ở Hàn quốc” (Tuổi trẻ, 5.5.2006). Đồng thời, người HQ cũng băn khoăn khi thấy không ít đàn ông HQ chỉ có thể lấy vợ nước ngoài “Thật đáng buồn khi nghĩ đến chuyện thanh niên ở các vùng quê phải ra nước ngoài để kiếm vợ chỉ vì không thể kiếm được vợ ở Hàn quốc”(Tuổi trẻ, 5.5.2006). Những kiểu quảng cáo xúc phạm nhân phẩm phụ nữ Việt Nam như vậy đã tạo nên làn sóng phản ứng dữ dội ở HQ và đặc biệt ở Việt Nam, bởi vì đó không đơn giản chỉ là “nỗi đau về trách nhiệm, mà đây còn là nỗi nhục hình ảnh phụ nữ Việt Nam dưới con mắt người nước ngoài”(Võ Văn Kiệt).

Có thể nói, dư luận HQ dẫu rằng có những phản ứng với nhật báo Chosun về bài viết của phóng viên Chae Sung Woo, nhưng cũng không thể phủ nhận một thực tế: những quảng cáo đó đang đáp ứng nhu cầu của một bộ phận nam giới HQ đang gặp khó khăn trong hôn nhân với phụ nữ trong nước. Và họ đến Việt Nam, một đất nước có thị trường hôn nhân lý tưởng, dễ có cơ hội kết hôn bởi vì có nhiều cô gái - đặc biệt ở các vùng nông thôn đồng bằng sông Cửu Long – đang có giấc mơ đổi đời qua việc kết hôn với người nước ngoài. Thêm nữa, Việt Nam và HQ có nhiều điểm tương đồng về văn hoá, con người nên thế hệ con cái mai sau sẽ không có những khác biệt nhiều so với người gốc HQ; như quan niệm của người HQ “vì sự tương đồng về dung mạo nên khi sinh con sẽ không khác gì lắm với người HQ ” (Tuổi trẻ, 25.4.2006).

4. Dư luận xã hội trong nước về việc phụ nữ Việt Nam kết hôn với người nước ngoài.

Ở Việt Nam, từ nhiều năm trước dư luận xã hội và báo chí cũng đã nhiều lần lên tiếng và cảnh báo trước hiện tượng kết hôn với người nước ngoài ngày càng gia tăng. Từ năm 1995 đến nay, hàng trăm bài báo ở Việt Nam đã điều tra các đường dây tuyển các thôn nữ đem về Tp. HCM nuôi nhốt trong những phòng trọ, cho những người đàn ông lớn tuổi, tật nguyền từ Trung Quốc, Đài Loan đến tuyển lựa. Chưa kể hàng trăm bài báo mô tả cảnh cô dâu Việt Nam ở Trung Quốc, Đài Loan bị ngược đãi, làm vợ tập thể,...phải trốn về nước (Phụ nữ, 28.4.2006).

Có thể nói, qua báo chí đã cho thấy một sự biến đổi chuẩn mực xã hội, giá trị xã hội trong quan niệm của các thôn nữ ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long về hôn nhân với người nước ngoài, qua việc cải biên câu hát “Má ơi đừng gả con xa...” thành “Con xin má gả Đài Loan, tiền nhiều bạc lắm hân hoan trong lòng”. Có ý kiến nhận xét về đặc điểm hôn nhân với người nước ngoài hiện nay là “Xu hướng lấy chồng HQ tăng lên, trẻ hoá cô dâu. Trước đây lấy chồng thì được tiền, nay các cô thôn nữ bỏ tiền ra cưới chồng ngoại quốc”. Báo chí cũng đã phản ánh một trường hợp cô gái trẻ ở phía Bắc “cưới chồng” Đài Loan với số tiền quy ra khoảng 10 tấn thóc. Bởi lý do kết hôn là ra nước ngoài có việc làm:

Đi lao động Đài Loan thì phải tốn tiền môi giới, mà hợp đồng lao động lại có hạn, chỉ phù hợp với những phụ nữ đã có gia đình. Nếu các cô lấy chồng, tờ hôn thú sẽ đảm bảo cho các cô việc ở lại Đài Loan làm việc tới ... già. Thu nhập của các cô là niềm mong đợi của gia đình ở quê nhà. Đó là những cuộc hôn nhân 2 trong 1, vừa có chồng, vừa có việc làm. Số tiền các cô vay mượn bỏ ra mua chồng, sang đến Đài Loan, đi làm vài tháng là dư trả” (Báo Phụ nữ Tp. Hồ Chí Minh, ngày 23.6.2006). Ngoài ra, để cải thiện đời sống gia đình, “báo hiếu cha mẹ” cũng là một lý do quan trọng, như một nghiên cứu gần đây cho thấy động cơ kết hôn với người Đài Loan thì “muốn giúp đỡ gia đình” chiếm tỷ lệ cao nhất với 46.7% (Trần Thị Kim Xuyến, 2005: 78)

Có những luồng dư luận/ý kiến trái ngược nhau về vấn đề kết hôn với người nước ngoài. Có thể chia ra hai quan điểm chính: ủng hộ và phản đối.

Những ý kiến phản đối việc phụ nữ Việt Nam kết hôn với người nước ngoài, vì đó thực chất là buôn bán phụ nữ: “Có cả một dịch vụ mua bán phụ nữ Việt Nam cho người nước ngoài diễn ra và vẫn còn tiếp tục diễn ra rộn rịp, phát đạt, vui vẻ, không hề giấu diếm, một ngành buôn người thật sự”(Nguyên Ngọc, 2006)

Ý kiến ủng hộ, nhìn từ bên ngoài: trong bài viết của mình, Han Guk Yeom - đại diện Trung tâm Nhân quyền của phụ nữ nhập cư tại HQ – đăng trên báo Joong Ang, một tờ báo lớn của HQ, đã viết rằng: “Sự thay đổi về cách nhìn nhận phụ nữ châu Á là điều quan trọng nhất. Xem cuộc hôn nhân của phụ nữ nhập cư với đàn ông Hàn quốc như “một cách chạy trốn đói nghèo” là một cách nhìn kỳ thị và sai lầm. Nếu mọi người tiếp tục nghĩ họ “lấy chồng vì tiền” thì sẽ rất khó ngăn chặn tình trạng vi phạm nhân quyền và nguy cơ buôn người..... Chúng ta nên nhìn nhận họ như những người tiên phong trong cuộc sống và tôn trọng họ”(Tuổi trẻ, ngày 5.5.2006)

Có thể thấy, các quan chức nước ngoài cũng ủng hộ việc kết hôn của nam giới HQ với phụ nữ Việt Nam, qua cái nhìn tích cực của tuỳ viên báo chí và thông tin đại sứ HQ tại Việt Nam “Hàn quốc phải cảm ơn Việt Nam vì đã cho chúng tôi những cô dâu ngoan và tuyệt vời”, bởi lẽ khó khăn trong hôn nhân của đàn ông HQ đang là một vấn đề xã hội “Một vấn đề xã hội lớn hiện nay tại HQ là nhiều người đàn ông, nhất là ở nông thôn, rất khó lập gia đình. Nên đàn ông HQ muốn lấy vợ Việt Nam vì họ có thể chia sẻ việc chăm sóc cha mẹ già yếu, và chung sức lo cho gia đình” (Lao Động, 27.4. 2006). Theo số liệu của Văn phòng thống kê quốc gia Hàn quốc “35.9% thanh niên HQ ở các làng nông thôn và chài lưới kết hôn trong năm ngoái đều lấy vợ nước ngoài” (Tuổi trẻ, 5.5.2006)

Sự tán đồng từ trong nước: nguyên tổng biên tập báo Tuổi trẻ Lê Văn Nuôi cho rằng “Hôn nhân với người khác quốc tịch trong bối cảnh nước ta quan hệ đa phương và hội nhập toàn cầu là chuyện bình thường. Nhưng chỉ bình thường và đáng ủng hộ khi họ quan hệ hôn nhân bình đẳng, đến với nhau qua một quá trình giao tiếp, có tình yêu thật sự và cô dâu Việt Nam có đủ trình độ văn hoá để hội nhập văn hoá xứ người”(Tuổi trẻ, 6.5.2006)

Hai luồng quan niệm trái ngược nhau trước hiện tượng phụ nữ Việt Nam kết hôn với người nước ngoài là biểu hiện của đặc tính thống nhất và xung đột của dư luận xã hội.

5. Truyền thông đại chúng và sự điều chỉnh dư luận xã hội

Dư luận xã hội qua các phương tiện truyền thông đại chúng không chỉ phản ánh thực trạng đời sống hôn nhân có yếu tố nước ngoài, mà còn cho thấy quy trình của việc tuyển chọn “cô dâu”. Bên cạnh đó, điểm nổi bật qua các bài viết trên phương tiện truyền thông đại chúng đã cho thấy sự biến đổi về quan niệm, về giá trị hôn nhân có yếu tố nước ngoài. Cộng đồng, xã hội không còn cái nhìn phán xét nghiêm ngặt như trước, trong khi lên án những hành vi môi giới mà thực chất là buôn bán phụ nữ, thì có sự khoan dung hơn với các em gái lấy chồng xứ người.

Không chỉ dư luận xã hội trong nước mà dư luận xã hội ở nước ngoài cũng không tán đồng với những bài viết xúc phạm nhân phẩm các cô dâu Việt Nam lấy chồng nước ngoài (trường hợp bài viết trên báo Chosun vừa qua đã cho thấy điều đó).

Điều quan trọng hơn, qua dự luận xã hội, đã tác động đến các nhà lập pháp, những người xây dựng chính sách, để điều chỉnh pháp luật cho phù hợp với hôn nhân có yếu tố nước ngoài trong điều kiện kinh tế, xã hội hiện nay. Bởi lẽ, các văn bản pháp lý hiện nay về hôn nhân có yếu tố nước ngoài đã cho thấy có những bất cập so với thực tiễn.

Về vấn đề này, một lãnh đạo của bộ Tư pháp cho rằng “Bộ Tư pháp sẽ phải sửa đổi luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Theo đó, sẽ có những quy định riêng về các điều kiện kết hôn với người nước ngoài. Cụ thể, phải có đủ một số điều kiện (không quá chênh lệch về tuổi tác, có hiểu biết lẫn nhau) và mục đích hôn nhân phải tự nguyện, tiến bộ. Ngoài điều kiện kết hôn, thủ tục kết hôn hiện hành với người nước ngoài cũng cần được sửa đổi. Theo đó, sẽ bắt buộc bên nam bên nữ phải có mặt khi đăng ký kết hôn tại Việt Nam.” (Phụ nữ, 5.5. 2006)[2]

Như bộ trưởng bộ Tư pháp Uông Chu Lưu trả lời báo chí “Sau Chỉ thị 03, Bộ Tư pháp đã yêu cầu hôn nhân có yếu tố nước ngoài phải tới Sở Tư pháp phỏng vấn, xác định mục đích hôn nhân là gì, trước khi cho kết hôn. Thế nhưng, họ thường gửi hồ sơ đăng ký kết hôn sang HQ để đăng ký kết hôn sau đó mới gửi về Việt Nam và chúng ta chỉ còn cách công nhận. Vì thế, Bộ Tư pháp sẽ phải làm việc với Đại sứ HQ và cơ quan tư pháp HQ để bàn biện pháp giải quyết. Ít ra phải có một hiệp định tương trợ tư pháp về dân sự, hôn nhân gia đình”(Phụ nữ,5.5.2006).

Năm 2005, quan điểm của các nhà làm luật về việc sửa đổi NĐ 68 trong lĩnh vực kết hôn có yếu tố nước ngoài cho thấy động thái điều chỉnh văn bản luật pháp trước thực tế hiện này “Hiện nay Bộ Tư pháp đang hoàn tất sửa đổi NĐ 68, quy định trong hồ sơ đăng ký kết hôn, hai bên vợ chồng phải có chứng chỉ chung (hoặc tiếng Anh, tiếng Việt, tiếng Trung) và xác nhận của chính quyền địa phương về thời gian (tối thiểu) mà hai bên đã tìm hiểu nhau (ví dụ bắt buộc là 3 tháng). Thứ hai, bắt buộc hai bên phải trực tiếp nộp hồ sơ tại Sở tư pháp địa phương chứ không được uỷ quyền cho người môi giới. Thứ ba, trong hồ sơ kết hôn phải có biên bản phỏng vấn và cán bộ tư pháp được giao phỏng vấn phải chịu trách nhiệm nếu các “đương sự” có vấn đề”.

Điều đó đã thành hiện thực, ngày 21 tháng 7 năm 2006 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 69/2006/NĐ – CP sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10-7-2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài của Luật Hôn nhân và gia đình. Theo đó:

“...Sở Tư pháp có trách nhiệm thực hiện phỏng vấn trực tiếp tại trụ sở Sở Tư pháp đối với hai bên nam, nữ để kiểm tra, làm rõ về sự tự nguyện kết hôn của họ, khả năng giao tiếp bằng ngôn ngữ chung và mức độ hiểu biết về hoàn cảnh của nhau.

Việc đăng ký kết hôn cũng bị từ chối, nếu kết quả phỏng vấn, thẩm định, xác minh cho thấy việc kết hôn thông qua môi giới bất hợp pháp; kết hôn giả tạo không nhằm mục đích xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững; kết hôn không phù hợp với thuần phong mỹ tục của dân tộc; lợi dụng việc kết hôn để mua bán phụ nữ, xâm hại tình dục với phụ nữ hoặc vì mục đích trục lợi khác” (Báo Hà nội mới, ngày 26.7.2006)

Đương nhiên, nếu chỉ có Luật pháp của Việt Nam sửa đổi thì chưa hẳn đã có hiệu quả cao, nếu như các nước liên quan đến hôn nhân có yếu tố nước ngoài không có những thay đổi về quy định, luật pháp. Sẽ rất tốt nếu như các nước trong khu vực cũng có quan điểm như HQ về vấn đề này, như thông báo của đại sứ HQ tại Việt Nam, về kết quả làm việc của tổng thống HQ với các cơ quan chức năng nước này “theo đó, HQ sẽ xây dựng một hệ thống tổng quát hỗ trợ phụ nữ nước ngoài đã kết hôn và di cư đến HQ, giúp họ sớm ổn định cuộc sống” (Báo PNVN, số 54/2006)

6. Làm thế nào để giảm thiểu rủi ro trong hôn nhân có yếu tố nước ngoài?

Chúng tôi quan niệm rằng, hôn nhân với người nước ngoài là một xu thế tất yếu trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay. Chúng ta không thể vì những quan niệm cũ về hôn nhân ngoại bang, với sự kỳ thị “me Tây”, “me Mỹ” như thời còn ngoại xâm mà lên án và ngăn chặn hôn nhân có yếu tố nước ngoài. Không thể duy ý chí trong việc muốn hay không muốn có hiện tượng kết hôn với người nước ngoài. Đây là một vấn đề bình thường trong quá trình phát triển, giao lưu và hội nhập kinh tế, văn hoá.

Điều quan trọng là, làm thế nào để giảm thiểu những rủi ro cho những phụ nữ kết hôn với người nước ngoài? Theo chúng tôi, nên chú ý đến một vài phương diện sau đây:

6.1. Tăng cường vai trò, trách nhiệm của các đoàn thể, tổ chức xã hội

Vấn đề kết hôn với người nước ngoài đã có từ lâu, và thực sự rầm rộ trong khoảng mươi năm trở lại đây. Tuy nhiên, từ phía cộng đồng, xã hội chưa thật sự quan tâm và các đoàn thể dường như cũng bỏ qua, không thấy có vai trò và trách nhiệm trong chuyện này. Ngay cả Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, là tổ chức chính trị xã hội của Phụ nữ mà cũng chưa thật quan tâm đến số phận các thành viên của Hội kết hôn với người nước ngoài. Có thể thấy điều này trong thư của nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt gửi Chủ tịch Hội LHPNVN Hà Thị Khiết:

Tôi đã nhiều lần có thư nhắc nhở, kêu cứu đến các cơ quan chức năng, các địa phương có nhiều chị em làm dâu xứ người. Cả một hệ thống chính trị của Đảng từ trung ương đến các địa phương không thấy có định hướng, tác động gì, cứ để mạnh ai nấy làm một cách tự phát”(Tuổi trẻ, 28.4.2006). Chúng ta cần phải đi tìm lời giải cho câu hỏi của nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt “Ai có trách nhiệm phải giữ gìn truyền thống của phụ nữ Việt Nam và ai là người có trách nhiệm trước nỗi nhục này, có khả năng làm giảm nỗi đau này chăng?”(Tuổi trẻ, 28.4.2006). Nhưng chúng ta biết rằng nhiều bộ, ngành còn thiếu trách nhiệm trước hiện tượng kết hôn với người nước ngoài. Ví dụ, trong khi Cục thống kê HQ có số liệu cụ thể về những trường hợp kết hôn với người nước ngoài, thì ở Việt Nam “Cục thống kê dường như “không thèm nắm mấy con số lặt vặt” đó. Bộ Tư pháp cũng không phân tích số liệu phụ nữ Việt Nam lấy chồng các nước. Toà án tối cao không thống kê tỷ lệ ly hôn với người nước ngoài, phân tích nguyên nhân. Sở Tư pháp cấp giấy kết hôn với người nước ngoài, nhưng đến xin số liệu phải đợi tách ra từng nước”(Phụ nữ, 28.4.2006). Qua đó có thể thấy, các tổ chức xã hội, các ngành chức năng còn thiếu quan tâm đến hiện tượng hôn nhân có yếu tố nước ngoài của phụ nữ Việt Nam, và chưa có đơn vị xã hội nào coi đó là nhiệm vụ và trách nhiệm của mình.

6.2. Vai trò của gia đình: giáo dục gia đình, nếp sống và gia phong của mỗi nhà rất quan trọng không chỉ với việc hình thành nhân cách của con cái, mà còn trang bị cho con cái sự hiểu biết, bản lĩnh sống, khả năng thích ứng trước những biến động, rủi ro của cuộc đời. Với con gái, nếu người mẹ không quan tâm giáo dục con mình về “công, dung, ngôn, hạnh” về “nữ công gia chánh” mà lại chỉ mong gả bán con gái cho người ngoại quốc, thì nguy cơ với con gái họ thật khó lường.

6.3. Hành trang cho các thôn nữ kết hôn với người nước ngoài.

Có một thực tế, “làn sóng” hôn nhân với người nước ngoài những năm gần đây đa số là các em gái từ các vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa, học vấn thấp, ít hiểu biết. Vì thế, không thể bỏ mặc các em ra đi làm dâu xứ người với hai bàn tay trắng, chỉ với ước mơ đổi đời. Cần chuẩn bị cho các em hành trang thật tốt để đi làm dâu xứ người. Theo quan điểm của chúng tôi, hành trang cho các em gái có nguyện vọng kết hôn với người nước ngoài bao gồm:

6.3.1. Thông tin về thực trạng đời sống hôn nhân của những cô dâu Việt Nam ở nước ngoài: cần cung cấp cho các em và cha mẹ những thôn nữ có mong muốn lấy chồng nước ngoài về thực trạng đời sống của hôn nhân với người nước ngoài. Để gia đình và các em có suy nghĩ chín chắn trước khi quyết định. Trên thực tế, vì hầu hết các thôn nữ lấy chồng nước ngoài có trình độ học vấn thấp, nhiều em chưa bao giờ tiếp cận với các phương tiện truyền thông đại chúng, nên việc thiếu thông tin hoặc có thông tin sai lệch (qua môi giới) khiến cho không ít em gái đã vỡ mộng và nuối tiếc vì quyết định sai lầm của mình.

Có những thông tin đầy đủ và chính xác về người chồng tương lai, về gia cảnh người chồng, về địa phương mà các em sẽ đến sinh sống với vai trò người vợ, người con dâu trong gia đình cũng sẽ góp phần giúp các em và gia đình cân nhắc trước khi quyết định lấy chồng nước nào, ở đâu cho phù hợp với mình.

6.3.2. Các em cần được đào tạo, được học về làm vợ, làm dâu ở nước ngoài, với một số nội dung cơ bản, có thể là:

Về Luật pháp, phong tục, tập quán của các vùng, miền của nước mà các em sẽ đến làm dâu. Theo ông Nguyễn Quốc Cường, Phó vụ trưởng Vụ hành chính tư pháp, Bộ Tư pháp thì “Hầu hết trong 3 năm đầu, các cô dâu Việt rất khó hoà nhập với gia đình chồng vì không biết tiếng, chưa hiểu gia phong, tập tục.

Về điều này, lời khuyên của tuỳ viên báo chí và thông tin đại sứ quán HQ rất đáng để cho những phụ nữ Việt Nam đã, đang và sẽ có ý định lấy chồng nước ngoài nói chung và lấy chồng HQ nói riêng tham khảo “Tôi nghĩ trước khi có quyết định lấy chồng HQ họ nên chuẩn bị cho những cách biệt văn hoá, ngôn ngữ và suy nghĩ. HQ tuy phát triển hơn Việt Nam, nhưng cũng có những người phải sống rất khó khăn. Các cô gái trẻ mang giấc mơ lấy chồng HQ để đổi đời cần suy nghĩ chín chắn, vì thực tế không phải lúc nào cũng vậy” (Lao động, 27.4.2006)

Về kỹ năng nội trợ, sử dụng các đồ dùng trong gia đình: các em gái cần được học sử dụng các đồ dùng, tiện nghi trong gia đình nước ngoài, biết nấu các món ăn cho người nước ngoài, nơi mà các thôn nữ sẽ đến làm dâu.Thực tế cho thấy, có những trường hợp hôn nhân tan vỡ vì cô dâu không làm tròn bổn phận của mình. Như trường hợp một đàn ông HQ 45 tuổi sau hai tháng lấy cô vợ Việt Nam 19 tuổi đã đòi ly dị và kiện Viện bảo hộ người tiêu dùng HQ, đòi lại cho phí thủ tục kết hôn vì cô vợ 19 tuổi dậy muộn, không lo bữa ăn sáng cho con trai đang học cấp 3 của chồng. Hay một ví dụ khác, một cô gái quê ở Đồng Tháp lấy chồng 2 năm mà không biết nấu món ăn HQ cho nhà chồng. Rõ ràng, công việc tề gia nội trợ là một nhiệm vụ không thể thiếu được khi lấy chồng nước ngoài như HQ, Đài loan. Vì thế, học để làm nội trợ phục vụ gia đình cũng rất cần thiết, và làm tốt điều này là yếu tố đảm bảo hôn nhân bền vững ở xứ người.

Về ngôn ngữ: sẽ khó có thể làm tốt vai trò làm vợ, làm dâu ở nước ngoài nếu các em gái không được học ngôn ngữ của nước đó. Vì thế, các em gái trước khi kết hôn cần phải học ngôn ngữ của quốc gia mà các em có ý định lấy chồng. Dù chúng ta không hy vọng các thôn nữ học vấn thấp (thậm chí có em còn không biết đọc, viết) nhưng ít ra cũng dạy cho các em biết được giao tiếp tối thiểu, có thể gọi tên các đồ vật/phương tiện sinh hoạt trong gia đình,v.v.. Đây là tiền đề cho các em có thể dần dần vượt qua được rào cản ngôn ngữ, dần dần hội nhập vào cuộc sống gia đình ở nước ngoài.

Chỉ có như vậy, chúng ta mới góp phần làm giảm thiểu những rủi ro đối với các em gái lấy chồng nước ngoài và mới xây dựng được những cuộc hôn nhân có yếu tố nước ngoài có được hạnh phúc gia đình. Đó cũng là điều quan trọng mà dư luận xã hội cần hướng tới. Cùng nhằm mục đích xây dựng đó, tôi nghĩ không chỉ ở những nước của “cô dâu” mà cả ở những nước “chú rể” cũng cần có sự uốn nắn của dư luận xã hội đối với những quan niệm lệch lạc về hạnh phúc con người.

Tài liệu tham khảo

1.Ban Tư tưởng – Văn hoá trung ương, Nghiên cứu, sử dụng và định hướng Dư luận xã hội; Hà Nội, 1999.

2. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 và các văn bản hướng dẫn thi hành; Nxb Chính trị Quốc gia, Hà nội 2002.

3. Nguyễn Quý Thanh, Bài giảng Xã hội học Dư luận xã hội, 2005.

4. Trần Thị Kim Xuyến, Nguyên nhân của phụ nữ đồng bằng sông Cửu Long kết hôn với người Đài Loan, Tạp chí Xã hội học số 1(89) 2005.

5. Báo Hà Nội mới, ngày 13.7.2006; ngày 27.7.2006.

6. Báo Lao động, các số trong tháng 4-6/2006.

7. Báo Pháp luật Tp. HCM, ngày 9.9.2002.

8. Báo Phụ nữ Việt Nam, số 54, ngày 5.5.2006.

9. Báo Phụ nữ Tp. HCM, các số trong tháng 4-6/2006.

10. Báo Tuổi trẻ, các số trong tháng 4-6/2006.

11. Tạp chí Tia Sáng, số 9 tháng 5.2006.

SUMMARY:

THE PUBLIC OPINION OF MARRIAGE WITH FOREIGNERS

Dr. Hoang Ba Thinh

This paper explores the mutual impact between public opinion and marriages with foreigners and suggests some measures to help cross-national marriages getting better results. It includes enhancing the knowledge of the girls who desire to get married with foreigners, reinforcing the role of social organisations and improving regulation texts related to issues of cross-national marriages.


Chú thích:

[1] Ku su Jeong, Cưới hay mua vợ Việt Nam? Báo Tuổi trẻ, ngày 25.4.2006

[2] Tháng 8/2006, đã có Quy định cấm về sự quá chênh lệch tuổi kết hôn giữa phụ nữ Việt Nam với người nước ngoài

SOURCE: www.hcmussh.edu.vn

Chủ Nhật, 9 tháng 3, 2008

VƯỚNG MẮC TỪ THỰC TIỄN THI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ ĐĂNG KÝ VÀ QUẢN LÝ HỘ TỊCH

Lê Thị La

Thực hiện đăng ký và quản lý hộ tịch theo quy định tại Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của Chính phủ đã tháo gỡ được rất nhiều vướng mắc mà Nghị định số 83/1998/NĐ-CP ngày 10/10/1998 còn chưa giải quyết được. Tuy nhiên vẫn còn một số vướng mắc cần phải có sự điều chỉnh và hướng dẫn kịp thời để việc áp dụng được thống nhất, đó là:

Vướng mắc liên quan đến đăng ký khai sinh:Mọi trẻ em sinh ra đều có quyền được đăng ký khai sinh, trong thời hạn 60 ngày, kể từ ngày sinh con thì cha, mẹ, ông, bà hoặc những người thân thích khác phải có trách nhiệm đến UBND  cấp xã nơi cư trú của người mẹ để đăng ký khai sinh cho đứa trẻ, nếu không xác định được nơi cư trú của người mẹ thì UBND cấp xã nơi cư trú của người cha sẽ thực hiện đăng ký khai sinh.

Vậy trường hợp trẻ em sinh ra trong trại giam, không xác định được cha đứa trẻ là ai và không còn người thân thích thì ai sẽ đi đăng ký khai sinh cho đứa trẻ và đăng ký khai sinh ở đâu trong khi người mẹ không có nơi cư trú ổn định hoặc nếu có thì cũng không thể về địa phương nơi cư trú để đăng ký khai sinh cho con được vì đang thụ lý án phạt tù. Thực tế có trường hợp cán bộ quản giáo đến UBND cấp xã nơi trại giam đóng trụ sở để đăng ký khai sinh cho đứa trẻ được sinh ra trong trại giam và đã bị từ chối đăng ký khai sinh với lý do người mẹ không có hộ khẩu thường trú ở đây. Đối với trường hợp không xác định được người cha và nơi cư trú của người mẹ trước khi bị bắt hoặc xác định được nơi cư trú của người mẹ nhưng đã bị xoá đăng ký thường trú theo quy định của luật cư trú thì có thể vận dụng quy định tại khoản 2 Điều 13 Nghị định số 158/2005/NĐ-CP “trong trường hợp không xác định được nơi cư trú của người mẹ và người cha, thì UBND cấp xã, nơi trẻ em đang sinh sống trên thực tế thực hiện việc đăng ký khai sinh”. Tuy nhiên vấn đề phức tạp nảy sinh ở chỗ cán bộ quản giáo của trại giam đi đăng ký khai sinh cho đứa trẻ do người mẹ đang thụ lý án phạt tù sinh ra trong trại giam và được UBND cấp xã nơi trại giam đóng trụ sở đăng ký khai sinh thì phần nơi sinh và phần ghi về người đi đăng ký khai sinh quan hệ với người được khai sinh trong Giấy khai sinh và trong Sổ đăng ký khai sinh sẽ ghi thế nào? nếu ghi đúng nơi sinh là “trại giam …..” và người đi đăng ký khai sinh là “cán bộ quản giáo” thì sẽ ảnh hưởng rất lớn đến đứa trẻ vô tội này vì Giấy khai sinh là giấy tờ hộ tịch gốc của mỗi cá nhân. Đây là vấn đề mang tính nhân đạo, để giải quyết thấu đáo cần phải có quy định cụ thể, rõ ràng để những đứa trẻ không có tội vốn đã chịu rất nhiều thiệt thòi này có một cuộc sống bình đẳng và phát triển bình thường như các trẻ em khác.

Vướng mắc thứ hai là:Tại Khoản 2 - Điều 49 Nghị định số 158/2005/NĐ-CP quy định “Việc đăng ký khai sinh cho trẻ em sinh ra tại Việt Nam, có cha hoặc mẹ là người nước ngoài, còn người kia là công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài, được thực hiện tại Sở Tư pháp, nơi cư trú của người mẹ” theo quy định này thì trường hợp cha là người nước ngoài mẹ là người Việt Nam định cư ở nước ngoài khi sinh con tại Việt Nam thì đến Sở Tư pháp nơi đăng ký hộ khẩu của người mẹ để đăng ký khai sinh cho con là phù hợp. Vậy trường hợp cha là người Việt Nam định cư ở nước ngoài còn mẹ là người nước ngoài không có hộ khẩu thường trú tại Việt Nam nhưng lại sinh con ở Việt Nam (nhà bố mẹ chồng) sẽ đăng ký khai sinh cho đứa trẻ ở đâu,  Sở Tư pháp nơi cư trú của người cha có được đăng ký khai sinh cho đứa trẻ không? để đảm bảo quyền lợi cho đứa trẻ và giảm bớt sự phiền hà cho công dân, cần phải có hướng dẫn cụ thể đối với trường hợp này.

Vướng mắc thứ ba là:Việc đăng ký khai sinh cho trẻ em sinh ra không phải ở Việt Nam có cha hoặc mẹ là người Việt Nam có hộ khẩu thường trú tại Việt Nam  đã đăng ký kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam còn người kia là người nước ngoài và đứa trẻ sinh ra ở một nước thứ ba không phải nơi đăng ký hộ khẩu thường trú của cha hoặc mẹ là người nước ngoài mà là nước họ đang làm việc. Ví dụ, nữ là người Việt Nam có hộ khẩu thường trú tại Lào Cai sang Cộng hoà Séc để kinh doanh và kết hôn với một người Trung Quốc đang làm việc ở Cộng hoà Séc, đã đăng ký kết hôn tại Sở Tư pháp Lào Cai và con được sinh ra ở Cộng hoà Séc thì sẽ đăng ký khai sinh cho đứa trẻ ở đâu? Đây là vấn đề thực tế đã xảy ra nhưng chưa có hướng dẫn, do vậy các địa phương rất lúng túng khi công dân có yêu cầu.

Vướng mắc thứ tư là:Việc đăng ký khai sinh cho các trường hợp trẻ em được sinh ra ở Trung Quốc có bố là người Trung Quốc, mẹ là người Việt Nam do mẹ là người Việt Nam bị bán sang Trung quốc lấy chồng hoặc bỏ sang Trung Quốc buôn bán, làm ăn và có quan hệ ngoài hôn nhân với người Trung Quốc vì không đăng ký kết hôn do vậy không thể đăng ký khai sinh ở Trung Quốc được nên nhiều khi đứa trẻ đã lớn, đến tuổi đi học người mẹ đã đưa về Việt Nam để đăng khai sinh. Đối với những trường hợp này do không có giấy chứng sinh tất cả chỉ dựa vào lời khai của người đi làm đăng ký khai sinh (mẹ đẻ hoặc ông, bà ngoại hoặc người thân thích) do vậy cán bộ tư pháp hộ tịch không có cơ sở để xác minh đứa trẻ là con đẻ hay là con nuôi. Nếu từ chối đăng ký khai sinh sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của đứa trẻ, còn tiếp nhận đăng ký khai sinh cho con ngoài giá thú thì UBND cấp xã “rất lo sẽ bị kiện” hoặc vô tình trở thành người tiếp tay cho đối tượng mua bán trẻ em hợp pháp hoá giấy tờ.

Vướng mắc thứ nămcần phải có hướng dẫn đó là việc đăng ký khai sinh quá hạn,tại khoản 1 Điều 44 Nghị định số 158/2005/NĐ-CP quy định thì trong trường hợp người đã thành niên đăng ký khai sinh quá hạn cho mình, thì có thể đăng ký tại UBND cấp xã nơi có thẩm quyền đăng ký khai sinh theo quy định tại Điều 13 Nghị định số 158/2005/NĐ-CP hoặc tại UBND cấp xã nơi người đó cư trú. Đây là một khó khăn rất lớn cho cán bộ Tư pháp hộ tịch khi tiếp nhận và thẩm định các hồ sơ đăng ký khai sinh quá hạn của các công dân đã có đầy đủ các giấy tờ hồ sơ cá nhân như:  Các văn bằng chứng chỉ, Thẻ đảng viên, Hộ khẩu, Chứng minh nhân dân… nhưng với lý do là chưa đăng ký khai sinh và nay có yêu cầu đăng ký khai sinh tại nơi cư trú. Quy định này là chưa phù hợp với thực tế vì theo quy định của pháp luật về giáo dục thì phải đi học mới được cấp văn bằng chứng chỉ và khi đi học phải có giấy khai sinh để xác định họ tên và tuổi…..; và theo quy định của pháp luật về cư trú thì khi đi đăng ký hộ khẩu thường trú phải xuất trình Giấy khai sinh. Pháp luật quy định cho phép thực hiện và công dân có yêu cầu đăng ký khai sinh quá hạn thì UBND cấp xã vẫn phải tiếp nhận hồ sơ. Đối với trường hợp này việc xác minh sẽ rất phức tạp, nếu cán bộ tư pháp hộ tịch thẩm định, xác minh không chặt chẽ nhiều khi vô tình trở thành người giúp công dân hợp pháp hoá hồ sơ. Do vậy, cần quy định chặt chẽ các điều kiện để được đăng ký khai sinh quá hạn đối với trường hợp đã có đủ giấy tờ, văn bằng, chứng chỉ; nên quy định giới hạn về thời gian, độ tuổi được đăng ký khai sinh quá hạn và phải có hướng dẫn cụ thể về trình tự thủ tục xác minh như vậy sẽ phù hợp với thực tế hơn. 

Ngoài ra việc đăng ký lại việc sinh theo quy định hiện nay còn gặp một số vướng mắc đó là: Tại Điều 46 Nghị định số 158/2005/NĐ-CP quy định việc sinh, tử, kết hôn, nhận nuôi con nuôi đã được đăng ký, nhưng sổ hộ tịch và bản chính giấy tờ hộ tịch đã bị mất hoặc hư hỏng không sử dụng được, thì được đăng ký lại và thẩm quyền đăng ký tại UBND xã nơi đương sự cư trú hoặc nơi đương sự đã đăng ký trước đây. Trường hợp không còn bản sao giấy tờ hộ tịch đã cấp hợp lệ trước đây mà đương sự lại có yêu cầu đăng ký lại tại UBND cấp xã nơi cư trú thì Tờ khai phải có xác nhận của UBND cấp xã nơi đã đăng ký hộ tịch về việc đã đăng ký. Vậy vấn đề đặt ra ở đây là Sổ hộ tịch không còn lưu được, chỉ dựa vào Tờ khai của đương sự thì sẽ căn cứ vào đâu để xác nhận việc đã đăng ký trước đây. Thực tế ở Lào Cai hiện nay chủ yếu căn cứ vào Sổ hộ khẩu để xác nhận cho công dân. Tuy nhiên do có sự thay đổi về địa danh, đơn vị hành chính (nhập vào hoặc tách ra) nên gặp rất nhiều khó khăn trong việc xác nhận. Ví dụ: Công dân Nguyễn Văn A sinh năm 1974 thường trú tại xã Vạn Hoà - thành phố Lào Cai có yêu cầu đăng ký lại việc sinh, theo Tờ khai đăng ký lại việc sinh thì công dân này sinh ở  xã Vạn Hoà và đã đăng ký khai sinh năm 1974, UBND xã đã hướng dẫn công dân đến đến Phòng Tư pháp thành phố Lào Cai để xin xác nhận việc đã đăng ký khai sinh,  vì thời điểm năm 1974 việc đăng ký khai sinh được thực hiện ở Uỷ ban hành chính cấp huyện. Khi xuất trình Sổ hộ khẩu để làm căn cứ xác nhận thì trong sổ hộ khẩu nơi sinh của công dân này là xã Vạn Hoà - huyện Bảo Thắng - tỉnh Lào Cai, Phòng Tư pháp thành phố đã từ chối xác nhận và hướng dẫn đến Phòng Tư pháp huyện Bảo Thắng để xác nhận vì thời điểm năm 1974 xã Vạn Hoà thuộc huyện Bảo Thắng. Vậy trường hợp này thì cơ quan nào xác nhận việc đã đăng ký khai sinh trước đây cho công dân là chính xác nhất?. Mặc dù luật cho phép đăng ký lại, về lý thuyết thì quy định này rất mở, rất thuận lợi cho người dân nhưng khi thực hiện thì mới thấy khó khăn, vướng mắc. Do Nghị định số 158/2005/NĐ-CP chưa quy định rõ căn cứ để xác nhận việc đã đăng ký khai sinh trước đây, và để được xác nhận việc đã đăng ký khai sinh trước đây công dân phải xuất trình những giấy tờ gì, nên nhiều khi công dân phải đi lại rất nhiều lần, nhiều nơi mới xác nhận được. Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho công dân và đảm bảo việc thực hiện được thống nhất, nên có quy định rõ ràng các loại giấy tờ phải nộp hoặc xuất trình, thủ tục để xác nhận việc đã đăng ký hộ tịch trước đây để tránh tình trạng gây khó khăn cho công dân.

Việc xác định dân tộc của con nuôi cũng rất cần phải nghiên cứu, xem xét để điều chỉnh cho phù hợp với tình hình thực tế. Theo quy định của Luật Hôn nhân gia đình năm 2000 thì nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha mẹ và con giữa người nhận nuôi con nuôi và người được nhận làm con nuôi và pháp luật không có quy định phân biệt dân tộc, tôn giáo giữa người nhận nuôi và người được làm con nuôi, chỉ yêu cầu đảm bảo đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật. Theo quy định của Nghị định số 158/2005/NĐ-CP  và  Bộ luật dân sự năm 2005 thì nếu giữa cha, mẹ đẻ và cha, mẹ nuôi có sự thoả thuận về việc thay đổi phần khai về cha, mẹ từ cha, mẹ đẻ sang cha, mẹ nuôi trong Giấy Khai sinh và Sổ đăng ký khai sinh của con nuôi, thì UBND cấp xã, nơi đã đăng ký khai sinh cho con nuôi đăng ký khai sinh lại theo những nội dung thay đổi đó…  và cha nuôi, mẹ nuôi có quyền yêu cầu thay đổi họ, tên cho con nuôi. Như vậy thì một trẻ em người dân tộc kinh làm con nuôi người dân tộc thiểu số, pháp luật cho phép thay đổi phần khai về cha mẹ trong Giấy khai sinh theo cha mẹ nuôi và được thay đổi họ theo họ của cha, mẹ nuôi. Còn việc xác định dân tộc của con nuôi, theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2005 thì được xác định lại dân tộc theo dân tộc của cha đẻ, mẹ đẻ trong trường hợp làm con nuôi của người dân tộc khác mà đã được xác định theo dân tộc của cha nuôi, mẹ nuôi do không biết cha đẻ, mẹ đẻ là ai. Theo quy định này thì người con nuôi có thể xác định lại dân tộc từ dân tộc của cha nuôi, mẹ nuôi sang dân tộc của cha, mẹ đẻ nhưng không được xác định dân tộc từ dân tộc cha mẹ đẻ sang dân tộc của cha, mẹ nuôi. Thực tế trên địa bàn tỉnh Lào Cai có rất nhiều trường hợp người dân tộc thiểu số do hiếm muộn, không có con hoặc do phong tục tập quán đã nhận trẻ em người dân tộc kinh làm con nuôi và đã được chính quyền địa phương ra quyết định công nhận. Cha mẹ nuôi thực sự yêu thương, coi con nuôi như con đẻ, không phân biệt đối xử; muốn con nuôi và con đẻ đoàn kết, và người con nuôi không bị mặc cảm đã có yêu cầu đề nghị được xác định lại dân tộc cho con nuôi theo dân tộc của cha mẹ nuôi. Nhưng yêu cầu này đã không thể thực hiện được vì pháp luật chưa có quy định cho phép.  Để tạo sự đoàn kết giữa các dân tộc và đáp ứng được nguyện vọng của nhân dân,  cần nghiên cứu để đưa ra các quy định cho phép xác định lại dân tộc của con nuôi theo dân tộc của cha, mẹ nuôi.

Việc miễn lệ phí hộ tịch theo quy định của pháp luật về phí và lệ phí cũng gặp một số vướng mắc đó là: Căn cứ vào Nghị định số 24/2006/NĐ-CP ngày 06/3/2006 của Chính phủ sửa đổi bổ sung một số diều của Nghị định số 57/2002/NĐ-CP ngày 03/6/2002 quy định chi tiết thi hành pháp lệnh phí và lệ phí, Thông tư số 97/2006/TT-BTC ngày 16/10/2006 của Bộ Tài chính hướng dẫn về phí và lệ phí thuộc thẩm quyền quyết định của HĐND đã quy định miễn lệ phí hộ tịch về đăng ký kết hôn, đăng ký nuôi con nuôi cho người dân thuộc các dân tộc ở vùng sâu, vùng xa và lệ phí đăng ký khai sinh cho trẻ em thuộc hộ nghèo. Theo quy định này thì lệ phí đăng ký khai tử không được miễn, nên đã có tình trạng ở vùng sâu, vùng xa nếu người chết mà thân nhân được hưởng chế độ chính sách thì đi đăng ký khai tử còn lại hầu hết không đi đăng ký với lý do rất đơn giản “đã mất người thân, đi đăng ký lại mất thêm tiền”. Ngoài ra, còn gặp vướng mắc trong việc miễn lệ phí hộ tịch đó là theo quy định tại Nghị định số 32/2002/NĐ-CP ngày 27/3/2002 của Chính phủ quy định việc áp dụng Luật hôn nhân và gia đình đối với các dân tộc thiểu số thì “Việc đăng ký kết hôn cho người dân thuộc các dân tộc ở vùng sâu, vùng xa được miễn lệ phí”; Trên địa bàn tỉnh Lào Cai đã có trường hợp người dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa kết hôn với người dân tộc kinh, tổ chức đăng ký kết hôn ở thành phố Lào Cai; và trường hợp người dân tộc thiểu số ở xã vùng sâu, vùng xa kết hôn với người nước ngoài khi nộp hồ sơ đăng ký kết hôn đã đề nghị được miễn lệ phí hộ tịch. Trường hợp này có được miễn lệ phí hộ tịch hay không? cán bộ tư pháp - hộ tịch đã rất lúng túng. Vậy, cần có hướng dẫn cụ thể, rõ ràng các trường hợp người dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa kết hôn với nhau và đăng ký kết hôn tại vùng sâu, vùng xa mới được miễn lệ phí hay chỉ cần một người là dân tộc thiểu số và đăng ký kết hôn ở đâu cũng được miễn.

Qua thực tiễn thi hành pháp luật về đăng ký hộ tịch đã nảy sinh một số vướng mắc, để thực hiện có hiệu quả công tác này trong thời gian tới, đảm bảo quyền lợi cho công dân và thực hiện thống nhất trong cả nước đề nghị Bộ Tư pháp cần tiếp tục nghiên cứu trình Chính phủ sửa đổi bổ sung các văn bản pháp luật về hộ tịch và có hướng dẫn thi hành Nghị định số 158/2005/NĐ-CP về đăng ký và quản lý hộ tịch. 

SOURCE: http://www.moj.gov.vn/p/tag.idempotent.render.userLayoutRootNode.target.n65.uP

Thứ Năm, 6 tháng 3, 2008

CƠ CHẾ PHÁP LÝ CỦA VIỆC MANG THAI HỘ

Một loạt vấn đề pháp lý như xác định cha, mẹ cho con, hôn nhân giữa những đứa trẻ cùng cha mẹ sinh học... đang đặt ra với việc sinh đẻ nhờ cho, nhận trứng, tinh trùng. Đây là nội dung cuộc hội thảo góp ý cho Nghị định sinh con bằng phương pháp khoa học, tổ chức hôm qua tại Hà Nội.

Có nên cho phép mang thai hộ và cho phôi là vấn đề được tranh cãi nhiều nhất, dù dự thảo Nghị định đã cấm tuyệt đối việc này. Thạc sĩ Nguyễn Viết Tiến, Trưởng khoa Thụ tinh trong ống nghiệm, Bệnh viên C Hà Nội cho rằng, nên cho phép. Bởi thực tế có những phụ nữ không có noãn trứng (tức không thể xin tinh trùng được) nhưng vẫn có khả năng mang thai. Nếu cấm cho phôi thì họ sẽ không thể có khả năng làm mẹ. “Người ta thường lo ngại vì sợ hôn nhân cùng huyết thống. Nhưng xác xuất chuyện này rất thấp, thường chỉ 1/10.000”, ông Tiến nói.

-------------------------------------------------------------------------------------

Dự thảo nghị định về sinh con theo phương pháp khoa học:
- Phụ nữ độc thân, vợ (chồng) đang điều trị vô sinh được nhận tinh trùng, trứng. Người nhận phải đủ sức khỏe để thụ thai và sinh đẻ, không mắc bệnh lây qua đường sinh dục, tâm thần hay các bệnh di truyền khác.
- Người cho tinh trùng phải 20-40 tuổi, người cho trứng 18-35 tuổi, đã có con khỏe mạnh, không được nhận thù lao dưới mọi hình thức; chỉ cho tinh trùng, trứng với một người và không tìm hiểu về người nhận.
- Các cặp vợ chồng hoặc phụ nữ độc thân đứng tên trong đơn đề nghị được thụ tinh nhân tạo hoặc thụ tinh trong ống nghiệm được quyền làm cha, mẹ đối với trẻ sinh ra.

-------------------------------------------------------------------------------------

Tuy nhiên, cấp trên của ông Tiến là ông Nguyễn Đức Vy, Giám đốc Bệnh viện C, lại lo ngại, bởi vấn đề này ở những nước có trình độ phát triển cao cũng rất phức tạp. Vụ trưởng Vụ Pháp luật, Bộ Y tế Trịnh Thị Lê Trâm cũng có cùng quan điểm khi cho rằng, mang thại hộ sẽ dẫn tới nhiều hậu quả pháp lý như quyền nuôi con, quyền thừa kế tài sản. Tuy nhiên, có ý kiến là vấn đề này sẽ được giải quyết dễ dàng nếu những người cho, nhận mang thai hộ có cam kết rõ ràng.

Nhiều đại biểu lo ngại những đứa trẻ thụ tinh trong ống nghiệm từ phôi của người khác có thể lấy nhầm nhau. Đại diện Bệnh viện Phụ sản Hải Phòng, nơi đang xây dựng khoa thụ tinh trong ống nghiệm đề xuất: nên xây dựng chế độ về di truyền, bắt buộc xác định gen khi những đứa trẻ sinh ra từ ống nghiệm lập gia đình.

Giáo sư Trần Văn Hanh, Viện 103 thì nêu vấn đề xử lý các bệnh bẩm sinh. Ông cho rằng, Nghị định cần có thêm các quy định về hạn chế thấp nhất các rủi ro dẫn tới đứa trẻ sinh ra đã có trong mình mầm bệnh.

Dự thảo nghị định cho phép phụ nữ độc thân nhận tinh trùng từ ngân hàng tinh trùng. Bà Vụ trưởng Pháp luật, Bộ Y tế cho rằng, quy định này có thể “mở ra những hi vọng mới cho phụ nữ độc thân, nhất là trong điều kiện phong tục tập quán của Việt Nam”. Kèm với quy định mở, dự thảo đưa ra những điều kiện khắt khe, như bí mật tuyệt đối danh tính và địa chỉ người cho tinh trùng; người cho phải có sức khỏe tốt, và từng có con khỏe mạnh.

Nghị định về sinh con theo phương pháp khoa học đã được Bộ Y tế nghiên cứu soạn thảo từ lâu, nhưng cho đến nay vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau. Việc chậm có luật hướng dẫn đang là rào cản với các đơn vị y tế hỗ trợ cho những cặp vợ chồng hiếm muộn.

Theo thống kê của ngành y tế, cả nước hiện có khoảng 1,2 triệu cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ nhưng trong tình trạng vô sinh. Riêng Bệnh viện Từ Dũ (một trong 3 cơ sở đã tiến hành thành công kỹ thuật hỗ trợ sinh sản), mỗi năm có gần 2.000 người có nhu cầu xin tinh trùng, khoảng 1.200 người xin trứng. Thế nhưng trong 4 năm 1998-2001, đơn vị này mới chỉ dám “xé rào” cho 111 ca xin trứng với các thủ tục cho những trường hợp này hết sức phức tạp.

SOURCE: http://vnexpress.net/Vietnam/Phap-luat/2002/05/3B9BC69E/

Thứ Tư, 5 tháng 3, 2008

VẤN ĐỀ XÁC ĐỊNH VÀ ĐĂNG KÝ TÀI SẢN CỦA VỢ, CHỒNG THEO LUẬT HÔN NHÂN GIA ĐÌNH NĂM 2000

TRẦN THỊ MAI PHƯỚC - Trường ĐHDL Văn Hiến TP.HCM

Nghiên cứu về quá trình giải quyết một vụ án hôn nhân và gia đình (HNGĐ), người ta nhận thấy rằng vấn đề phân chia tài sản của vợ chồng là một trong những vấn đề khó khăn, phức tạp và không kém phần quan trọng. Tuy nhiên, để phân chia được, trước hết người ta phải xác định được đâu là tài sản (TS) phải chia, không chia và không được chia. Nghĩa là Tòa án phải xác định được đâu là TS chung của vợ chồng, đâu là TS riêng của mỗi người và đâu là TS của người thứ ba mà vợ chồng đang quản lý. Trong phạm vi bài viết này, tác giả muốn đề xuất và phân tích giải pháp góp phần đơn giản hóa việc xác định TS của vợ chồng – đó chính là điều kiện để giải quyết những khó khăn, phức tạp tồn đọng trong giai đoạn khác (giai đoạn phân chia TS).

 

TS của vợ chồng” ở đây bao gồm cả TS riêng và TS chung của họ trong khối TS hiện còn của gia đình. Thực chất việc xác định TS chỉ được tiến hành khi trên thực tế vấn đề phân chia TS giữa vợ chồng được đặt ra. Thông thường, yêu cầu đó được đặt ra ngay khi hôn nhân chấm dứt (ly hôn, một bên chết hoặc bị Tòa án tuyên bố chết) nhưng cũng có lúc nó được đặt ra ngay cả trong thời kỳ hôn nhân (chia TS chung của vợ chồng khi hôn nhân đang tồn tại). Tuy nhiên, đương sự cần phải được trang bị một số kiến thức nhất định về vấn đề này để bất kỳ lúc nào và ở đâu họ cũng có thể tự ý thức và xác định được rằng TS nào là chung và TS nào là của riêng mình theo pháp luật. Đó là một trong những thuận lợi lớn cho việc áp dụng pháp luật vào việc giải quyết vấn đề khi yêu cầu phân chia TS được đặt ra. Điều này góp phần hạn chế tối đa những tranh chấp không đáng có giữa vợ và chồng. Như vậy, xác định TS không chỉ là công việc của Tòa án mà đó còn là trách nhiệm của đương sự (phải biết và phải ý thức được) trong quá trình Tòa án giải quyết yêu cầu phân chia TS.

Vướng mắc trong quy định của Luật HNGĐ mới:

Nhiều năm qua, thực tiễn xét xử án hôn nhân gia đình cho thấy vấn đề xác định và phân chia TS của vợ chồng là một trong những vấn đề quan trọng và phức tạp. Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 ra đời đã có xu hướng khắc phục phần nào những vướng mắc, phức tạp trong vấn đề trên. Tuy nhiên, việc thực thi quy định về đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản chung của vợ chồng (gọi tắt là đăng ký TSC) tại khoản 2 Điều 27 e có nhiều vướng mắc: “TS thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì trong Giấy chứng nhận quyền sở hữu phải ghi tên của cả hai vợ chồng”.

Quá trình thực thi quy định này có các trường hợp, có thể mô tả bằng sơ đồ 1. Qua đó, chúng ta có thể thấy rằng:

- Quy định mới về đăng ký TSC (khoản 2 Điều 27) chỉ có nghĩa trong các trường hợp 1a. 2a.. Tuy nhiên, trên thực tế, nếu thực thi quy định này thì 1a. là trường hợp vướng mắc nhiều nhất (vì vấn đề này có liên quan đến nhiều cơ quan, ban, ngành khác). Bên cạnh đó, những tốn kém đáng kể về thời gian, tiền của của Nhà nước và nhân dân là điều không tránh khỏi…

- Trong các trường hợp còn lại, quy định mới về việc đăng ký TSC thực sự không có ý nghĩa. Bởi lẽ đối với loại TSC mà không thực hiện (1b) hoặc thực hiện không được việc đăng ký chung (2b) thì rõ ràng những quy định mới chưa được thực thi.

- Vì đăng ký TSC là một thủ tục hành chính nên yêu cầu của vấn đề này thường đặt ra rất cao (với các yếu tố có liên quan như hộ khẩu thường trú, giấy tờ tùy thân của đương sự…). Do vậy, sẽ có trường hợp chỉ có một người (vợ hoặc chồng) đủ điều kiện đứng tên đăng ký (2b). Khi đó, những TSC thay vì phải đăng ký chung thì trong Giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng TSC lại mang tên một người. Trên cơ sở này, khi xác định TS của vợ chồng, chúng ta sẽ xác định loại TS này là chung hay riêng?

+ Nếu coi đây là TSC thì lại trái với quy định mới về việc đăng ký TSC tại khoản 2 Điều 27. Bởi vì Luật quy định TSC thì phải đăng ký chung, nghĩa là Giấy chứng nhận phải có tên 2 người thì TS đó mới là TSC. Nhưng khi không đăng ký được, TSC do một người đứng tên cũng được coi là TSC (?).

+ Nếu coi đây là tài sản riêng (TSR) thì lại trái với quy định tại khoản 1 Điều 27: “TSC của vợ chồng gồm TS do vợ chồng tạo ra… trong thời kỳ hôn nhân”, nhưng khi không đăng ký chung được thì đó lại là TSR (?).

Rõ ràng, trong trường hợp này, ta không thể xác định được TS này là chung hay riêng.

- Một thực tế cần phải thừa nhận trong đời sống hiện nay là trước khi kết hôn, không ít cặp nam nữ cùng nhau tạo lập nên một số TSC đáng kể. Do vậy, còn một trường hợp khác cần quan tâm đó là những TSC do vợ chồng tạo lập trước hôn nhân – tức việc đăng ký TSC diễn ra trước đăng ký kết hôn – khi đăng ký thì mang tên mấy người? Liệu rằng trường hợp này có được linh động cho 2 người đứng tên sở hữu chung (theo quy định về Sở hữu chung theo phần – Điều 231 Bộ luật Dân sự) hay các cơ quan chức năng lại không chấp nhận đăng ký vì cho rằng chủ thể đăng ký chưa phải là vợ chồng theo pháp luật?

Vợ chồng nên kê khai TS khi đăng ký kết hôn:

Điều 5 khoản 3 Nghị định 70/NĐ-CP ngày 3/10/2001 hướng dẫn thi hành Luật HNGĐ (gọi tắt là Nghị định) không buộc vợ chồng phải đăng ký lại những TSC đã đứng tên một người trước đó (trước ngày Nghị định có hiệu lực). Như đã phân tích ở trên, chúng tôi cho rằng quy định này mới “gỡ” được một phần vướng mắc trong vấn đề trên (giải quyết được 1a) nhưng lại rơi vào 1b (quy định của Luật mới lại chưa thực sự có nghĩa đối với loại TSC đã được đăng ký).

Từ những vướng mắc đáng kể trong việc xác định TS của vợ chồng, để đảm bảo được ý chí nhập hay không nhập TSR vào TSC của đương sự, chúng tôi đề xuất giải pháp buộc vợ chồng phải kê khai khi đăng ký kết hôn:

+ Phần khai về tài sản riêng: đương sự liệt kê những tài sản hiện có mà mình không muốn nhập vào khối TSC.

+ Phần ghi tài sản chung: bao gồm các TS mà hai người cùng tạo lập trước hôn nhân và những tài sản riêng mỗi bên tự nguyện nhập vào (không quan tâm đến việc TS do mấy người đứng tên).

+ Nếu không kê khai những TS có giá trị nhỏ, không đáng kể vào phần tài sản chung hay riêng thì về sau, những TS này là của chung (TS có giá trị nhỏ ở đây chỉ mang tính tương đối như các vật dụng trong gia đình…, đó không phải là những món đồ trang sức, vật kỷ niệm, đồ dùng cá nhân…)

+ Việc kê khai phải do chính đương sự thực hiện, tự mình ký tên hoặc điểm chỉ trước sự thừa nhận của bên kia và cán bộ có thẩm quyền. Việc kê khai chỉ có ý nghĩa giữa vợ và chồng mà có thể không có ý nghĩa đối với người thứ ba.

Để thực thi giải pháp này, công tác tuyên truyền pháp luật phải trực tiếp và có hiệu quả hơn. Chúng tôi kiến nghị cấp thêm cho mỗi cặp vợ chồng một văn bản Luật HNGĐ hiện hành (cùng lúc với Giấy chứng nhận kết hôn).

Đối với những cặp vợ chồng đã đăng ký kết hôn (đã ổn định cuộc sống, có con chung và TSC), thì nên tiến hành kê khai TS vào ngay thời điểm này – thời điểm bắt đầu áp dụng Luật HNGĐ mới. Quá trình này sẽ được tiến hành song song với việc kê khai TS của cán bộ, công chức; nghiêm túc và triệt để như một quá trình điều tra dân số được thực hiện thống nhất trên cả nước từ trước đến nay.

Khi vấn đề này được đưa vào Luật, các bên sẽ nhận thấy được tầm quan trọng của việc thực hiện giao dịch dân sự bằng văn bản. Nghĩa là họ biết trước khả năng “mất đi” khối TSR mới có được trong thời kỳ hôn nhân. Từ đó, khi được tặng cho hoặc thừa kế riêng một khối lượng TS thì vợ (chồng) phải lập văn bản để chứng minh nguồn gốc của TS đó (nếu họ coi trọng việc phải giữ gìn TS đó cho riêng mình).

Sau “chiến dịch” kê khai tài sản, mọi người phải thừa nhận rằng Bảng kê khai TS – đó là chứng cứ quan trọng nhất trong việc Tòa án giải quyết xác định và phân chia TS của vợ chồng khi có yêu cầu đặt ra, nhất là khi ly hôn.

Chúng tôi cho rằng giải pháp này sẽ áp dụng được cho tất cả các loại tài sản (chung hoặc riêng, có đăng ký hoặc không đăng ký quyền sở hữu, được tạo lập trước hay sau khi đăng ký kết hôn, trước hay sau ngày áp dụng giải pháp mới). Hy vọng rằng Dự thảo Nghị định sớm bổ sung kiến nghị này để vấn đề xác định TS của vợ chồng có một bước đột phá mới, đỡ đi được phần nào “gánh nặng” cho ngành Tòa án.·

(PHẦN SƠ ĐỒ VÀ MẪU KÊ KHAI TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG KÈM THEO BÀI VIẾT DO LỖI FILE NÊN CHÚNG TÔI KHÔNG ĐĂNG LÊN CÙNG BÀI ĐƯỢC MONG TÁC GIẢ VÀ CÁC BẠN THÔNG CẢM).

SOURCE:  TẠP CHÍ KHOA HỌC PHÁP LÝ SỐ 1/2004

Thứ Hai, 7 tháng 1, 2008

NHỮNG CÔ DÂU... KHÔNG THỂ CHẠY TRỐN

Cô dâu Huỳnh Mai, cô dâu Kim Đồng lấy chồng nước ngoài để thực hiện giấc mơ đổi đời. Thế nhưng, khi giấc mơ ấy chưa thành hiện thực thì họ đã bỏ mạng nơi xứ người: Huỳnh Mai bị người chồng Hàn đánh đập cho tới chết còn Kim Đồng thì bỏ mạng vì ngã từ trên cao xuống khi chạy trốn người chồng của mình.

Đó chỉ là hai cái chết thảm trong số rất nhiều những số phận không may mắn của những người phụ nữ Việt Nam lấy chồng ngoại quốc thông qua con đường môi giới hôn nhân. Những người nghèo vì đồng tiền vẫn phải đánh bạc với số phận của mình, còn những trung tâm môi giới vì lợi nhuận vẫn bất chấp tính mạng của những cô dâu Việt. Những trung tâm này đẩy những cô gái Việt ra giữa biển khơi mà không cho họ một chiếc phao cứu sinh để họ có đường sống sót quay về bờ.
1. Thiên đường không tìm thấy

Cô dâu Kim Đồng trong đám cưới những tưởng là thiên đường của mình

Họ là những người con gái Việt Nam lấy chồng ngoại quốc thông qua những trung tâm môi giới hôn nhân. Không khả năng sử dụng ngoại ngữ của nước sở tại, không hiểu biết về nền văn hóa và truyền thống của quốc gia đó, không một chút thông tin về người mình sắp lấy làm chồng và gia đình của anh ta. Và điều quan trọng nhất là không có tình yêu. Nói tóm lại, các cô dâu Việt lấy chồng thông qua con đường môi giới hôn nhân không hề có một điều kiện nào để đảm bảo cho một gia đình hạnh phúc về sau, thế nhưng họ vẫn nhắm mắt đưa chân, đánh cược với số phận của mình và những kết thúc đau lòng, bi thảm dường như là hệ quả tất yếu của những cuộc hôn nhân như thế.

Điểm khởi đầu của con đường hôn nhân này là những Trung tâm môi giới hôn nhân. Những người phụ nữ bị buộc phải đứng xếp hàng (nhiều trường hợp bị buộc phải lột bỏ y phục) để cho những người đàn ông ngoại quốc lựa chọn như những món hàng. Ngay từ khi đó, họ đã ở vào thế yếu và phải chấp nhận sự khinh rẻ của những người chồng tương lai của mình - những người họ không hề quen biết và cũng không có quyền được tìm hiểu. Một điều quan trọng ở đây: "Chú rể" không phải là một người thanh niên cùng lứa tuổi với cô dâu, mà là những người đàn ông tuổi tác bằng bố hay tuổi ông nội ông ngoại của cô dâu, hoặc thường là một người đàn ông đã góa vợ, bệnh hoạn hay thuộc loại không thể tìm được vợ ở quốc gia mà họ đang sinh sống.

Hiện nay, phụ nữ Việt Nam thường được môi giới hôn nhân với những người đàn ông ở Đài Loan và Hàn Quốc là chủ yếu. Khi dời khỏi Việt Nam những cô gái phải đối mặt với rất nhiều nguy cơ: Hoặc bị bán làm nô lệ không công, hoặc bị ép buộc hành nghề mại dâm cho dân bản xứ, hoặc bị bán cho các ổ điếm. Một số các cô khác thì quả thực được đem về làm vợ, nhưng không phải làm vợ cho một mình người đàn ông đã sang Việt Nam mua cô về, mà là phải lần lượt làm vợ cho tất cả những người đàn ông sống trong gia đình; và trong cuộc sống hàng ngày thì các cô bị đối xử như người ở hay giống như nô lệ: phải thức khuya dậy sớm, phải làm đủ mọi công việc phục dịch hầu hạ cho cả gia đình. Có những người lại được mua về để phục vụ những người bệnh hoạn tật nguyền trong gia đình. Chỉ có một số ít thực sự là làm dâu đúng nghĩa. Tuy nhiên, ngay cả đối với những cô dâu này, hai từ "hạnh phúc" vẫn là những tiếng xa lạ; phẩm giá và nhân vị của những người phụ nữ bị mua về làm dâu không được tôn trọng; các cô dâu không có tiếng nói trong gia đình và chỉ được coi như sở hữu của chồng và của cả gia đình nhà chồng, ai cũng có quyền sai khiến và bắt các cô phải phục dịch.

Thời gian gần đây, báo chí trong và ngoài nước đã phanh phui rất nhiều vụ xâm hại nghiêm trọng đến thân thể của các cô dâu Việt lấy chồng ngoại quốc. Từ những cô dâu Việt trên đất Đài bị sát hại như Trần Thị Hồng Thắm hay trở về Việt Nam trong tình trạng người không ra người như Trần Thị Bích My, Cao Thị Hồng Nương… đến những cái chết thương tâm của những cô dâu Việt trên đất Hàn như Huỳnh Mai, Kim Đồng chính là những hình ảnh bề nổi của phận Việt làm dâu nơi đất khách: Họ không thể và không có khả năng để chạy trốn khỏi những nguy cơ có thể tổn hại đến sức khỏe, thậm chí là chính mạng sống của mình. Một cái giá, một sự đánh đổi quá đắt khi chấp nhận làm dâu trên đất khách khi không có tình yêu để mong có được cuộc sống đầy đủ, sung túc cho gia đình và bản thân. Họ không thể tìm thấy thiên đường cho mình mà rơi vào địa ngục và thủ phạm chính là những trung tâm môi giới hôn nhân.

Cô dâu Huỳnh Mai trong ngày cưới

2. Và những trung tâm buôn bán phụ nữ trá hình

Những cô gái Việt Nam muốn đổi đời bằng con đường lấy chồng ngoại quốc ngày càng nhiều lên chính là điều kiện để những trung tâm môi giới hôn nhân có thể tồn tại và phát triển. Thế nhưng, cách làm ăn thiếu trách nhiệm của những trung tâm buôn bán phụ nữ trá hình dưới cái tên “môi giới hôn nhân” chính là thủ phạm của những cái chết thương tâm của những cô dâu Việt trên đất khách.

Vì lợi nhuận, những trung tâm này không quan tâm đến hạnh phúc của những người được họ mai mối. Họ biến những cô gái nông thôn thành những món hàng để rao bán cho những người đàn ông ngoại quốc. Họ không hề trang bị cho những cô gái ấy một chút vốn liếng nào để có thể trở thành cô dâu ở một đất nước xa lạ. Thậm chí họ không thể tự kêu cứu khi tính mạng bị đe dọa. Những cô dâu ấy phải tự mình bươn chải nơi xứ người mà không nhận được sự giúp đỡ từ phía trung tâm môi giới hôn nhân mà họ đã tin tưởng gửi mình. Những trung tâm ấy đẩy họ ra biển cả mà không cho họ một chiếc phao cứu sinh để có thể quay lại bờ.

Trở lại trường hợp của Huỳnh Mai, cô gái này chấp nhận lấy chồng Hàn Quốc và gia đình cô chỉ được trả một số tiền rẻ mạt là 400 USD. Ngay khi làm đám cưới xong, những “ông tơ bà nguyệt” của cuộc hôn nhân này đã thu mất 200 USD từ phía cha mẹ cô và họ rũ bỏ hoàn toàn trách nhiệm. Họ bỏ mặc số phận của một con người sau khi đã nhận được khoản phí từ việc môi giới hôn nhân đó.

Nạn nhân của các trung tâm môi giới hôn nhân

Những trung tâm môi giới hôn nhân giữa người Việt Nam và người nước ngoài không khác gì những con buôn. Họ lấy những người phụ nữ Việt Nam làm món hàng để có thể thu về lợi nhuận cho bản thân mình. Những người phụ nữ Việt Nam chấp nhận lấy chồng Đài Loan, Hàn Quốc và một số quốc gia khác thông qua những trung tâm môi giới phải chấp nhận cuộc hôn nhân không do tình yêu, nhưng là do hoàn cảnh sống éo le bó buộc; và các cô đi lấy chồng không do cưới hỏi đúng với đạo lý và truyền thống dân tộc, mà là do mua bán, do những kẻ "buôn người" thời đại dàn dựng, thu xếp.
Tất cả những vấn đề hậu hôn nhân với người nước ngoài đều do các cô dâu tự chịu trách nhiệm. Nhiều cuộc hôn nhân không những không hạnh phúc mà những người phụ nữ phải đối mặt với nguy cơ trở thành nô lệ tình dục, bị đe dọa về nhân phẩm thậm chí cả tính mạng nhưng các trung tâm môi giới hôn nhân hoàn toàn vô can trong tất cả những vấn đề nảy sinh sau khi cô dâu Việt về nơi xứ người. Sự vô trách nhiệm và làm việc chụp giật, tất cả vì lợi nhuận này của các trung tâm môi giới hôn nhân chính là thủ phạm của câu chuyện tang thương khi những cô gái Việt Nam làm dâu trên những quốc gia khác.

Hàng loạt những câu chuyện đau lòng xảy ra trong thời gian qua đã gióng lên một hồi chuông cảnh tỉnh: Không thể để tình trạng những người phụ nữ Việt Nam làm dâu xứ người bị chà đạp về danh dự và nhân phẩm, bị coi như những món hàng hóa để trao đổi, bị đe dọa cả về tính mạng được nữa. Việc chúng ta có thể làm ngay bây giờ, đó là: Cấm toàn bộ những trung tâm buôn bán người trá hình được ngụy trang dưới cái tên: Trung tâm môi giới hôn nhân. Nếu không kiểm soát được tình trạng kết hôn với người nước ngoài chỉ vì tiền thì những nỗi đau của những cô dâu Việt như Huỳnh Mai, Kim Đồng sẽ còn tiếp tục tái diễn.

*****************************************************************************************

Để một cuộc hôn nhân bền vững, ngoài tình yêu giữa hai người khác giới thì còn có những nhân tố khác hết sức quan trọng như sự tương đồng về thể trạng, sức khỏe, điều kiện kinh tế, hòa hợp tâm hồn và hiểu biết về ngôn ngữ và văn hóa của đối tác. Những cuộc hôn nhân giữa người nước ngoài với cô dâu Việt không hề có được những nhân tố này nên không thể có hạnh phúc.

Thế nhưng, các Trung tâm môi giới hôn nhân đã bất chấp tất cả. Vì lợi nhuận họ sẵn sàng đẩy các cô gái Việt Nam sang xứ người mà không trang bị cho họ bất kỳ một kỹ năng gì. Bên cạnh những cô dâu như Huỳnh Mai, Kim Đồng bỏ mạng nơi xứ người là những tấm gương nhỡn tiền còn có biết bao cô gái khác đang phải trả giá với hôn nhân mai mối. Đã đến lúc dẹp bỏ những Trung tâm buôn bán phụ nữ trá hình dưới mĩ từ “Môi giới hôn nhân”.

Nhà văn Lê Minh Khuê: “Tôi phản đối hôn nhân với người nước ngoài qua môi giới”

Nhà văn Lê Minh Khuê - Ảnh: Tuấn Hải

Theo ý kiến của tôi thì để tiến tới hôn nhân không cần nhiều lắm đến tình yêu, thế nhưng, quan trọng là chọn được người bạn đời mà mình phải cảm thấy yên tâm khi ở bên cạnh họ. Đó là những người có tính tình ôn hòa, không có sự phiêu lưu, báo hiệu cho sự đổ vỡ sau này. Như vậy có thể khẳng định: Nền tảng để đi tới hôn nhân chính là sự hiểu biết lẫn nhau giữa hai người khác giới. Thứ nữa là sức khỏe, khả năng tài chính, việc làm. Hôn nhân hiện đại nó thế, chúng ta phải có tất cả những thứ đó để có thể đảm bảo hạnh phúc được lâu bền. Quan trọng nhất là sự bình tĩnh trước đời sống để có thể xử lý tình huống. Đời sống hiện đại nó khủng khiếp lắm, nếu mà người ta không bình tĩnh thì nó sẽ đổ vỡ hết. Điều này đặc biệt quan trọng ở phía những người đàn ông.
Ngày xưa các cụ nhà mình “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” nhưng hôn nhân vẫn bền vững bởi vì khi mai mối họ đã có những hiểu biết nhất định về nhau, sự tương đồng về kinh tế mà các cụ hay dùng từ “môn đăng hộ đối”, còn nhiều cuộc hôn nhân vì tình yêu nhưng khi lấy nhau rồi vẫn đổ vỡ. Nghĩa là để một cuộc hôn nhân có thể tồn tại thì không cần nhiều tình yêu lắm. Để sống với nhau miễn là không chối quá. Không cần lệ thuộc quá vào chuyện yêu đương. Trong đời sống hôn nhân quan trọng nhất là sự nhường nhịn. Một cuộc môi giới hôn nhân giữa hai người trong cùng một quốc gia hoàn toàn có thể có hạnh phúc là vì người ta có cơ sở để hiểu biết về nhau và có những sự tương đồng về điều kiện kinh tế và lối sống.
Để hai người có thể sống với nhau ổn định và lâu dài thì sự cân bằng giữa hai người có một vai trò quyết định. Người chồng kiếm được tiền, người vợ cũng kiếm được tiền là điều hết sức cơ bản. Nếu như một người phụ thuộc vào người khác thì nó sẽ là gánh nặng cho cả hai người và như thế thì rất không tốt cho một cuộc hôn nhân. Để có được cuộc sống hạnh phúc thì hai bên phải cân bằng nhau và độc lập với nhau một cách tương đối.

Hai yếu tố ngôn ngữ và văn hóa rất quan trọng để một cuộc hôn nhân có thể bền vững. Các cô gái Việt Nam đi lấy chồng nước ngoài cần phải hiểu được ngôn ngữ và văn hóa của nước đó nếu không thì nguy hiểm lắm. Nếu như hai nền văn hóa khác nhau rồi thì phải có ngôn ngữ để chinh phục nhau, cuộc hôn nhân nó mới có thể bền vững được. Không có cả hai yếu tố này thì thực sự là đáng lo ngại.

Môi giới hôn nhân với người nước ngoài theo tôi là hết sức nguy hiểm, một cô gái nông thôn, tiếng thì không biết, không hiểu một tý gì về truyền thống và văn hóa thế mà các trung tâm lại có thể đưa họ sang làm dâu ở một nước xa lạ. Môi giới hôn nhân kiểu vô trách nhiệm như thế có khác gì đẩy người ta ra biển, nếu mà hôn nhân kiểu như thế người ta chỉ cần mình về làm cái máy đẻ và người giúp việc. Những bậc cha mẹ cho con đi lấy chồng kiểu ấy thì có khác gì bán con?

Nếu muốn người phụ nữ Việt Nam có thể lấy chồng ngoại quốc và đảm bảo cho cuộc hôn nhân ấy yên ổn trước hết là phải chuẩn bị cho người ta cái phao: Ít nhất là cái văn hóa và ngôn ngữ để người ta có thể thích nghi với cuộc sống ở một gia đình xa lạ, một đất nước xa lạ không có người thân bên cạnh mà điều này thì những người phụ nữ lấy chồng thông qua môi giới hôn nhân không có.

Tôi không tán thành những trung tâm môi giới hôn nhân vô trách nhiệm, họ không chuẩn bị cho những cô gái hành trang: Ngôn ngữ, văn hóa, cách ứng xử với những tình huống trong đời sống và thậm chí là cách để tự cứu lấy bản thân khi những nguy cơ bị xâm hại xảy ra.

Những người đàn ông ngoại quốc lấy vợ Việt Nam thông qua những trung tâm môi giới hôn nhân thường lại là những người không có đủ khả năng kinh tế để lấy vợ ở quốc gia mà họ sinh sống hoặc họ là những người không khỏe mạnh về mặt tâm lý nên họ mới chọn lấy vợ ở một quốc gia khác. Vì thế xác suất của việc xảy ra xung đột sẽ cao hơn các cặp vợ chồng cùng quốc tịch rất nhiều. Những người phụ nữ lấy chồng kiểu ấy là bán mình vì tiền chứ còn gì nữa. Mà đã bán mình thì phải nhẫn nhục, phải chịu ở thế yếu so với người ta.

Các cô ấy xuất thân từ nông thôn, chỉ ra ra thành phố lớn còn bỡ ngỡ nữa là sang một quốc gia khác. Phải có sự chuẩn bị kỹ cho người ta chứ? Nếu anh đã môi giới anh phải có trách nhiệm với những cuộc hôn nhân đó chứ “đem con bỏ chợ” thế thì không chấp nhận nổi. Những sự việc đau lòng xảy ra gần đây cũng là hậu quả tất yếu của những cuộc hôn nhân như thế. Nhưng giá như các cô gái ấy biết một chút ngôn ngữ để có thể tự cứu bản thân mình thì đâu đến nỗi?
Tôi nghĩ rằng nếu muốn tiến tới hôn nhân thì cả người nước ngoài kia và vả cô gái Việt Nam cần phải có những sự hiểu biết nhất định về nhau, về ngôn ngữ, văn hóa và lối sống của nhau. Lấy vợ chứ có phải lấy người làm thuê đâu, mà ngay lấy người làm thuê người ta cũng còn phải tìm hiểu. Chuyện hôn nhân đại sự, chuyện hạnh phúc của cả một đời người không thể lấy ra làm trò cá cược như thế. Số phận của một người con gái cũng không thể coi như một món hàng để đổi chác như thế.

Muốn hạn chế tối đa tình trạng những cô dâu Việt lấy chồng ngoại quốc bị giết, bị hành hạ hoặc bị bán thì cần nâng cao trình độ hiểu biết cho chính những gia đình ở nông thôn để họ nhận ra rằng: Lấy chồng nước ngoài không phải là con đường dễ dàng để có thể đổi đời như bấy lâu họ vẫn lầm tưởng, hạn chế tối đa được những cuộc hôn nhân với người ngoại quốc chỉ vì tiền. Đó là biện pháp lâu dài, còn cái trước mắt chúng ta có thể làm ngay đó là cấm những trung tâm môi giới hôn nhân vô trách nhiệm đang hoạt động hiện nay.

Còn những người phụ nữ Việt muốn kết hôn với người nước ngoài họ phải có sự hiểu biết nhất định về ngôn ngữ, văn hóa và truyền thống của quốc gia mà họ sắp về làm dâu. Kể cả những người đàn ông nước ngoài cũng phải có sự hiểu biết nhất định về cô gái mà anh ta chuẩn bị kết hôn.

Nếu các tổ chức đoàn thể của mình như Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên, Đại sứ quán của mình có thể phối hợp chặt chẽ với nhau hơn thì có lẽ những chuyện đau lòng như thế sẽ ít xảy ra hơn. Các tổ chức ấy người thì đông chả thấy họ làm gì. Chỉ cần họ làm đúng chức năng thôi đã quá tốt rồi. Mấy đoàn thể không lo cho đồng bào mình, không bảo vệ đồng bào mình thì để làm gì nữa. Công việc của họ là gì? Họ chỉ làm việc ấy thôi chứ? Họ phải bảo vệ quyền lợi của phụ nữ chứ, chứ không họ làm gì? Đại sứ quán của mình phải có trách nhiệm với đồng bào của mình bên ấy. Chính quyền là cha mẹ của dân, gả con gái của mình thì phải có trách nhiệm với hạnh phúc của con cái chứ đừng “đem con bỏ chợ”.

Trang bị những thứ tối thiểu cho các cô gái như ngôn ngữ, lối sống để ít nhất họ có thể kêu cứu nếu xảy ra chuyện không may. Biết tiếng rồi còn gặp những sự bỡ ngỡ nữa là không biết gì. Các đoàn thể của Việt Nam cũng phải bảo vệ cho các cô gái. Phải có cam kết, anh lấy con tôi thì anh phải cam kết anh lấy nó về làm vợ chứ không phải anh mua nó như một món hàng để về làm cái máy đẻ hay làm nô lệ cho anh. Nếu còn tình trạng lấy chồng nước ngoài vì tiền thì những chuyện đáng tiếc còn tiếp tục xảy ra. Họ mua vợ, về làm dâu mà sống phụ thuộc vào gia đình họ, chênh lệch ngôn ngữ, văn hóa rất dễ xảy ra xung đột. Nếu con gái tôi muốn lấy một người nước ngoài tôi sẽ không muốn chứ đừng nói tới việc qua môi giới hôn nhân.

PGS – TS Lương Quỳnh Khuê – Trưởng khoa Văn hóa xã hội chủ nghĩa – Học viện Báo chí và Truyên truyền: “Cần phải cấm toàn bộ những trung tâm môi giới hôn nhân vô trách nhiệm”

PGS.TS Lương Quỳnh Khuê

Theo tôi thời nào cũng vậy, cái gốc của hôn nhân phải là tình yêu. Sự quan trọng quyết định đến sự tồn tại của hôn nhân sau này phải là có tình yêu hay không. Tất nhiên là có những trường hợp yêu nhau nhưng sau này vẫn đổ vỡ. Nhưng nếu hôn nhân không dựa trên tình yêu trước sau thế nào nó cũng nảy sinh vấn đề. Hoặc là hai người sẽ chán nhau, kinh lẫn nhau, không tôn trọng nhau bởi vì anh cần cái thể xác trẻ trung của tôi, ngược lại tôi cần túi tiền của anh.

Tôi thấy lớp trẻ bây giờ, dựa trên tình yêu để dẫn tới hôn nhân nhưng họ có điều kiện tốt hơn về kinh tế để chuẩn bị cho đời sống hôn nhân sau này. Hôn nhân không có tình yêu, hôn nhân vì tiền. Những cô dâu Việt bị sát hại ở Hàn Quốc gần đây và những cô gái lấy chồng thông qua môi giới hôn nhân rõ ràng không xuất phát từ tình yêu. Đúng là một sự đánh bạc kinh khủng, đưa cả cuộc đời của mình ra đánh bạc, lấy cả những người đàn ông bằng tuổi bố mình, ông mình. Tôi thấy thương vô cùng. Nhiều bậc bố mẹ lại thấy đây là con đường để cứu cả gia đình mà họ không ý thức được những vấn đề khác, khi đã lấy chồng như thế trong tâm của người nước ngoài họ đã coi thường. Và cái điều buồn của mình là họ không chỉ coi thường một cô gái ấy mà họ còn coi thường cả những cô gái Việt Nam, phụ nữ Việt Nam trước cộng đồng quốc tế.
Những trường hợp lấy nhau do môi giới hôn nhân có thể có hạnh phúc không? Tôi nhớ một bộ phim của Trung Quốc tôi xem khi còn rất nhỏ là "Cầu phúc" dựa trên truyện ngắn của Lỗ Tấn. Chuyện phim kể về một chị nông dân Trung Quốc được gả bán cho một anh nông dân Trung Quốc, về sau họ sinh một đứa con. Khi anh ấy đứng nhìn cô ấy chăm sóc và âu yếm đứa con thì có một lời bình của phim là “duyên ép hóa duyên lành”.

Nhưng đấy là hai người Trung Quốc, họ cùng ngôn ngữ và văn hóa cộng thêm rất nhiều sự tương đồng khác về thể chất, tình yêu nó khó nói lắm, họ có một sự đồng cảm mà người khác không hiểu được. Hôn nhân với người nước ngoài không thể có tình yêu, rất ít trường hợp may mắn để những cuộc hôn nhân như thế hạnh phúc. Tôi phản đối hôn nhân với người nước ngoài thông qua môi giới.

Sự khác nhau về ngôn ngữ và văn hóa của nhau sẽ cản trở rất lớn tới hôn nhân thế nên nếu muốn tiến tới hôn nhân thì phải tìm hiểu ngôn ngữ và nền văn hóa của nhau để tự điều chỉnh. Phải tìm hiểu và có ý thức tự điều chỉnh. Nhập gia phải tùy tục, nếu hai người sống với nhau có ý thức để tiếp thu nền văn hóa của nhau thì dù anh có hơi vụng về nhưng người ta vẫn chấp nhận. Lối sống, chuẩn giá trị đạo đức. Hai người phải có ý thức để tìm hiểu lẫn nhau để vượt qua rào cản ngôn ngữ và văn hóa nhưng theo tôi cái gốc nhất vẫn phải là tình yêu.

Theo tôi tốt nhất là nên xóa bỏ sự tồn tại của những trung tâm môi giới hôn nhân với người nước ngoài. Nhưng mà nếu như các cô gái vẫn tiếp tục lấy chồng nước ngoài thì cần có phải có biện pháp để ngăn chặn những trung tâm môi giới chui nếu không còn tai hại hơn. Tốt nhất là mình thành lập những câu lạc bộ kiểu mà mình quản lý được. Nếu bỏ được thì tốt theo nghĩa mình có cái khác. Chứ cái tình trạng môi giới hôn nhân như hiện nay, tự nhiên đến nhìn mặt nhau, anh ta chỉ việc đưa ít tiền rồi ba ngày hôm sau cưới.

Tôi không thể tưởng tượng được nếu như là mình tại sao mình lại dấn thân vào con đường như thế, gửi cả cuộc đời mình, con cái mình cho một người đàn ông xa lạ ở một đất nước xa lại như thế, thực sự là phiêu lưu. Hôn nhân kiểu gì mà đến nhìn rồi còn sờ, nắn xem là người ấy có khỏe mạnh hay không. Tôi cho đó là một sự xúc phạm và sỉ nhục ghê gớm, coi người phụ nữ như những món hàng. Người Việt Nam mình lấy nhau có phải đôi nào cũng hạnh phúc đâu, nữa là lấy người nước ngoài.

Độ an toàn trong hôn nhân, về tính mạng con người cao hơn nhiều so với lấy chồng nước ngoài, nhất là qua môi giới hôn nhân. Họ chỉ muốn các cô gái Việt làm cái máy đẻ thuê, người ở cho họ chứ có phải lấy để làm vợ đâu. Một trong những cái mất của hội nhập tôi nghĩ cũng là cái này.

Chẳng có người mẹ nào gả con mà không muốn con hạnh phúc, không có người phụ nữ nào lấy chồng mà không muốn mình có một gia đình hạnh phúc nhưng mà cái trung tâm môi giới cho các cô dâu lại thường vô trách nhiệm, họ chỉ làm xong việc thu tiền rồi lặn mất tăm mà không có tý trách nhiệm nào với những khách hàng của họ. Những người phụ nữ ấy không biết trông cậy vào đâu.

Chúng ta cần phải kiểm tra trình độ ngôn ngữ và hiểu biết văn hóa lẫn nhau của cả cô dâu và chú rể trước khi đồng ý cho họ kết hôn. Phải bảo vệ những người phụ nữ Việt Nam Vừa rồi chỉ vì chúng ta không bảo vệ được người phụ nữ Việt Nam nên mới để xảy ra những câu chuyện đáng buồn như của Huỳnh Mai và Kim Đồng và trước đó là rất nhiều cô gái khác.

Không thể để xảy ra tình trạng một cô gái sang phải làm vợ của mấy người trong gia đình hay bị bán vào các động mại dâm, bị bóc lột đến kiệt quệ. Tôi thấy thật là khủng khiếp. Cần phải cấm toàn bộ những trung tâm môi giới hôn nhân vô trách nhiệm. Và càng giảm thiểu được bao nhiêu những chuyện hôn nhân vì tiền với người nước ngoài thì càng tốt bấy nhiêu.

Lưu Thủy – Sơn Khê (VieTimes)

**************************************************************

NGHÈO + VĂN HÓA VÙNG MIỀN = LIỀU MẠNG LẤY CHỒNG ... HÀN QUỐC

Chuyện các cô gái Việt lấy chồng Đài Loan, Hàn Quốc…(trong số đó, các cô gái miền Tây Nam Bộ chiếm phần lớn) thông qua hình thức môi giới hôn nhân, nhất là các đường dây môi giới bất hợp pháp lại một lần nữa được đem ra bàn luận: “Tại sao miền Tây được thiên nhiên đặc biệt ưu đãi, điều kiện tự nhiên vào loại thuận lợi nhất nước mà con gái lấy chồng ngoại lại cũng nhiều nhất nước?” – VieTimes đã đem vấn đề này trao đổi cùng GS.VS.TSKH Trần Ngọc Thêm, Trưởng bộ môn Văn hóa học - Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Ông khẳng định cái nghèo, sự hạn chế tri thức, đặc điểm văn hoá vùng miền chính là lý do khiến nhiều cô gái miền Tây quyêt ý lấy chồng Hàn Quốc, Đài Loan...

Nghèo, trình độ dân trí thấp và bối cảnh văn hóa vùng

GS.VS.TSKH Trần Ngọc Thêm

Ông cho biết: "Trước hết, tôi phải khẳng định ngay rằng đúng là miền Tây Nam Bộ có điều kiện thuận lợi, thiên nhiên ưu đãi nhất nước, nhưng để từ đó suy ra rằng cuộc sống của người dân ở đây sung sướng nhất nước thì điều đó đã trở thành quá khứ. Đó là thời của văn hóa Nông nghiệp. Còn hiện nay, thời đại của công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì những ưu đãi của thiên nhiên không phải là tất cả.

Xưa, miền Tây giàu nhất nước. Địa chủ ở đây có đất đai thẳng cánh cò bay, thóc lúa đầy nhà. Khác với các vùng đất khác, con người nơi đây phân hóa rất sâu sắc. Tổ tiên của họ – những người đi vào khai hoang vùng đất mới, chia làm hai loại rõ rệt. Thứ nhất là lớp dân dưới đáy - đó là những người nghèo túng không mảnh đất cắm dùi, những người sống bằng nghề trộm cướp, những người trốn tù vượt ngục… vào vùng đất mới với hy vọng thay đổi số phận. Bên cạnh đó là những người trí thức bất đắc chí, không hợp tác được với triều đình hoặc không được triều đình trọng dụng nên mới phải bỏ đi. Họ là những trí thức cực đoan mang theo một nền giáo dục Nho giáo cũng rất cực đoan.

Ở giai đoạn trước đây, khi công nghiệp chưa tràn vào thì với điều kiện rất thuận lợi như đất đai màu mỡ, lại được phù sa bồi đắp, hệ thống kênh rạch, sông ngòi chằng chịt đem lại nguồn lợi thủy sản dồi dào, bước chân ra đồng là có cá, có tôm…, cái gì cũng sẵn. Chính vì vậy mà người dân miền Tây luôn hài lòng với cuộc sống của mình, không cần học nhiều, làm nhiều vẫn có thể đủ ăn, không cần chắt chiu tằn tiện như người miền Bắc hay miền Trung, làm được bao nhiêu là tiêu bấy nhiêu. Với cuộc sống dễ chịu như vậy, dễ hiểu là họ không có ham muốn thay đổi cuộc sống hiện tại – đó là cái trạng thái mà ta hay gọi là “không có chí tiến thủ”. Sang thời đại công nghiệp, vùng đất vốn phụ thuộc hoàn toàn vào nông nghiệp bỗng như bị “khớp”. Sản phẩm nông nghiệp làm ra không nâng được giá. Trong khi đó, đồng ruộng bị ảnh hưởng bới hóa chất, bởi thiên tai… không cho năng suất cao như trước. Mảnh đất vốn sống chung với lũ, nhờ lũ để bồi đắp phù sa giờ lại đắp đê ngăn lũ. Thuỷ sản gần như không còn. Người thì đông lên. Trong khi công nghiệp thì lại chưa vươn được tới. Hệ quả tất yếu là cái nghèo bao trùm lêm một bộ phận lớn dân cư.

Cũng phải nói thẳng rằng, trình độ dân trí của người dân nơi đây còn thấp. Lý do đơn giản là trước kia họ luôn bằng lòng với cuộc sống hiện tại nên không thấy cần học hành cao, không cần đỗ đạt cao. Ở đây, những gia đình có con học lên đến cấp 3 (phổ thông trung học) là đã hài lòng lắm rồi. Số chịu khó vươn lên học tới đại học hoặc cao hơn thì rất ít. Trình độ dân trí thấp, cuộc sống quen đơn giản, nên việc họ suy nghĩ đơn giản, ít đắn đo cân nhắc trước sau là chuyện dễ hiểu.

Trong khi đó, con cái đều có phẩm chất của văn hoá truyền thống Việt Nam là yêu thương, hiếu thảo với cha mẹ. Thấy ba má nghèo, muốn giúp đỡ. Nhiều cô gái chọn cách lấy chồng ngoại để có tiền giúp bố mẹ, để bố mẹ mở mày mở mặt với chòm xóm. Ý định, mong muốn này của các cô gái khi thể hiện ra lại được bố mẹ chấp thuận dễ dàng. Bố mẹ và con cái gặp nhau ở cùng một kiểu suy nghĩ. Nhiều người như thế, nhiều gia đình như thế tạo nên một bối cảnh văn hoá hoàn toàn khác hẳn với miền Bắc và miền Trung, nơi mà con người bị bị tác động rất nhiều bởi dư luận xã hội, mà dư luận xã hội thì rất chặt chẽ, khắt khe.

Trong khi đó, những thông tin về mặt trái của hôn nhân với người nước ngoài qua các công ty môi giới bất hợp pháp lại khó đến được những nơi này. Họ ít đọc báo, nghe đài, vào mạng internet… Nếu có đọc báo, nghe đài, xem truyền hình thì cũng quan tâm nhiều đến những chương trình giải trí, tin tức... mà thôi. Những gia đình có gốc Nho giáo, có truyền thống giáo dục con cái kỹ lưỡng thì do số lượng ít nên không đủ tạo nên một luồng dư luận xã hội ảnh hưởng tới xung quanh.

Tóm lại, nghèo, trình độ văn hóa thấp cùng bối cảnh văn hóa vùng là những nguyên nhân sâu xa khiến cho con gái miền Tây lấy chồng ngoại qua các công ty môi giới hôn nhân nhiều đến vậy, nhiều nhất cả nước."

Phóng viên (PV): Như vậy, người miền Tây, đặc biệt là phụ nữ quan niệm như thế nào về tình yêu, hôn nhân và gia đình ạ?

GS.TSKH Trần Ngọc Thêm (TNT): Như đã nói, người miền Tây Nam Bộ thường quan niệm, nhìn nhận mọi vấn đề khá đơn giản. Tâm lý này bắt nguồn từ việc thời xưa họ được thiên nhiên rất ưu đãi. Phụ nữ miền Tây quan niệm về tình yêu, hôn nhân và gia đình có khác so với phụ nữ miền Bắc và miền Trung. Ở miền Bắc và miền Trung, vai trò của người phụ nữ trong gia đình tương đối lớn, tương đối bình đẳng hơn trong quan hệ với nam giới. Nếu người chồng lo việc xã hội, việc nước thì người vợ là nội tướng trong gia đình, một tay quán xuyến tất cả mọi việc tề gia nội trợ. Họ luôn có ý thức chăm lo, vun vén cho gia đình, từ việc cắt đặt việc nhà đến việc nuôi dạy, giáo dục con cái… Đồng thời, họ cũng đòi hỏi khá nhiều phẩm chất ở người chồng như tu chí làm ăn, công danh sự nghiệp sáng láng… Phụ nữ miền Tây thì dễ dãi hơn. Họ rất chiều chuộng chồng, dễ dàng chấp nhận chuyện chồng nhậu nhẹt, say xỉn, thậm chí đánh đập mình. Trong khi đó, họ cũng ít lo vun vén cho gia đình như phụ nữ miền Trung, miền Bắc. Chồng mang bao nhiêu tiền về là xài hết bấy nhiêu, trưng diện cho bản thân trong khi nhà cửa có thể vẫn dột nát. Đối với con cái, cách giáo dục của họ cũng dễ dãi hơn rất nhiều. Con cái muốn học đến đâu thì học, không định hướng, không ép buộc…

PV: Tâm lý này, quan niệm này liệu có thể lý giải thêm một thực tế cũng rất nhức nhối ở nhiều tỉnh miền Tây là bên cạnh hiện tượng con gái lấy chồng ngoại nhiều, còn có hiện tượng không ít người vào thành phố làm gái mại dâm, thưa giáo sư?

TNT: Đúng là từ tâm lý dễ dãi ấy đã sinh ra một quan niệm dễ dãi là cứ nghề gì kiếm ra tiền, có lợi thì làm. Tuy vậy, chỉ một lý do đó thôi thì chưa đủ. Lý giải thực tế này còn phải nói đến quan niệm về vấn đề trinh tiết của người phụ nữ.

Khái niệm trinh tiết chỉ hình thành khi chế độ sở hữu xuất hiện. Trong xã hội phụ quyền, người đàn ông coi vợ là một vật sở hữu – giống như tài sản – của mình, vì vậy trinh tiết được chọn làm một dấu hiệu của sự sở hữu đó. Xã hội nào phân hóa sớm thì quan niệm đó xuất hiện sớm. Nền văn hóa nào coi đàn ông là tối thượng thì quan niệm đó là quan trọng. Còn nơi nào ý thức sở hữu không mạnh, ảnh hưởng văn hóa bên ngoài đến chậm thì quan niệm về chữ trinh cũng nhẹ nhàng hơn.

Miền Tây Nam Bộ với bối cảnh văn hóa vùng có nhiều điểm riêng biệt chính là một nơi như thế. Thiên nhiên ưu đãi khiến ý thức sở hữu không mạnh. Trong khi miền Bắc chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi Nho giáo với quan niệm nặng nề về chữ trinh, và sự ảnh hưởng này là rộng khắp, phổ biến, đồng đều do đặc điểm sống quần cư trong các làng xóm nhỏ, thì ở miền Tây, đạo Nho chỉ ảnh hưởng trong một bộ phận nhỏ dân cư (là những trí thức gốc Nho giáo). Tầng lớp dân cư còn lại (dân dưới đáy, dân nghèo) ít bị chi phối bởi hệ tư tưởng này. Bên cạnh đó, việc các gia đình sống cách xa nhau (sống trong các bưng biền, chia cách bởi sông ngòi, kênh rạch) khiến cho mối quan hệ trong cộng đồng làng xã lỏng lẻo hơn nhiều so với miền Trung và miền Bắc. Điều đó đồng nghĩa với việc áp lực xã hội không mạnh, dư luận xã hội không khắt khe, khiến cho ngay cả những việc như phụ nữ vào thành phố làm gái mại dâm cũng dễ được chấp nhận hơn.

PV: Trở lại câu chuyện về các cô dâu Hàn Quốc, qua cái chết của Huỳnh Mai và Kim Đồng, chúng ta cũng đặt ra rất nhiều câu hỏi về vai trò của các công ty môi giới hôn nhân. Giáo sư có nhận xét gì về vấn đề này?

TNT: Sự tồn tại của các công ty môi giới hôn nhân bất hợp pháp là không thể chấp nhận được. Thật là quá tệ. Như báo chí đưa tin, đám cưới tổ chức xong, bên nhà trai đưa cho nhà gái 400 đô thì môi giới ăn chặn mất một nửa. Còn có 200 đô, nhà gái không đủ tiền trang trải chi phí và thuê xe trở về quê. Không những thế, họ còn “đem con bỏ chợ”. Cưới xong là hết trách nhiệm. Chả cần biết con người ta bên xứ người sống chết thế nào… Nhưng cũng cần phải nói thêm rằng, luật pháp của chúng ta có quá nhiều kẽ hở. Chính những kẻ hỡ này đã bị họ khai thác triệt để và kiếm tiền trên phẩm giá, sinh mạng của những cô gái ước ao lấy chồng ngoại để mong đổi đời…

PV: Còn vai trò của các Đại sứ quán, các hiệp hội tại các nước có người Việt làm dâu thì sao?

TNT: Thật sự là khó có thể quan tâm đến tất cả mọi người với số lượng đông như thế. Song cũng phải thừa nhận rằng các cơ quan chức năng, các tổ chức của người Việt ở các nước này chưa làm hết trách nhiệm của mình, chưa chủ động hợp tác với các cơ quan, tổ chức của nước sở tại để tìm cách hạn chế, khắc phục tình trạng môi giới hôn nhân bất hợp pháp và trở thành chỗ dựa tin cậy cho các cô dâu.

Với câu chuyện của các cô dâu như Huỳnh Mai và Kim Đồng lâu nay báo chí Việt Nam đã có vai trò rất lớn, tạo nên một làn sóng dư luận. Hẳn là qua việc này, nhiều cô gái muốn lấy chồng ngoại, các ông bố bà mẹ cũng phải suy nghĩ kỹ trước khi quyết định.

PV: Dưới góc nhìn của giáo sư, chúng ta nên làm gì để chấm dứt tình trạng lấy chồng ngoại quốc thông qua môi giới hôn nhân bất  hợp pháp như vậy?

TNT: Sự thực là một bộ phận dân chúng có nhu cầu nên các công ty môi giới mới sống được. Việc gì xã hội có nhu cầu thì trách nhiệm của nhà nước là phải đáp ứng. Tôi nghĩ rằng cái cần phải cấm chỉ là toàn bộ các trung tâm môi giới hôn nhân bất hợp pháp. Tất nhiên là phải quản lý thật chặt những người muốn lấy chồng ngoại quốc hoặc muốn lấy vợ Việt Nam. Họ phải hội đủ những điều kiện về sức khỏe, kinh tế và hiểu biết về người mà họ chuẩn bị kết hôn thì mới được phép chứ không để như hiện nay được…

Mặt khác, chúng ta cần xem xét lại hoạt động, vai trò, trách nhiệm của cơ quan phụ trách vấn đề này, tại sao lại có thể để những trung tâm môi giới hôn nhân bất hợp pháp có thể ngang nhiên hoạt động như thế. Cần đặt những câu hỏi như tại sao chúng vẫn hoạt động được? Luật pháp đã kín kẽ chưa? Chế tài xử phạt có đủ sức răn đe không?

Nói tóm lại, việc cần làm là phải có pháp luật, quy định chặt chẽ với các hình thức chế tài đủ sức răn đe và các cơ quan chức năng cần quản lý để các công ty cũng như dân chúng thực hiện đúng theo pháp luật. Nếu vi phạm, cứ chiếu theo luật mà xử. Muốn thế, luật phải đáp ứng các tiêu chí: đầy đủ (bao quát hết), rộng khắp (để ai cũng biết) và thật sự nghiêm minh.

Tôi chắc rằng phía chính phủ Hàn Quốc, Đài Loan... sẵn sàng hợp tác bởi đây là việc có lợi cho chính họ. Người có nhu cầu lấy vợ nước ngoài qua môi giới ở các nước này là những thanh niên ở nông thôn, nơi mà con gái đã đi hết ra thành phố. Vấn đề là ở phía bên ta hành động như thế nào.

Bên cạnh đó, cũng cần tăng cường các biên pháp giáo dục, tuyên truyền. Tăng cường đưa những câu chuyện thực tế lên các phương tiện thông tin đại chúng, để người dân cũng bàn luận… Từ đấy, thay đổi dần quan điểm, nhận thức của họ. Có rất nhiều con đường để thoát nghèo chứ không phải chỉ có cách lấy chồng ngoại. Ở những vùng kinh tế khó khăn, Nhà nước phải có nhiều chính sách hỗ trợ, giúp họ nâng cao đời sống, như thay đổi cơ cấu ngành, đầu tư cơ sở hạ tầng… Khi đời sống khá lên thì chẳng việc gì họ lại phải đi đâu.

PV: Xin cảm ơn giáo sư về cuộc trao đổi này!
Minh Tâm (VieTimes)

Bài đăng phổ biến