TRẦN THỊ MAI PHƯỚC - Trường ĐHDL Văn Hiến TP.HCM
Nghiên cứu về quá trình giải quyết một vụ án hôn nhân và gia đình (HNGĐ), người ta nhận thấy rằng vấn đề phân chia tài sản của vợ chồng là một trong những vấn đề khó khăn, phức tạp và không kém phần quan trọng. Tuy nhiên, để phân chia được, trước hết người ta phải xác định được đâu là tài sản (TS) phải chia, không chia và không được chia. Nghĩa là Tòa án phải xác định được đâu là TS chung của vợ chồng, đâu là TS riêng của mỗi người và đâu là TS của người thứ ba mà vợ chồng đang quản lý. Trong phạm vi bài viết này, tác giả muốn đề xuất và phân tích giải pháp góp phần đơn giản hóa việc xác định TS của vợ chồng – đó chính là điều kiện để giải quyết những khó khăn, phức tạp tồn đọng trong giai đoạn khác (giai đoạn phân chia TS).
“TS của vợ chồng” ở đây bao gồm cả TS riêng và TS chung của họ trong khối TS hiện còn của gia đình. Thực chất việc xác định TS chỉ được tiến hành khi trên thực tế vấn đề phân chia TS giữa vợ chồng được đặt ra. Thông thường, yêu cầu đó được đặt ra ngay khi hôn nhân chấm dứt (ly hôn, một bên chết hoặc bị Tòa án tuyên bố chết) nhưng cũng có lúc nó được đặt ra ngay cả trong thời kỳ hôn nhân (chia TS chung của vợ chồng khi hôn nhân đang tồn tại). Tuy nhiên, đương sự cần phải được trang bị một số kiến thức nhất định về vấn đề này để bất kỳ lúc nào và ở đâu họ cũng có thể tự ý thức và xác định được rằng TS nào là chung và TS nào là của riêng mình theo pháp luật. Đó là một trong những thuận lợi lớn cho việc áp dụng pháp luật vào việc giải quyết vấn đề khi yêu cầu phân chia TS được đặt ra. Điều này góp phần hạn chế tối đa những tranh chấp không đáng có giữa vợ và chồng. Như vậy, xác định TS không chỉ là công việc của Tòa án mà đó còn là trách nhiệm của đương sự (phải biết và phải ý thức được) trong quá trình Tòa án giải quyết yêu cầu phân chia TS.
Vướng mắc trong quy định của Luật HNGĐ mới:
Nhiều năm qua, thực tiễn xét xử án hôn nhân gia đình cho thấy vấn đề xác định và phân chia TS của vợ chồng là một trong những vấn đề quan trọng và phức tạp. Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 ra đời đã có xu hướng khắc phục phần nào những vướng mắc, phức tạp trong vấn đề trên. Tuy nhiên, việc thực thi quy định về đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản chung của vợ chồng (gọi tắt là đăng ký TSC) tại khoản 2 Điều 27 e có nhiều vướng mắc: “TS thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì trong Giấy chứng nhận quyền sở hữu phải ghi tên của cả hai vợ chồng”.
Quá trình thực thi quy định này có các trường hợp, có thể mô tả bằng sơ đồ 1. Qua đó, chúng ta có thể thấy rằng:
- Quy định mới về đăng ký TSC (khoản 2 Điều 27) chỉ có nghĩa trong các trường hợp 1a. và 2a.. Tuy nhiên, trên thực tế, nếu thực thi quy định này thì 1a. là trường hợp vướng mắc nhiều nhất (vì vấn đề này có liên quan đến nhiều cơ quan, ban, ngành khác). Bên cạnh đó, những tốn kém đáng kể về thời gian, tiền của của Nhà nước và nhân dân là điều không tránh khỏi…
- Trong các trường hợp còn lại, quy định mới về việc đăng ký TSC thực sự không có ý nghĩa. Bởi lẽ đối với loại TSC mà không thực hiện (1b) hoặc thực hiện không được việc đăng ký chung (2b) thì rõ ràng những quy định mới chưa được thực thi.
- Vì đăng ký TSC là một thủ tục hành chính nên yêu cầu của vấn đề này thường đặt ra rất cao (với các yếu tố có liên quan như hộ khẩu thường trú, giấy tờ tùy thân của đương sự…). Do vậy, sẽ có trường hợp chỉ có một người (vợ hoặc chồng) đủ điều kiện đứng tên đăng ký (2b). Khi đó, những TSC thay vì phải đăng ký chung thì trong Giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng TSC lại mang tên một người. Trên cơ sở này, khi xác định TS của vợ chồng, chúng ta sẽ xác định loại TS này là chung hay riêng?
+ Nếu coi đây là TSC thì lại trái với quy định mới về việc đăng ký TSC tại khoản 2 Điều 27. Bởi vì Luật quy định TSC thì phải đăng ký chung, nghĩa là Giấy chứng nhận phải có tên 2 người thì TS đó mới là TSC. Nhưng khi không đăng ký được, TSC do một người đứng tên cũng được coi là TSC (?).
+ Nếu coi đây là tài sản riêng (TSR) thì lại trái với quy định tại khoản 1 Điều 27: “TSC của vợ chồng gồm TS do vợ chồng tạo ra… trong thời kỳ hôn nhân”, nhưng khi không đăng ký chung được thì đó lại là TSR (?).
Rõ ràng, trong trường hợp này, ta không thể xác định được TS này là chung hay riêng.
- Một thực tế cần phải thừa nhận trong đời sống hiện nay là trước khi kết hôn, không ít cặp nam nữ cùng nhau tạo lập nên một số TSC đáng kể. Do vậy, còn một trường hợp khác cần quan tâm đó là những TSC do vợ chồng tạo lập trước hôn nhân – tức việc đăng ký TSC diễn ra trước đăng ký kết hôn – khi đăng ký thì mang tên mấy người? Liệu rằng trường hợp này có được linh động cho 2 người đứng tên sở hữu chung (theo quy định về Sở hữu chung theo phần – Điều 231 Bộ luật Dân sự) hay các cơ quan chức năng lại không chấp nhận đăng ký vì cho rằng chủ thể đăng ký chưa phải là vợ chồng theo pháp luật?
Vợ chồng nên kê khai TS khi đăng ký kết hôn:
Điều 5 khoản 3 Nghị định 70/NĐ-CP ngày 3/10/2001 hướng dẫn thi hành Luật HNGĐ (gọi tắt là Nghị định) không buộc vợ chồng phải đăng ký lại những TSC đã đứng tên một người trước đó (trước ngày Nghị định có hiệu lực). Như đã phân tích ở trên, chúng tôi cho rằng quy định này mới “gỡ” được một phần vướng mắc trong vấn đề trên (giải quyết được 1a) nhưng lại rơi vào 1b (quy định của Luật mới lại chưa thực sự có nghĩa đối với loại TSC đã được đăng ký).
Từ những vướng mắc đáng kể trong việc xác định TS của vợ chồng, để đảm bảo được ý chí nhập hay không nhập TSR vào TSC của đương sự, chúng tôi đề xuất giải pháp buộc vợ chồng phải kê khai khi đăng ký kết hôn:
+ Phần khai về tài sản riêng: đương sự liệt kê những tài sản hiện có mà mình không muốn nhập vào khối TSC.
+ Phần ghi tài sản chung: bao gồm các TS mà hai người cùng tạo lập trước hôn nhân và những tài sản riêng mỗi bên tự nguyện nhập vào (không quan tâm đến việc TS do mấy người đứng tên).
+ Nếu không kê khai những TS có giá trị nhỏ, không đáng kể vào phần tài sản chung hay riêng thì về sau, những TS này là của chung (TS có giá trị nhỏ ở đây chỉ mang tính tương đối như các vật dụng trong gia đình…, đó không phải là những món đồ trang sức, vật kỷ niệm, đồ dùng cá nhân…)
+ Việc kê khai phải do chính đương sự thực hiện, tự mình ký tên hoặc điểm chỉ trước sự thừa nhận của bên kia và cán bộ có thẩm quyền. Việc kê khai chỉ có ý nghĩa giữa vợ và chồng mà có thể không có ý nghĩa đối với người thứ ba.
Để thực thi giải pháp này, công tác tuyên truyền pháp luật phải trực tiếp và có hiệu quả hơn. Chúng tôi kiến nghị cấp thêm cho mỗi cặp vợ chồng một văn bản Luật HNGĐ hiện hành (cùng lúc với Giấy chứng nhận kết hôn).
Đối với những cặp vợ chồng đã đăng ký kết hôn (đã ổn định cuộc sống, có con chung và TSC), thì nên tiến hành kê khai TS vào ngay thời điểm này – thời điểm bắt đầu áp dụng Luật HNGĐ mới. Quá trình này sẽ được tiến hành song song với việc kê khai TS của cán bộ, công chức; nghiêm túc và triệt để như một quá trình điều tra dân số được thực hiện thống nhất trên cả nước từ trước đến nay.
Khi vấn đề này được đưa vào Luật, các bên sẽ nhận thấy được tầm quan trọng của việc thực hiện giao dịch dân sự bằng văn bản. Nghĩa là họ biết trước khả năng “mất đi” khối TSR mới có được trong thời kỳ hôn nhân. Từ đó, khi được tặng cho hoặc thừa kế riêng một khối lượng TS thì vợ (chồng) phải lập văn bản để chứng minh nguồn gốc của TS đó (nếu họ coi trọng việc phải giữ gìn TS đó cho riêng mình).
Sau “chiến dịch” kê khai tài sản, mọi người phải thừa nhận rằng Bảng kê khai TS – đó là chứng cứ quan trọng nhất trong việc Tòa án giải quyết xác định và phân chia TS của vợ chồng khi có yêu cầu đặt ra, nhất là khi ly hôn.
Chúng tôi cho rằng giải pháp này sẽ áp dụng được cho tất cả các loại tài sản (chung hoặc riêng, có đăng ký hoặc không đăng ký quyền sở hữu, được tạo lập trước hay sau khi đăng ký kết hôn, trước hay sau ngày áp dụng giải pháp mới). Hy vọng rằng Dự thảo Nghị định sớm bổ sung kiến nghị này để vấn đề xác định TS của vợ chồng có một bước đột phá mới, đỡ đi được phần nào “gánh nặng” cho ngành Tòa án.·
(PHẦN SƠ ĐỒ VÀ MẪU KÊ KHAI TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG KÈM THEO BÀI VIẾT DO LỖI FILE NÊN CHÚNG TÔI KHÔNG ĐĂNG LÊN CÙNG BÀI ĐƯỢC MONG TÁC GIẢ VÀ CÁC BẠN THÔNG CẢM).
SOURCE: TẠP CHÍ KHOA HỌC PHÁP LÝ SỐ 1/2004
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét