Thứ Bảy, 18 tháng 10, 2008

CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ TRONG THƯƠNG MẠI QUÓC TẾ

THS. NGUYỄN TIẾN VINH - Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội

I. Luật lệ của WTO về bán phá giá và biện pháp chống phá giá

Hiện tượng bán phá giá có nguồn gốc khá sớm trong thực tiễn thương mại quốc tế. Mặc dù còn có những quan điểm khác nhau, song pháp luật các nước đều coi đây là một trong những hành vi thương mại không lành mạnh. Một số nước đã có những đạo luật về chống bán phá giá trong thương mại quốc tế từ rất sớm [1]. Trên bình diện quan hệ thương mại đa biên, Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT) năm 1947 là văn kiện pháp lý đầu tiên quy định về vấn đề này (Điều VI). Năm 1967, các Bên ký kết của GATT đã thỏa thuận “Hiệp định về thực hiện điều VI của GATT”, thường được gọi là Bộ luật chống bán phá giá. Trong vòng đàm phán Tokyo, Hiệp định này được sửa đổi, bổ sung vào năm 1979.

Cuối cùng, với kết quả của Vòng đàm phán Uruguay, vấn đề bán phá giá và biện pháp chống bán phá giá được điều chỉnh bởi “Hiệp định về thực hiện điều VI của Hiệp định chung về thuế quan và thương mại năm 1994” (sau đây gọi tắt là Hiệp định ADP). Là một trong những hiệp định thương mại đa biên của WTO, Hiệp định này được xếp trong Phụ lục I A của Hiệp định Marrakech thành lập Tổ chức Thương mại thế giới, có hiệu lực bắt buộc đối với tất cả các nước thành viên của WTO.

Các quy định hiện hành của WTO về bán phá giá và chống bán phá giá có thể được nhìn nhận qua các vấn đề: Các hành vi bán phá giá bị lên án, các biện pháp chống bán phá giá có thể được áp dụng và thủ tục áp dụng các biện pháp này.

1. Bán phá giá hàng xuất khẩu trong thương mại quốc tế

Khái quát nhất, một sản phẩm được coi là bán phá giá khi giá xuất khẩu của sản phẩm đó thấp hơn giá thông thường của sản phẩm tương tự bán trong nước. Về bản chất, bán phá giá trong thương mại quốc tế là hành vi phân biệt giá cả: đối với cùng một sản phẩm hoặc sản phẩm tương tự, nhưng giá xuất khẩu lại thấp hơn giá tiêu thụ nội địa. Khác với hiện tượng trợ cấp nhà nước, bán phá giá là hành vi có tính chất doanh nghiệp. Bản thân GATT cũng như các hiệp định của WTO sau này, bao gồm cả Hiệp định ADP là những điều ước quốc tế giữa các quốc gia, do vậy không điều chỉnh trực tiếp các hành vi thương mại tư nhân này. Tuy nhiên, xuất phát từ ý tưởng cho rằng bán phá giá là một trong những hành vi thương mại không công bằng, bóp méo hoạt động thương mại bình thường, GATT cũng như WTO đều cho phép các quốc gia áp dụng những biện pháp mang tính “phòng vệ” để ngăn chặn và hạn chế hậu quả hiện tượng này, nhằm bảo vệ nền sản xuất nội địa. Tuy nhiên, dưới góc độ kinh tế, việc bán phá giá không phải không đem lại những lợi ích nhất định: dưới góc độ của nước xuất khẩu, bán phá giá tạo điều kiện cho nhà sản xuất có điều kiện phát huy tối đa năng lực sản xuất, khả năng tăng lợi nhuận và thâm nhập thị trường mới; dưới góc độ của nước nhập khẩu, người tiêu dùng có điều kiện hưởng lợi về giá cả. Có lẽ đó chính là một trong những lý do mà không phải bất cứ hành vi bán phá giá nào cũng bị lên án, theo quy định của cả GATT trước đây và WTO hiện nay [3].

Để có thể áp dụng biện pháp chống bán phá giá, nước nhập khẩu phải chứng minh được: sự tồn tại của hành vi bán phá giá hàng nhập khẩu vào thị trường của mình; hành vi bán phá giá đó gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại vật chất cho ngành công nghiệp trong nước.

Điều VI. 1 của GATT coi bán phá giá là việc “sản phẩm của một nước được đưa vào kinh doanh trên thị trường của một nước khác với giá thấp hơn giá trị thông thường của sản phẩm”[2]. Cụ thể hơn, điều 2.1 của Hiệp định ADP định nghĩa: “một sản phẩm bị coi là bán phá giá... nếu như giá xuất khẩu của sản phẩm được xuất khẩu từ một nước này sang một nước khác thấp hơn mức giá có thể so sánh được của sản phẩm tương tự được tiêu dùng tại nước xuất khẩu theo các điều kiện thương mại thông thường”.

Như vậy, cốt lõi của việc xác định bán phá giá là sự so sánh biên độ chênh lệch giữa giá xuất khẩu với giá thông thường của sản phẩm tại nước xuất khẩu. Việc tiến hành so sánh giữa giá xuất khẩu và giá thông thường phải được tiến hành đối với cùng loại sản phẩm hoặc đối với sản phẩm tương tự (like product trong tiếng Anh và produit similaire trong tiếng Pháp). Theo điều 2.6 Hiệp định ADP, sản phẩm tương tự trong trường hợp bán phá giá được hiểu theo nghĩa rất hẹp, là sản phẩm giống hệt, tức là có tất cả các mặt giống với sản phẩm đang xem xét, hoặc nếu không có sản phẩm nào như vậy thì là sản phẩm mặc dù không giống ở mọi mặt nhưng có những đặc tính rất giống (closely resembling trong tiếng Anh và ressemblant étroitement trong tiếng Pháp) với sản phẩm đang xem xét[3].

Trong trường hợp việc bán sản phẩm trong thị trường nội địa của nước xuất khẩu không diễn ra theo các điều kiện thương mại thông thường (như việc bán hàng thấp hơn giá thành sản xuất do được trợ cấp bởi chính phủ) hoặc sản phẩm đó không được bán tại nước xuất khẩu hay được bán với số lượng không đáng kể, biên độ chênh lệch giá có thể được xác định bằng việc so sánh giá xuất khẩu với giá có thể so sánh được của sản phẩm tương tự khi xuất khẩu sang nước thứ ba, hoặc với giá cấu thành. Giá cấu thành được tính trên cơ sở giá thành sản xuất tại nước xuất khẩu cộng thêm một khoản hợp lý cho chi phí quản lý, bán hàng và lợi nhuận (điều 2.2 Hiệp định ADP).

Sau khi tiến hành so sánh, nếu giá xuất khẩu thấp hơn giá thông thường tại nước xuất khẩu (hoặc thấp hơn giá xuất khẩu sang nước thứ ba, hoặc thấp hơn giá cấu thành trong trường hợp không xác định được giá thông thường của sản phẩm tương tự tại thị trường nội địa của nước xuất khẩu) thì có thể khẳng định sự tồn tại của việc bán phá giá đối với sản phẩm được xem xét. Tuy nhiên, để có thể áp dụng biện pháp chống phá giá đối với sản phẩm này, nước nhập khẩu còn phải chứng minh rằng việc bán phá giá đó gây tổn hại hoặc đe dọa gây tổn hại cho ngành sản xuất sản phẩm tương tự trong nước.

Khái niệm tổn hại được hiểu là thiệt hại vật chất đối với ngành sản xuất trong nước hoặc ảnh hưởng vật chất làm chậm quá trình hình thành một ngành sản xuất như vậy (điều 3 Hiệp định ADP). Điều 3 của Hiệp định ADP còn quy định rằng việc xác định hàng nhập khẩu bán phá giá có đang làm tổn hại đến ngành sản xuất nội địa hay không phải được thực hiện trên cơ sở mọi “yếu tố kinh tế liên quan tác động đến tình trạng của ngành sản xuất”. Những yếu tố đó gồm: sự giảm sút thực tế và tiềm tàng về sản lượng, doanh số, thị phần, lợi nhuận, năng xuất, tỷ xuất đầu tư hoặc sử dụng công xuất; sự tác động lên giá nội địa; tác động thực tế và tiềm tàng về chu chuyển tiền, tồn kho; việc làm; tiền lương; tăng trưởng và năng lực huy động vốn đầu tư [7, tr.196]. Mặt khác, những thiệt hại vật chất cho ngành sản xuất trong nước phải là hệ quả trực tiếp của việc bán phá giá. Nói cách khác, phải chứng minh được mối quan hệ nhân quả giữa hành vi bán phá giá và những thiệt hại vật chất mà ngành sản xuất sản phẩm tương tự trong nước phải gánh chịu. Khái niệm ngành sản xuất trong nướcdùng để chỉ tập hợp chung các nhà sản xuất trong nước sản xuất các sản phẩm tương tự hoặc để chỉ những nhà sản xuất có tổng sản phẩm chiếm phần lớn tổng sản xuất trong nước của sản phẩm đó, trừ một số ngoại lệ cụ thể (điều 4 Hiệp định ADP).

2. Biện pháp chống bán phá giá và thủ tục áp dụng biện pháp chống bán phá giá trong thương mại quốc tế

Xuất phát từ quan điểm cho rằng hành vi bán phá giá, ở một mức độ nghiêm trọng nhất định là hành vi thương mại không công bằng, luật lệ của GATT trước đây và WTO hiện nay đều cho phép các quốc gia áp dụng biện pháp có tính trả đũa, tự vệ thương mại. Trong các biện pháp hạn chế thương mại như áp dụng hạn ngạch, hạn chế số lượng, tăng thuế, các biện pháp hạn chế có tính kỹ thuật, phi thuế quan khác, để chống lại hành vi bán phá giá, các quốc gia chỉ có quyền áp dụng biện pháp tăng thuế nhập khẩu. Nói cách khác, quốc gia bị thiệt hại chỉ có thể áp dụng thuế bổ sung (thuế chống bán phá giá) đối với hàng hóa nhập khẩu bị xác định là bán phá giá. Các biện pháp hạn chế số lượng hay các biện pháp hạn chế phi thuế quan khác không được coi là hợp pháp. Quyền áp dụng thuế bán phá giá của quốc gia bị thiệt hại thực chất là quyền có tính ngoại lệ đối với hai nguyên tắc trong thương mại đa biên: Thứ nhất, đó là ngoại lệ đối với nguyên tắc Đối xử tối huệ quốc (MFN). Thuế chống bán phá giá chỉ áp dụng đối với hàng hóa cụ thể của quốc gia xuất khẩu cụ thể, đã bị xác định là đối tượng của hành vi bán phá giá;
Thứ hai, áp dụng thuế bán phá giá cũng là ngoại lệ đối với nguyên tắc tôn trọng các cam kết về cắt giảm thuế. Quốc gia bị thiệt hại không có nghĩa vụ tôn trọng giữ nguyên mức thuế đã cam kết đối với các hàng hóa nhập khẩu là đối tượng của hành vi bán phá giá bị cấm.[4]

Việc xác định mức thuế chống bán phá giá phải dựa trên trên biên độ phá giá của sản phẩm có liên quan. Biên độ phá giá chính là sự chênh lệch về giá giữa giá xuất khẩu đang xem xét với giá thông thường của sản phẩm tại thị trường nội địa, hoặc giá xuất khẩu sang nước thứ ba, hoặc giá cấu thành của sản phẩm. Về bản chất, thuế chống bán phá giá là khoản thuế bổ sung, đánh vào hàng nhập khẩu nhằm triệt tiêu tác dụng hay ngăn ngừa việc bán phá giá đối với sản phẩm đó (điều VI.2 của GATT). Mục đích cuối cùng của thuế chống bán phá giá là tạo dựng lại thế cạnh tranh cân bằng giữa sản phẩm trong nước và sản phẩm nhập khẩu, bảo vệ thị trường nội địa chống lại các hành vi cạnh tranh quốc tế không lành mạnh. Cũng chính vì mục đích này mà việc áp dụng mức thuế chống bán phá giá được yêu cầu là không vượt quá biên độ bán phá giá, nhằm tránh tình trạng lạm dụng thuế chống bán phá giá làm công cụ bảo hộ bất hợp pháp thị trường nội địa.

Hiệp định GATT 1947 không có các quy định về thủ tục áp dụng biện pháp chống bán phá giá. Hiệp định mặc nhiên thừa nhận quyền tự do của các quốc gia trong việc xây dựng các thủ tục để xác định hiện tượng bán phá giá và áp dụng biện pháp chống bán phá giá đối với hàng hóa nhập khẩu vào nước mình. Tình trạng này là nguyên nhân chủ yếu để nhiều nước lợi dụng áp dụng pháp luật chống bán phá giá như là công cụ thực hiện chính sách bảo hộ thái quá thị trường nội địa. Hiệp định ADP đã tiến một bước dài so với GATT 1947 về điểm này. Bên cạnh việc đưa ra những tiêu chí cụ thể hơn để xác định hành vi bán phá giá, có thể nói Hiệp định ADP đã có bước tiến dài trong việc hài hòa hóa hoạt động tố tụng của các quốc gia từ việc điều tra xác định bán phá giá, đến việc áp dụng và kiểm soát các biện pháp chống bán phá giá [3, tr.634].

Để có thể áp dụng biện pháp chống bán phá giá, Hiệp định ADP yêu cầu nước nhập khẩu hàng hóa phải tiến hành điều tra. Hoạt động điều tra này nhằm mục đích xác định “ sự tồn tại việc bán phá giá không cũng như xác định mức độ và hậu quả của trường hợp bị nghi ngờ là bán phá giá” (điều 5.1 Hiệp định ADP). Cuộc điều tra này được tiến hành trên cơ sở đơn yêu cầu của ngành sản xuất trong nước hoặc của người đại diện của ngành sản xuất trong nước chịu thiệt hại do hành vi bán phá giá gây ra.[5] Đơn yêu cầu phải đưa ra các bằng chứng về việc bán phá giá, sự tổn hại do hành vi đó gây ra, mối quan hệ nhân quả giữa việc bán phá giá hàng nhập khẩu và thiệt hại mà ngành sản xuất trong nước phải gánh chịu (điều 5.2 Hiệp định ADP) [7, tr.198-199]. Ngoài ra, để đảm bảo việc điều tra và áp dụng biện pháp chống bán phá giá được ủng hộ bởi số lớn các nhà sản xuất nội địa, Hiệp định ADP còn đề ra hai tiêu chí bổ sung khác: Thứ nhất, đơn yêu cầu chỉ được coi là đại diện cho ngành sản xuất trong nước nếu như được ủng hộ bởi các nhà sản xuất chiếm tối thiểu 50% tổng sản lượng của sản phẩm tương tự làm bởi các nhà sản xuất đã bày tỏ ý kiến phản đối hoặc tán thành đơn yêu cầu đó. Thứ hai, cuộc điều tra chỉ được tiến hành khi các nhà sản xuất ủng hộ đơn yêu cầu chiếm ít nhất 12% tổng sản lượng của sản phẩm tương tự được ngành sản xuất nội địa làm ra (điều 5.4 Hiệp định ADP). Quá trình điều tra bán phá giá cũng phải tuân thủ những điều kiện cụ thể, được quy định trong Hiệp định ADP: về thời hạn, một cuộc điều tra không kéo dài hơn 12 tháng. Trong trường hợp đặc biệt, thời hạn này cũng không thể vượt quá 18 tháng; Hoạt động điều tra phải đảm bảo quyền được trình bày ý kiến, quyền cung cấp chứng cứ của các bên đương sự; Cơ quan tiến hành điều tra có thể tham khảo ý kiến của các bên có liên quan, bao gồm cả thông tin và ý kiến từ phía người tiêu dùng.

Trong quá trình điều tra, nếu đã có kết luận ban đầu về việc bán phá giá và thiệt hại do việc bán phá giá mang lại, nước nhập khẩu có thể áp dụng các biện pháp tạm thời. Các biện pháp tạm thời bao gồm áp đặt thuế chống phá giá tạm thời hoặc yêu cầu đảm bảo bằng tiền mặt tương đương với mức thuế chống bán phá giá dự tính. Các biện pháp này nhằm mục đích ngăn chặn các tổn hại diễn ra trong quá trình điều tra. Các biện pháp tạm thời chỉ được áp dụng sớm nhất là 60 ngày kể từ khi cuộc điều tra chống bán phá giá bắt đầu và tồn tại không quá 4 tháng. Trong trường hợp đặc biệt, biện pháp tạm thời có thể được kéo dài đến 9 tháng (điều 7 Hiệp định ADP).

Hoạt động điều tra có thể bị đình chỉ hoặc chấm dứt mà không cần áp dụng bất cứ biện pháp tạm thời hay thuế chống phá giá nếu các nhà xuất khẩu đưa ra cam kết về giá. Đây là trường hợp nhà xuất khẩu cam kết tăng giá hàng xuất khẩu, xóa đi khoản chênh lệch về giá tương đương với biên độ phá giá được sơ bộ xác định. Việc đưa ra cam kết về giá của nhà xuất khẩu chỉ được chấp nhận khi cơ quan điều tra thấy rằng thiệt hại đối với ngành sản xuất trong nước đã được loại bỏ và bản thân hành động cam kết về giá cũng không đương nhiên chấm dứt hoạt động điều tra.

Theo quy định của Hiệp định ADP, cũng như thực tiễn của tất cả các nước, hoạt động điều tra, áp dụng các biện pháp tạm thời và thuế chống bán phá giá thuộc thẩm quyền của cơ quan hành pháp. Để đảm bảo tính công bằng của các hoạt động này, bên cạnh việc quy định vấn đề chống bán phá giá có thể trở thành đối tượng của tranh chấp thương mại theo thủ tục của WTO nói chung, Hiệp định ADP còn quy định tại điều 13 về rà soát tư pháp. Theo quy định của Điều này, các quốc gia thành viên có nghĩa vụ đảm bảo rằng các hoạt động về đánh giá hành vi bán phá giá, áp dụng các biện pháp chống phá giá phải được kiểm soát bởi các cơ quan tư pháp, hoạt động độc lập với các cơ quan đã đưa ra quyết định trong lĩnh vực chống bán phá giá. Bên cạnh đó, việc áp dụng biện pháp chống bán phá giá cũng được đảm bảo bởi nhiều các quy định thủ tục khác: theo quy định tại Điều 10 của Hiệp định ADP, thuế chống bán phá giá không có giá trị hồi tố; thời hạn áp dụng thuế chống bán phá giá không vượt quá 5 năm, trừ trường hợp mở cuộc điều tra mới (điều 11.3 Hiệp định ADP).

II. Một số liên hệ đối với Việt Nam

Việc mở cửa nền kinh tế, tham gia ngày càng tích cực vào thị trường khu vực và quốc tế đang đặt ra cho nền kinh tế Việt Nam nhiều vấn đề của thương mại quốc tế, trong đó có vấn đề bán phá giá. Việt Nam vừa có nguy cơ là đối tượng của hành vi bán phá giá của các nước xuất khẩu khác, đồng thời cũng có nguy cơ bị áp đặt các biện pháp chống bán phá giá đối với hàng xuất khẩu ra nước ngoài.

Một mặt, về việc thị trường nội địa Việt Nam bị thiệt hại do hành vi bán phá giá của hàng nhập khẩu nước ngoài: với đặc điểm là nền kinh tế chuyển đổi, đang trong quá trình hoàn thiện các thiết chế của kinh tế thị trường, các doanh nghiệp sản xuất của Việt Nam còn rất yếu kém trong hoạt động cạnh tranh, đặc biệt cạnh tranh trong thương mại quốc tế. Tình trạng này dẫn đến việc hàng hóa nước ngoài có thể dễ dàng chiếm lĩnh thị trường Việt Nam thông qua cơ chế giá. Hiện tượng bán phá giá của hàng hóa nước ngoài vào Việt Nam chủ yếu ở lĩnh vực hàng công nghiệp, đặc biệt các mặt hàng điện tử dân dụng; cơ khí dân dụng; đồ mỹ phẩm; thuốc chữa bệnh; nước giải khát; đồ may mặc...[8, tr. 95-132]. Nguy cơ này thực sự đến gần khi Việt Nam sẽ tiếp tục cắt giảm đối thuế đối với gần 700 mặt hàng nhập khẩu xuống còn từ 0 đến 5% trong nửa cuối năm 2003 này, nhằm thực hiện các cam kết trong khuôn khổ AFTA giữa các nước ASEAN [5]. Đặc biệt, do cơ cấu ngành hàng xuất nhập khẩu của Việt Nam và các nước ASEAN tương đối giống nhau, trong khi đó nền kinh tế của các nước này lại có rất nhiều lợi thế so với nền kinh tế Việt Nam [1, tr.176-178], do vậy nguy thị trường Việt Nam phải chịu những thiệt hại do cạnh tranh không lành mạnh trong cơ chế giá là rất lớn.

Mặt khác, với những ưu thế về lực lượng lao động trẻ, đông về số lượng, rẻ về giá thành, trong bối cảnh thực hiện chính sách tăng cường xuất khẩu, hàng hóa Việt Nam đang và sẽ là đối tượng chịu sự áp đặt các biện pháp chống bán phá giá của nhiều thị trường khác. Trong bối cảnh các rào cản thương mại có tính chất số lượng, thuế quan ngày càng bị ngăn cấm, cắt giảm, các nước có xu hướng tăng cường bảo hộ thị trường nội địa của mình thông qua các biện pháp kỹ thuật, phi thuế quan. Một trong những biện pháp đó là hiện tượng lạm dụng thuế chống bán phá giá để bảo hộ sản phẩm trong nước. Theo số liệu thống kê, những nước đạt kỷ lục về sử dụng biện pháp thuế chống phá giá lại chính là những thị trường xuất khẩu quan trọng của Việt Nam như Cộng đồng châu Âu, Hoa Kỳ, Trung Quốc, Úc, Ca-na-đa [7,tr.203], [4, tr.353-369]. Gần đây nhất, nhiều mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam đã không ngừng bị áp dụng các thủ tục và biện pháp chống phá giá tại thị trường EU, Mỹ như mặt hàng cá da trơn đông lạnh, tôm đông lạnh, bật lửa gaz, giầy dép...[6].

Đứng trước hiện trạng và những nguy cơ trên, liên quan đến hoạt động chống bán phá giá, quá trình hội nhập kinh tế của Việt Nam vừa phải đảm bảo ngăn chặn và xử lý các hành vi bán phá giá của hàng nhập khẩu nước ngoài nhằm bảo vệ thị trường nội địa, vừa đấu tranh chống lại sự lạm dụng các biện pháp chống bán phá giá đối với hàng hóa của Việt Nam nhằm giữa vững và tăng cường hoạt động xuất khẩu sang thị trường nước ngoài. Để đáp ứng được hai yêu cầu song hành đó, bên cạnh việc tìm kiếm các biện pháp tăng cường sức cạnh tranh của các doanh nghiệp và nền kinh tế nói chung, thì việc xây dựng và hoàn thiện chính sách và pháp luật về chống bán phá giá nói riêng và pháp luật về hội nhập kinh tế quốc tế nói chung là mục tiêu trước mắt cũng như lâu dài đối với Việt Nam. Có thể đưa ra một số nhận xét, kiến nghị ban đầu như sau:

Thứ nhất, chúng ta cần sớm ban hành văn bản ở cấp độ luật về vấn đề chống bán phá giá trong thương mại quốc tế. Cho đến hiện nay, Việt Nam còn rất thiếu các văn bản pháp luật quy định về các biện pháp có tính tự vệ thương mại, chống lại các hành vi thương mại thiếu lành mạnh, không công bằng nhằm bảo vệ thị trường nội địa. Gần đây nhất, UBTVQH đã ban hành Pháp lệnh về tự vệ trong nhập khẩu hàng hóa nước ngoài vào Việt Nam [10]. Pháp lệnh này quy định về các biện pháp tự vệ và thủ tục áp dụng các biện pháp đó trong trường hợp nhập khẩu hàng hóa quá mức vào Việt Nam gây thiệt hại nghiêm trọng cho sản xuất trong nước (điều 1). Như vậy, đối tượng áp dụng của Pháp lệnh không phải là tình trạng nhập khẩu hàng hóa quá mức, gây thiệt hại cho sản xuất trong nước do hành vi cạnh tranh không công bằng về giá của nhà xuất khẩu nước ngoài (hiện tượng bán phá giá), cũng không phải là hiện tượng cạnh tranh không công bằng của hàng hóa nước ngoài do được chính phủ nước xuất khẩu trợ giá (hiện tượng trợ cấp chính phủ).

Về vấn đề bán phá giá, ngày 26/4/2001 UBTVQH đã thông qua Pháp lệnh Giá, tại khoản 3 điều 4 có định nghĩa: “Bán phá giá là hành vi bán hàng hóa, dịch vụ với giá quá thấp so với giá thông thường trên thị trường Việt Nam để chiếm lĩnh thị trường, hạn chế cạnh tranh đúng pháp luật, gây thiệt hại đến lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh và lợi ích của Nhà nước”[11]. Pháp lệnh cũng đưa ra các thủ tục, biện pháp điều tra và xử lý chống bán phá giá. Tuy nhiên, Pháp lệnh này chỉ có thể điều chỉnh các hành vi bán phá giá của các tổ chức cá nhân nước ngoài, khi họ “hoạt động sản xuất kinh doanh tại Việt Nam” (khoản 2 điều 1 Pháp lệnh Giá). Do vậy, Pháp lệnh không điều chỉnh được các hành vi bán phá giá đối với hàng nhập khẩu nước ngoài vào Việt Nam. Khoản 2 Điều 9 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu quy định áp dụng thuế bổ sung đối với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam “với giá bán quá thấp so với giá thông thường do được bán phá giá”.

Như vậy, cho đến nay, chúng ta vẫn chưa có một văn bản pháp lý quy định cụ thể về vấn đề điều tra chống bán phá giá và biện pháp chống bán phá giá hàng nước ngoài vào Việt Nam. Trong thời gian gần, việc ban hành một Pháp lệnh về vấn đề này là rất cấp bách. Đáp ứng các yêu cầu về hội nhập kinh tế quốc tế, các quy định của pháp lệnh này có mục đích cao nhất là bảo vệ thị trường nội địa, nhưng cũng cần tính tới các chuẩn mực và thông lệ của WTO, mà cụ thể là của Hiệp định ADP. Đồng thời, việc ban hành pháp lệnh về chống bán phá giá hàng nhập khẩu cũng cần tính đến sự đồng bộ, thống nhất với các quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam nói chung như các quy định về thuế, về quản lý giá, cạnh tranh, về tự vệ trong thương mại và chống trợ cấp đối với hàng nhập khẩu...

Thứ hai, để chống lại hiện tượng lạm dụng thủ tục chống bán phá giá nhằm hạn chế hàng hóa xuất khẩu từ Việt Nam, nhiều chính sách, biện pháp đồng bộ cần phải được tiến hành: một mặt, cần đẩy mạnh quá trình gia nhập WTO của Việt Nam. Việc gia nhập này sẽ mang đến những thách thức, khó khăn lớn, tuy nhiên cũng đem lại những cơ hội kinh tế và pháp lý có ý nghĩa đặc biệt quan trọng [2]. Liên quan đến việc hạn chế sự lạm dụng thủ tục chống bán phá giá đối với hàng xuất khẩu của nước ta, tham gia WTO sẽ đem lại những lợi thế như: các nước nhập khẩu khi xem xét vấn đề bán phá giá đối với hàng xuất khẩu từ Việt Nam sẽ phải tôn trọng những quy định của WTO về vấn đề này; có thể sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO để chống lại những nước nhập khẩu sử dụng thuế chống bán phá giá nhằm đối xử phân biệt hoặc hạn chế hàng xuất khẩu từ Việt Nam; tham gia WTO sẽ đương nhiên đem lại cho Việt Nam quy chế “nền kinh tế thị trường”, hạn chế được sự bất lợi cho hàng xuất khẩu của Việt Nam khi bị nước nhập khẩu xem xét vấn đề bán phá giá [12]. Mặt khác, khi tham gia ký kết các hiệp định thương mại song phương, Việt Nam cũng cần có những thỏa thuận thích đáng về các vấn đề tự vệ thương mại, trợ cấp chính phủ và bán phá giá, trên cơ sở các chuẩn mực thương mại quốc tế, tránh tình trạng để bên ký kết nước ngoài tự do đơn phương áp dụng pháp luật của họ. Hơn nữa, trong pháp luật về chống bán phá giá của Việt Nam cũng cần quy định nguyên tắc có đi có lại và nguyên tắc áp dụng trả đũa đối với những nước đối xử bất bình đẳng và phân biệt đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam.[7]

Thứ ba, để đồng thời chống lại hiện tượng bán phá giá tại thị trường Việt Nam và áp dụng biện pháp chống bán phá giá đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam tại thị trường nước ngoài thì công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật và tổ chức các nhà sản xuất, xuất khẩu của Việt Nam có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Xuất phát từ hiện trạng kinh nghiệm và vốn kiến thức kinh doanh quốc tế của các doanh nghiệp Việt Nam còn nhiều hạn chế, việc tuyên truyền pháp luật Việt Nam về thương mại quốc tế, về các quy định và thực tiễn của các thiết chế kinh tế thương mại quốc tế, cũng như các quy định pháp luật nội địa của các thị trường nước ngoài quan trọng sẽ giúp cho các doanh nghiệp Việt Nam có thêm kiến thức để tự bảo vệ mình. Đồng thời, trong hoạt động chống bán phá giá, việc tổ chức các nhà sản xuất, xuất khẩu thành các tổ chức, hiệp hội nghề nghiệp có ý nghĩa rất quan trọng. Sự liên kết, thống nhất giữa các nhà sản xuất, xuất khẩu theo ngành, nghề sẽ tạo thành tiếng nói chung có giá trị pháp lý để bảo vệ quyền lợi của chính họ.

Kết luận

Là một trong những biện pháp có tính chất tự vệ trong thương mại quốc tế, việc áp dụng thuế chống bán phá giá đối với hàng hóa nhập khẩu của các quốc gia được GATT trước đây và WTO hiện nay thừa nhận. Mục đích cao nhất của thuế chống bán phá giá là nhằm hạn chế và loại bỏ những thiệt hại do hành vi bán phá giá của hàng hóa nước ngoài, nhằm giữ vững thế cân bằng trong cạnh tranh giữa hàng nhập khẩu và hàng sản xuất nội địa. Tuy nhiên, trên thực tế cũng có những trường hợp nước nhập khẩu lạm dụng thuế chống bán phá giá để bảo hộ ngành sản xuất trong nước. Chính vì vậy, Hiệp định ADP của WTO đã có những quy định chi tiết hóa các điều kiện, thủ tục về điều tra và áp dụng thuế chống bán phá giá trong thương mại quốc tế.

Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, với đặc điểm là nền kinh tế chuyển đổi, đang phát triển, Việt Nam đồng thời phải đối mặt với tình trạng bán phá giá của hàng hóa nước ngoài tại thị trường nội địa và tình trạng hàng hóa xuất khẩu bị áp dụng các biện pháp bảo hộ tại thị trường nước ngoài, trong đó có biện pháp lạm dụng thuế bán phá giá. Trong bối cảnh đó, nhu cầu cấp bách đặt ra là Việt Nam sớm xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tự vệ thương mại nói chung và pháp luật về chống bán phá giá nói riêng, trên cơ sở hài hòa hóa với các quy định và thực tiễn của thương mại quốc tế.

SOURCE: CHONGBANPHAGIA.VN

Trích dẫn từ: http://chongbanphagia.vn/beta/binhluan/20070301/chong-ban-pha-gia-trong-thuong-mai-quoc-te

MỘT SỐ Ý KIẾN VỀ XÁC ĐỊNH NỘI DUNG MÔN HỌC TƯ PHÁP QUỐC TẾ TẠI VIỆT NAM

THS. LÊ THỊ NAM GIANG -  ĐH Luật TP. Hồ Chí Minh

1. Đặt vấn đề

Tư pháp quốc tế hay còn gọi là Luật xung đột[1] giữ một vai trò hết sức quan trọng trong việc điều chỉnh các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, từ đó thúc đẩy quá trình hợp tác quốc tế. Tại Việt Nam hiện nay, Tư pháp quốc tế được hiểu với tư cách là một ngành luật độc lập và là một bộ môn khoa học pháp lý độc lập.[2] Theo quan điểm của Việt Nam, Tư pháp quốc tế có đối tượng điều chỉnh là các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng (quan hệ mang bản chất dân sự) có yếu tố nước ngoài.[3] Thực ra, chúng ta đã ủng hộ quan điểm được thừa nhận rộng rãi và được thể hiện trong rất nhiều giáo trình Tư pháp quốc tế tại Liên bang Nga (và trước đây là Liên xô)[4]. Liên quan chặt chẽ tới việc xác định đối tượng điều chỉnh của Tư pháp quốc tế là việc xác định nội dung nghiên cứu của Tư pháp quốc tế. Tuy nhiên, đây là vấn đề được tranh luận nhiều nhất trong lịch sử hình thành và phát triển của Tư pháp quốc tế với rất nhiều quan điểm khác nhau mà cho đến giờ, khoa học Tư pháp quốc tế ở các nước vẫn chưa đưa ra được quan điểm thống nhất.

Bài viết này đề cập trước hết đến phạm vi điều chỉnh của Tư pháp quốc tế của một số nước trên thế giới và của Việt Nam, tiếp đó bàn luận về việc xác định nội dung giảng dạy môn học Tư pháp quốc tế tại các trường đại học ở Việt Nam hiện nay căn cứ theo các giáo trình là tài liệu chính thức của môn học này tại các trường.

2. Phạm vi điều chỉnh  của Tư pháp quốc tế một số nước

Ở Anh, Mỹ, Bỉ, Singapore, Úc và một số nước khác, Tư pháp quốc tế được nghiên cứu dưới góc độ luật xung đột (và ở các nước này Tư pháp quốc tế được gọi với tên gọi phổ biến là Luật xung đột) trong đó tập trung vào ba vấn đề cơ bản là xác định thẩm quyền của tòa án các nước này trong việc giải quyết các tranh chấp tư có yếu tố nước ngoài; vấn đề lựa chọn pháp luật áp dụng cho các tranh chấp trên (choice of law), sau đó là vấn đề về công nhận và thi hành bản án, quyết định của tòa án nước ngoài, quyết định của trọng tài nước ngoài. Cũng cần nhấn mạnh là các vấn đề trên được nghiên cứu trong tất cả các quan hệ pháp luật tư như quan hệ tài sản, quan hệ hợp đồng, về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng (torts), quan hệ hôn nhân gia đình, quan hệ phá sản...[5].

Ở Pháp, vấn đề đầu tiên mà tư pháp quốc tế quan tâm là quốc tịch, sau đó là quy chế pháp lý của người nước ngoài tại Pháp. Các vấn đề này được nhìn nhận như là các quy phạm thực chất của Pháp quy định các vấn đề như điều kiện để có quốc tịch Pháp, vấn đề xuất nhập cảnh, cư trú của người nước ngoài, các quyền và nghĩa vụ của họ. Sau đó là vấn đề xung đột pháp luật và xác định thẩm quyền xét xử của tòa án quốc gia, cuối cùng là về công nhận và thi hành bản án, quyết định của tòa án nước ngoài, quyết định của trọng tài nước ngoài.[6]

Ở Bỉ tư pháp quốc tế được nghiên cứu như một ngành luật xung đột, trong đó đề cập chủ yếu đến các vấn đề về xác định thẩm quyền xét xử của tòa án đối với các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài và sau đó là vấn đề lựa chọn pháp luật và công nhận và thi hành bản án, quyết định của tòa án nước ngoài, quyết định của trọng tài nước ngoài.[7]

Tại Liên bang Xô Viết trước đây và hiện nay tại Liên bang Nga và một số nước khác trước đây thuộc Liên bang Xô Viết, với quan điểm cho rằng đối tượng điều chỉnh của Tư pháp quốc tế là các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài, do đó nội dung của Tư pháp quốc tế được nghiên cứu ở phạm vi rất rộng bao gồm các vấn đề liên quan đến xung đột pháp luật, đến địa vị pháp lý của các chủ thể của Tư pháp quốc tế, các quan hệ về quyền sở hữu có yếu tố nước ngoài, thừa kế có yếu tố nước ngoài, quan hệ hợp đồng thương mại quốc tế như hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế, hợp đồng lixăng, quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, quan hệ thanh toán quốc tế, quan hệ quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quan hệ hôn nhân, gia đình có yếu tố nước ngoài, quan hệ lao động có yếu tố nước ngoài, quan hệ tố tụng dân sự quốc tế, trọng tài thương mại quốc tế...[8]

Như vậy có thể thấy rằng, mặc dù quan điểm của các nước rất khác nhau trong việc xác định nội dung nghiên cứu của Tư pháp quốc tế nhưng có ba vấn đề mà các nước đều nhìn nhận là thuộc nội dung nghiên cứu của Tư pháp quốc tế, đó là: (i) Xác định thẩm quyền xét xử của tòa án quốc gia đối với các vụ án, vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài; (ii) Xác định luật áp dụng đối với các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài; (iii) Công nhận và thi hành bản án, quyết định của tòa án nước ngoài, quyết định của trọng tài nước ngoài.[9]

3. Phạm vi điều chỉnh của Tư pháp quốc tế Việt Nam và nội dung môn học Tư pháp quốc tế tại Việt Nam

Tại Việt Nam, với quan điểm cho rằng đối tượng điều chỉnh của Tư pháp quốc tế là các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài cho nên nội dung của Tư pháp quốc tế được nghiên cứu ở phạm vi rất rộng bao gồm các vấn đề liên quan đến xung đột pháp luật, đến địa vị pháp lý của các chủ thể của Tư pháp quốc tế, các quan hệ về quyền sở hữu có yếu tố nước ngoài, thừa kế có yếu tố nước ngoài, quan hệ hợp đồng thương mại quốc tế như hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế, hợp đồng lixăng, quan hệ thanh toán quốc tế, quan hệ sở hữu trí tuệ, quan hệ hôn nhân, gia đình, quan hệ lao động có yếu tố nước ngoài, quan hệ tố tụng dân sự quốc tế, trọng tài thương mại quốc tế.[10] So sánh với nội dung Tư pháp quốc tế ở các nước có thể thấy rằng chúng ta đã ủng hộ quan điểm của các tác giả Liên Xô trước đây và hiện nay là Liên Bang Nga.

Việc xác định đối tượng điều chỉnh của Tư pháp quốc tế như ở Việt Nam, Liên Xô trước đây và Liên bang Nga hiện nay gắn liền với lịch sử pháp luật tại các nước xã hội chủ nghĩa, khi mà trong một thời gian dài các ngành luật tư như luật thương mại, luật sở hữu trí tuệ... hầu như không phát triển mà đạo luật chủ yếu điều chỉnh các quan hệ tư là luật dân sự. Do đó, nội dung của Tư pháp quốc tế được nghiên cứu rất rộng, bao gồm tất cả những vấn đề liên quan đến quan hệ dân sự (theo nghĩa rộng của thuật ngữ này) có yếu tố nước ngoài và cả các quan hệ tố tụng dân sự quốc tế, trọng tài thương mại quốc tế. 

Tuy nhiên, cần phải nhìn nhận rằng hiện nay không chỉ có Tư pháp quốc tế mới điều chỉnh các quan hệ dân sự[11] có yếu tố nước ngoài. Luật thương mại quốc tế cũng tham gia vào việc điều chỉnh các quan hệ thương mại quốc tế cả ở góc độ quan hệ thương mại công và quan hệ thương mại tư. Do đó đã có sự trùng lắp và chồng chéo trong nội dung giảng dạy của Tư pháp quốc tế với Luật thương mại quốc tế. Và trong xu thế mới với việc ban hành các bộ luật hay đạo luật về sở hữu trí tuệ thì sở hữu trí tuệ cũng có thể được thừa nhận là một ngành luật độc lập và một môn khoa học pháp lý độc lập. Điều đó đòi hỏi cần phải nghiên cứu một cách khoa học để xác định rõ nội dung nghiên cứu của Tư pháp quốc tế để không trùng lắp hay lấn sân với các môn khoa học pháp lý khác.         

4. Một số đề xuất

Cá nhân tôi ủng hộ quan điểm của một số nước cho rằng Tư pháp quốc tế chỉ nên tập trung vào ba vấn đề cơ bản là xác định thẩm quyền của tòa án quốc gia trong việc giải quyết các tranh chấp dân sự có yếu tố nước ngoài, vấn đề lựa chọn pháp luật áp dụng cho các tranh chấp trên (choice of Law), sau đó là vấn đề về công nhận và thi hành bản án, quyết định của tòa án nước ngoài, quyết định của trọng tài nước ngoài. Tuy nhiên cần nhấn mạnh là các vấn đề trên phải được nghiên cứu trong tất cả các chế định cụ thể của Tư pháp quốc tế như quan hệ về tài sản, quan hệ hợp đồng, về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, hôn nhân gia đình... Bên cạnh đó, cần quan tâm đến quy định của pháp luật Việt Nam về bảo vệ quyền và nghĩa vụ của người nước ngoài, cơ quan tổ chức nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài trong các quan hệ dân sự và các quan hệ tố tụng dân sự quốc tế. Từ đây, xin mạnh dạn đề xuất:

1. Một số nội dung hiện nay đang được giảng dạy trong chương trình Tư pháp quốc tế của các trường đại học Việt Nam như thanh toán quốc tế, trọng tài thương mại quốc tế (ngoại trừ vấn đề công nhận và thi hành quyết định của trọng tài nước ngoài – tuy nhiên về bản chất vấn đề này thuộc phạm vi của tố tụng dân sự quốc tế chứ không phải trọng tài thương mại quốc tế) theo quan điểm cá nhân tôi cho rằng không nên giảng dạy trong chương trình Tư pháp quốc tế mà cần được giảng dạy trong môn Luật thương mại quốc tế. Về hợp đồng có yếu tố nước ngoài trong môn học Tư pháp quốc tế chỉ nên nghiên cứu dưới góc độ ba vấn đề cơ bản của Tư pháp quốc tế như đã đề cập  ở trên, còn nội dung các điều khoản cụ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, hợp đồng vận chuyển hàng hóa xuất nhập khẩu bằng đường biển,[12] hợp đồng li-xăng nên nghiên cứu trong chương trình môn Luật thương mại quốc tế. Còn nội dung quyền sở hữu trí tuệ được nghiên cứu trong Tư pháp quốc tế nên được tách thành một môn học riêng là Luật quốc tế về sở hữu trí tuệ hoặc Luật sở hữu trí tuệ. Hiện nay mới chỉ có rất ít tài liệu về Tư pháp quốc tế tại Việt Nam là tiếp cận theo hướng này.[13]

2. Cần nhìn nhận rằng không có Tư pháp quốc tế chung cho các nước mà mỗi nước đều có Tư pháp quốc tế của riêng mình. Do đó, quan điểm cá nhân tôi cho rằng nên tập trung giảng dạy sâu vào các quy định của Tư pháp quốc tế Việt Nam cũng như thực tiễn áp dụng. Điều đó không có nghĩa là chúng ta không nghiên cứu quy định của Tư pháp quốc tế các nước vì đây là lĩnh vực chịu sự ảnh hưởng sâu sắc của quá trình quốc tế hóa. Điều đó xuất phát từ nhiều lý do, trong đó có ba lý do quan trọng. Thứ nhất, sự ảnh hưởng của các điều ước quốc tế ngày càng được ký kết nhiều hơn nhằm giải quyết các vấn đề của Tư pháp quốc tế trong phạm vi khu vực và toàn cầu, ví dụ như Công ước Rome 1980 về luật áp dụng cho các nghĩa vụ hợp đồng, Công ước Lugana và công ước Brussels về công nhận và thi hành bản án của tòa án nước ngoài, công ước New York 1958 về công nhận và thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài... Thứ hai, khi xây dựng các quy phạm xung đột trong pháp luật quốc gia nhằm hướng dẫn cơ quan có thẩm quyền lựa chọn pháp luật thì các quy định này không thể quá khác biệt hay trái ngược với những quy tắc đã được cộng đồng quốc tế thừa nhận rộng rãi. Thứ ba, hiểu biết về các quy tắc xung đột, về thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế của pháp luật một số nước là một biện pháp giúp chúng ta tự bảo vệ mình trong quan hệ với công dân, pháp nhân các nước đó. Tuy nhiên với cách trình bày của các giáo trình tại Việt Nam hiện nay, khi chúng ta tách những phần giới thiệu quy định của Tư pháp quốc tế các nước về các chế định cụ thể như chuyển dịch rủi ro, quan hệ hôn nhân gia đình, thừa kế... thành các mục riêng biệt thì có thể gây ngộ nhận là chúng ta đang giảng dạy Tư pháp quốc tế chung chứ không phải Tư pháp quốc tế Việt Nam. Hơn nữa, làm như thế chúng ta sẽ có thể không tập trung vào phân tích sâu những vấn đề của Tư pháp quốc tế Việt Nam. Bên cạnh đó, có lẽ cũng cần tăng cường hơn nữa việc giảng dạy bằng tình huống, bằng án lệ để nâng cao giá trị thực tiễn cho môn học này.   

Vẫn biết rằng sự xác định rạch ròi đối tượng điều chỉnh của Tư pháp quốc tế và xác định một cách rõ ràng nội dung nghiên cứu của Tư pháp quốc tế – một môn học rất khó và còn nhiều, rất nhiều vấn đề gây tranh cãi là việc vô cùng phức tạp, đòi hỏi phải có sự đầu tư nghiêm túc, khoa học. Trên đây là một số ý kiến cá nhân được đưa ra với mong muốn được sự trao đổi, chia xẻ của những người làm công tác nghiên cứu và giảng dạy.


[1] Có hai thuật ngữ được sử dụng rộng rãi cho tên gọi của ngành khoa học pháp lý này. Thuật  ngữ “Luật quốc tế tư“ (Private International Law) được sử dụng rộng rãi ở các nước Châu Âu và nhiều nước khác như Trung Quốc, Mông Cổ... Ở Việt Nam trong các giáo trình cũng như các công trình nghiên cứu, chúng ta thống nhất sử dụng thuật ngữ Tư pháp quốc tế. Thuật ngữ Luật xung đột (Conflict of laws) được sử dụng rộng rãi tại các nước như Hoa Kỳ, Anh, Singapore, Úc, Canada... Xem thêm: Lê Thị Nam Giang, Tư pháp quốc tế, Nxb ĐHQG Tp. Hồ Chí Minh 2006, tr. 23-27.

[2] Giáo trình Tư pháp quốc tế – Khoa Luật - ĐHQG Hà Nội 2001, tr. 03 và tr. 13.

[3] Quan điểm này đã được thể hiện trong các giáo trình Tư pháp quốc tế của một số trường đại học của Việt Nam và trong một số sách tham khảo. Ví dụ: Giáo trình Tư pháp quốc tế – trường ĐH Luật Hà Nội, 1997, tr. 7;  Giáo trình Tư pháp quốc tế – Khoa Luật - ĐHQG Hà Nội, 2001, tr. 7; Đoàn Năng,Những vấn đề lý luận cơ bản về Tư pháp quốc tế, Nxb Chính trị quốc gia, 2001, tr. 9.

[4] Ví dụ: L.P. Anufrieva, Giáo trình Tư pháp quốc tế, Nxb BEC, Maxcơva 2000; M.M. Bungalaxki,Giáo trình Tư pháp quốc tế, Maxcơva 1989, tr. 12; M.M. Bungalaxki, Giáo trình Tư pháp quốc tế, Maxcơva 1998, tr. 13;  L.A. Luns, Giáo trình Tư pháp quốc tế,  Maxcơva 1970, tr. 10.

[5] Ví dụ Adrian Briggs, The Conflict Of Law, Oxford University Press 2002;  J. G. Collier, Conflict Of Law, 3rd ed, Cambridge University Press 2001; P. M. North and JJ Farcett, Cheshire and North’s Private Internatinaal Law, 12th ed, Butterworth 2002.

[6] M. M. Bungalaxki, sđd; Đỗ văn Đại, Mai Hồng Quỳ, Tư pháp quốc tế Việt Nam, Nxb ĐHQG Tp. Hồ Chí Minh 2006, tr. 21.

[7] Đề cương giảng dạy Tư pháp quốc tế của GS. Arnaud Nuyts, University of Brussels tại ĐHQG Tp. Hồ Chí Minh tháng 01/2001.

[8] ví dụ: L.P. Anufrieva, Giáo trình Tư pháp quốc tế, NXB BEC, Maxcơva 2000; M.M. Bungalaxki,Giáo trình Tư pháp quốc tế, Maxcơva 1989, M.M. Bungalaxki, Giáo trình Tư pháp quốc tế, Maxcơva 1998,  Skaridob AC, Tư pháp quốc tế, Sant- Peterburg 1998; L.A. Luns, Giáo trình Tư pháp quốc tế, Maxcơva 1970.

[9] Xem thêm:  Lê Thị Nam Giang, sđd, tr. 14-16.

[10] Giáo trình Tư pháp quốc tế – Trường ĐH Luật Hà Nội, 2004;  Giáo trình Tư pháp quốc tế – Khoa Luật, ĐHQG Hà Nội, 2001, tr. 7;  Nguyễn Ngọc Lâm, Đề cương bài giảng Tư pháp quốc tế, 2006.

[11] Trong bài viết này, xin được hiểu thuật ngữ dân sự theo nghĩa rộng được quy định tại Điều 1 Bộ luật dân sự 2005: “Bộ luật dân sự quy định địa vị pháp lý, chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử của cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác; quyền, nghĩa vụ của các chủ thể về nhân thân và tài sản trong các quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động (sau đây gọi chung là quan hệ dân sự).”

[12] Trong chương trình giảng dạy Tư pháp quốc tế tại trường ĐH Luật TP. Hồ Chí Minh được áp dụng cho đến thời điểm hiện nay thì hợp đồng vận chuyển hàng hóa xuất nhập khẩu bằng đường biển được giảng dạy thành một chương riêng với thời lượng 15 tiết.

[13] Ví dụ: Đỗ Văn Đại, Mai Hồng Quỳ, sđd;

SOURCE: TẠP CHÍ KHOA HỌC PHÁP LÝ SỐ 6/2006

ĐĂNG KÝ GIAO DỊCH BẢO ĐẢM VỀ BẤT ĐỘNG SẢN: CÁC BÊN LIÊN QUAN ĐƯỢC HƯỞNG LỢI ÍCH

NGỌC PHƯỢNG - Cục Đăng ký Quốc gia Giao dịch bảo đảm - BTP

Kinh doanh bất động sản từ trước đến nay vẫn luôn là công việc mang lại nhiều lợi nhuận. Ở các nước có nền kinh tế phát triển trên thế giới, đây là một lĩnh vực kinh doanh phi lợi nhuận. Tuy nhiên, cũng giống như bất kì ngành nghề kinh doanh khác, để có thể phát triển thì nó cần có cơ chế kiểm soát hữu hiệu, một hành lang pháp lý an toàn cho hoạt động của nó.

Kiểm soát được các ngành nghề kinh doanh, Nhà nước sẽ phát huy được vai trò quản lý của mình hiệu quả. Với thị trường kinh doanh bất động sản, để quản lý và điều hòa được nó không phải là vấn đề đơn giản. Đăng ký giao dịch bảo đảm chính là một trong các công cụ hữu hiệu cho việc kiểm soát hoạt động của thị trường bất động sản. Nhưng đăng ký giao dịch bảo đảm không những giúp Nhà nước quản lý thị trường bất động sản, chống thất thu thuế mà còn đem lại những lợi ích thiết thực cho chính các bên tham gia giao dịch trên thị trường. Bài viết này xin đề cập đến một số vai trò của việc đăng ký giao dịch bảo đảm dưới giác độ cá nhân tác giả nhìn nhận và đánh giá:

Đối với bên nhận bảo đảm

Đăng ký giao dịch bảo đảm là một trong những cách thức để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của bên nhận bảo đảm. Về nguyên tắc, việc đăng ký giao dịch bảo đảm mang ý nghĩa "giao dịch bảo đảm được đăng ký coi như được mọi người nhận biết" [1]. Pháp luật về giao dịch bảo đảm của các nước đều thừa nhận giao dịch bảo đảm được đăng ký mang ý nghĩa công bố quyền lợi của bên nhận bảo đảm với người thứ ba và tất cả những ai xác lập giao dịch liên quan đến tài sản bảo đảm đều buộc phải biết về sự hiện hữu của các quyền liên quan đến tài sản bảo đảm đã được đăng ký.

Ngoài quyền truy đòi tài sản bảo đảm, việc đăng ký giao dịch bảo đảm còn giúp cho bên nhận bảo đảm có được thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản bảo đảm so với các chủ nợ khác. Trong trường hợp một tài sản bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ, thì khi xử lý tài sản đó, thứ tự ưu tiên thanh toán giữa các bên nhận bảo đảm được xác định căn cứ theo thứ tự đăng ký giao dịch bảo đảm. Về nguyên tắc "ai đăng ký trước hoặc hoàn thiện lợi ích bảo đảm trước thì được ưu tiên trước". Điều này có nghĩa, bên nhận bảo đảm đăng ký giao dịch bảo đảm hoặc hoàn thiện lợi ích bảo đảm (nắm giữ tài sản bảo đảm) sẽ được ưu tiên thanh toán trước. Như vậy, thời điểm đăng ký giao dịch bảo đảm là một trong những cách thức để xác định thứ tự ưu tiên thanh toán giữa các bên nhận bảo đảm với nhau.

Trong lĩnh vực kinh doanh bất động sản, tài sản bảo đảm là các bất động sản, mà biện pháp bảo đảm chủ yếu là thế chấp bất động sản thì cơ chế đăng ký càng thể hiện được ý nghĩa trong việc bảo vệ quyền lợi của bên nhận bảo đảm chủ yếu là các tổ chức tín dụng. Với việc đăng ký thế chấp bất động sản tại cơ quan đăng ký, mặc dù không nắm giữ bất động sản trong tay, bên nhận bảo đảm vẫn được pháp luật bảo vệ trong việc xác định thứ tự ưu tiên thanh toán và xử lý tài sản bảo đảm. Việc đăng ký thế chấp bất động sản đặc biệt có ý nghĩa đối với các tổ chức tín dụng. Theo quy định của pháp luật hiện hành về giao dịch bảo đảm thì một tài sản có thể dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ dân sự. Do đó, trong trường hợp một bất động sản được dùng để bảo đảm cho nhiều nghĩa vụ tại các tổ chức tín dụng khác nhau thì bên nhận bảo đảm phải có cơ sở của lòng tin là bằng việc đăng ký thế chấp bất động sản đó, họ sẽ được pháp luật bảo vệ và có thứ tự ưu tiên thanh toán trong trường hợp xử lý bất động sản đó. Ngoài ra, bên nhận bảo đảm tiếp theo biết được bất động sản đã được thế chấp tại một tổ chức tín dụng khác, có thể cân nhắc trong việc tiếp tục nhận thế chấp hay không.

Đối với bên bảo đảm

Một trong những yêu cầu đặt ra trong đời sống kinh tế - xã hội là việc dùng tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ không được ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh và sinh hoạt của bên bảo đảm. Điều này có nghĩa, bên bảo đảm vẫn giữ tài sản bảo đảm và tiếp tục khai thác, sử dụng tài sản nhằm phục vụ mục đích sản xuất, kinh doanh của mình. Thông qua cơ chế đăng ký giao dịch bảo đảm, bên bảo đảm vừa đạt được mục đích dùng tài sản để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ, vừa duy trì được hoạt động sản xuất - kinh doanh của mình. Chính nguồn lợi thu được từ việc khai thác tài sản bảo đảm sẽ giúp bên nhận bảo đảm từng bước thu hồi vốn, tái đầu tư và thanh toán được nợ cho bên nhận bảo đảm. Do vậy, nếu phải giao tài sản bảo đảm cho bên nhận bảo đảm hoặc người thứ ba giữ, thì mọi hoạt động sản xuất - kinh doanh của bên bảo đảm bị ngưng trệ. Điều này đi ngược lại với mục đích của giao dịch bảo đảm hiện đại, đó là vừa giúp các giao dịch được an toàn, vừa thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.

Đối với bên thứ ba

Trong nhiều trường hợp, do thiếu thông tin nên bên thứ ba có thể dễ dàng cho rằng bất động sản vẫn chưa được dùng để bảo đảm cho bất kỳ một nghĩa vụ nào trên thực tế. Vậy làm thế nào để bên thứ ba như bên cho vay tiếp theo hay bên mua bất động sản có thể xác định để biết được liệu còn có ai đó có quyền lợi liên quan đến một bất động sản cụ thể nào đó hay không? Việc công khai hóa thông tin về giao dịch bảo đảm được đăng ký là một giải pháp, cụ thể là bên thứ ba có thể tìm hiểu thông tin tại cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm để biết được những giao dịch bảo đảm liên quan đến tài sản bảo đảm đã tồn tại từ trước, vì những thông tin về giao dịch bảo đảm được lưu giữ, công bố rộng rãi. Nhờ đó, rủi ro pháp lý trong giao dịch sẽ giảm thiểu, nhất là trong trường hợp tài sản bảo đảm là bất động sản vẫn do bên bảo đảm chiếm giữ, khai thác.

Công khai thông tin về giao dịch bảo đảm là mục tiêu quan trọng hàng đầu của hệ thống giao dịch bảo đảm hiện đại, vì nhờ đó sẽ giúp các chủ nợ đánh giá và phòng ngừa rủi ro. Thông tin được cung cấp giúp nhận biết được sự tồn tại các quyền của bên nhận bảo đảm đối với tài sản bảo đảm. Hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm sẽ giúp các tổ chức, cá nhân đạt được mục đích đó thông qua những thông tin được cung cấp công khai theo yêu cầu.

Đối với sự phát triển của thị trường bất động sản

Bàn về giải pháp vốn cho thị trường bất động sản, trả lời báo VN Media.vn ngày 07/4/2006 PGS.TS. Nguyễn Thị Mùi, Phó viện trưởng Viện khoa học tài chính đã nhận định “Tiềm lực tài chính của đa số doanh nghiệp kinh doanh bất động sản còn hạn chế, nên hầu hết phải dựa vào vốn vay ngân hàng. Ước tính, số vốn đầu tư vào kinh doanh bất động sản có tới trên 60% là vốn vay ngân hàng. Có thể khẳng định một trong những vấn đề quan trọng trong quyết định sự phát triển lành mạnh của thị trường bất động sản chính là việc huy động các nguồn tài chính cho hoạt động của thị trường bất động sản. Trong điều kiện thị trường chứng khoán Việt Nam chưa phát triển, thì kênh tín dụng ngân hàng vẫn là kênh cung cấp vốn chủ yếu cho các doanh nghiệp kinh doanh bất động sản". Và để các ngân hàng có thể cấp tín dụng cho các doanh nghiệp kinh doanh bất động sản thì doanh nghiệp phải củng cố lòng tin cho ngân hàng bằng tài sản bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Thế chấp bất động sản là giải pháp quan trọng cho nhu cầu về vốn của doanh nghiệp. Nhưng chỉ thông qua cơ chế bảo đảm thôi thì chưa đủ, với những quy định thông thoáng của pháp luật hiện hành như có thể dùng một tài sản để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ thì để bảo vệ quyền lợi của mình, các ngân hàng phải tìm đến cơ chế đăng ký giao dịch bảo đảm.

Cần phải khẳng định rằng đăng ký giao dịch bảo đảm (tức đăng ký thế chấp bất động sản) sẽ là công cụ hữu hiệu cho việc xây dựng một thị trường bất động sản công khai, minh bạch. Sở dĩ Việt Nam có chỉ số minh bạch của thị trường bất động sản vào loại thấp nhất thế giới là do các giao dịch "ngầm" diễn ra còn sôi động hơn so với các hoạt động chính thức trên các sàn giao dịch bất động sản. Khi thiếu thông tin về bất động sản, nhà đầu tư không yên tâm thực hiện giao dịch vì sợ bị lừa đảo. Bởi vậy, nếu thông tin về tình trạng pháp lý của bất động sản được công khai và được khai thác thuận tiện sẽ giúp cho nhà đầu tư yên tâm hơn khi tiến hành một giao dịch. Bên cạnh đó, các nhà đầu tư thông qua cơ chế khai thác thông tin về bất động sản cũng yên tâm trong việc không mua phải bất động sản đã được thế chấp, từ đó mạnh dạn trong giao kết các hợp đồng chuyển nhượng, mua bán bất động sản.

Như vậy, đăng ký thế chấp bất động sản giúp tạo ra lòng tin cho bên nhận bảo đảm cũng như tạo ra tính an toàn cho các giao dịch về bất động sản. Mặt khác, nó cũng là cơ sở thúc đẩy sự phát triển của thị trường vốn cho đầu tư vào kinh doanh bất động sản, từ đó thúc đẩy sự phát triển chung của thị trường bất động sản. Điều này đã được GS.TS Đặng Hùng Võ khẳng định khi trả lời phóng vấn báo VN Media ngày 03/8/2006 "là phải tạo lập hành lang pháp lý chính thức cho các hoạt động dịch vụ hỗ trợ thị trường bất động sản, bao gồm: Mở sàn giao dịch bất động sản, các dịch vụ về tài chính, ngân hàng... đối với thị trường bất động sản, đặc biệt cần quan tâm tới việc chính quy hoá thị trường thế chấp bằng bất động sản để vay vốn phục vụ cho đầu tư thuận lợi". Đăng ký thế chấp bất động sản cũng chính là một trong các giải pháp để thị trường bất động sản được công khai, minh bạch.

-----------------------
[1] Nguyễn Ngọc Điện (2006), "Mối quan hệ giữa đăng ký bất động sản và xác lập đối với bất động sản", Nghiên cứu lập pháp, tr. 34.

SOURCE: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ BỘ TƯ PHÁP

Trích dẫn từ:

http://www.moj.gov.vn/p/tag.idempotent.render.userLayoutRootNode.target.n65.uP?uP_root=me&cmd=item&ID=10412

GIẢI QUYẾT QUYỀN LỢI CỦA VỢ CHỒNG ĐỐI VỚI NHÀ, ĐẤT THUÊ CỦA NHÀ NƯỚC

 TƯỞNG DUY LƯỢNG - Chánh tòa Dân sự, Tòa án nhân dân tối cao

1. Phải xác định giá trị quyền thuê nhà ở thuộc sở hữu nhà nước là tài sản chung của vợ chồng

Trong nhiều vụ án ly hôn, hai bên đương sự tranh chấp với nhau về quyền thuê nhà của Nhà nước. Đương sự nào cũng yêu cầu được sử dụng diện tích nhà đang thuê củaNhà nước. Đối với trường hợp vợ chồng vừa có quyền sở hữu nhà đất, vừa có diện tích nhà thuê của Nhà nước thì trước năm 2001 các tòa án đều không coi quyền thuê nhà của Nhà nước là tài sản chung của vợ chồng. Sau năm 2001, mặc dù đã có Nghị định 70/2001/NĐ-CP ngày 3/10/2001 của Chính phủ nhưng khi giải quyết, nhiều tòaán vẫn tỏ ra lúng túng, có không ít trường hợp tòa án không coi quyền thuê nhà là tài sản chung vợ chồng, nên không xác định giá trị để chia. Đây là một điều không hợp lý, dưới đây là một ví dụ:

Chị Phạm Thị Thanh, trú tại 38 Đại lộ Hồ Chí Minh, thành phố HD ly hôn anh Nguyễn Đình Chuyền, hiện đang cư trú tại Cộng hòa Liên bang Nga.

Năm 2000, vợ chồng chị Thanh, anh Chuyền mua “hỏa hồng”, mà thực chất là nhận chuyển nhượng quyền thuê nhà của Nhà nước đối với căn nhà số 69 Đại lộ Hồ Chí Minh - là nhà 3 tầng, diện tích 26,7 m2, chiều ngang theo mặt đường là 2,06m - với giá 395.000.000 đồng. Ngày 20/02/2001 anh Chuyền đứng tên hợp đồng thuê căn nhà này với cơ quan quản lý nhà của Nhà nước.

Trong quá trình giải quyết vụ án, tòa án đã tiến hành định giá vào đầu năm 2004 thìtheo giá nhà do Nhà nước bán cho người đang ở thuê thì căn nhà này có giá là 37.500.000 đồng; trong khi đó giá chuyển nhượng thực tế theo thị trường là 1.200.000.000 đồng.

Khi giải quyết tranh chấp quyền sử dụng căn nhà này, Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân tỉnh HD có nhiều quan điểm khác nhau:

Quan điểm thứ nhất: Căn nhà số 38 Đại Lộ Hồ Chí Minh, thành phố HD hiện đang là nhà thuộc sở hữu nhà nước, chưa phải là tài sản chung vợ chồng, cần chờ Nhà nước hóa giá sang tên cho vợ chồng lúc đó mới đem ra chia.

Quan điểm thứ hai: Xác định giá trị căn nhà theo giá thị trường, coi giá trị đó là tài sản chung vợ chồng. Giao nhà cho bên nào thì bên đó phải thanh toán tài sản cho bên kia.

Quan điểm thứ ba: Lấy giá thị trường trừ đi giá tiền sẽ phải thanh toán cho Nhà nước (khi hóa giá) phần còn lại là tài sản chung của vợ chồng. Giao nhà cho bên nào sử dụng thì bên đó phải thanh toán chênh lệch cho bên kia.

Chúng tôi cho rằng quyền sử dụng nhà thuê là một quyền về tài sản, trên thực tế Nhà nước đã thừa nhận việc chuyển nhượng quyền thuê nhà thuộc sở hữu nhà nước. Đặc biệt gần đây Chính phủ vừa ban hành Nghị định 70/2001/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật hôn nhân và gia đình, tại Điều 28 Nghị định này có quy định: “Việc giải quyết quyền lợi của vợ chồng khi ly hôn đối với nhà ở do vợ hoặc chồng hoặc cả vợ và chồng được thuê của Nhà nước trước hoặc sau khi kết hôn, được thực hiện theo quy định sau đây:

1. Trong trường hợp hợp đồng thuê nhà ở vẫn còn thời hạn, thì các bên thỏa thuận về việc tiếp tục thuê nhà ở đó; nếu các bên không thỏa thuận được và cả hai bên đều có nhu cầu sử dụng, thì được tòa án giải quyết theo quy định tại Điều 95 của Luật Hôn nhân và gia đình.

Trong trường hợp vợ chồng đã nâng cấp, sửa chữa, cải tạo nhà thuê của Nhà nước hoặc xây dựng mới trên diện tích có nhà thuê của Nhà nước, thì khi ly hôn, việc chia quyền sử dụng nhà ở và phần diện tích nâng cấp, sửa chữa, cải tạo, xây dựng mới do các bên thoả thuận; nếu không thỏa thuận được, thì được tòa án giải quyết theo quy định tại Điều 95 của Luật hôn nhân và gia đình. Nếu chỉ một bên có nhu cầu sử dụng, thì bên sử dụng phải thanh toán cho bên kia phần giá trị quyền thuê nhà của Nhà nước và một phần giá trị nhà đã nâng cấp, cải tạo, sửa chữa, xây dựng mới mà bên đó được hưởng vào thời điểm chia tài sản khi ly hôn.

2. Trong trường hợp vợ chồng đã được Nhà nước chuyển quyền sở hữu đối với nhà ở đó, thì việc chia nhà khi ly hôn được thực hiện theo quy định tại Điều 95 của Luật Hôn nhân và gia đình. Như vậy, giá trị quyền thuê nhà đối với nhà ở của Nhà nước do vợ hoặc chồng hoặc cả vợ và chồng được thuê của Nhà nước trước hoặc sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng (trường hợp hợp đồng thuê nhà ở còn thời hạn thuê trong hợp đồng hoặc còn quyền thuê nhà trên thực tế). Đối với trường hợp hợp đồng thuê nhà đã hết, thì phải hỏi ý kiến của cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý nhà cho thuê, nếu cơ quan đó cho biết vẫn công nhận cho chủ đã ký hợp đồng thuê vẫn tiếp tục được thuê, vẫn thu tiền thuê nhà thì cũng coi giá trị quyền thuê nhà là tài sản chung. Do đó, khi ly hôn Tòa án phải áp dụng Điều 95 Luật Hôn nhân và gia đình để giải quyết. Trường hợp diện tích nhà không thể phân chia quyền sử dụng được hoặc một bên đương sự chỉ xin chia giá trị, thì Tòa án giao nhà cho bên có nhu cầu sử dụng và buộc bên được Tòa án giao quyền sử dụng nhà phải thanh toán cho bên kia một phần giá trị quyền thuê nhà tương ứng với quyền lợi của họ.

Việc xác định giá trị quyền thuê nhà (thuộc sở hữu nhà nước) là tài sản chung trước hết cũng phải căn cứ vào giá trị chuyển nhượng quyền thuê nhà của căn nhà đó (bao gồm cả giá trị quyền sử dụng đất) theo giá thị trường là bao nhiêu? Phần giá trị đó là tài sản chung của vợ chồng. Trở lại vụ án trên, nếu giá trị chuyển nhượng quyền thuê nhà số 69 Đại lộ Hồ Chí Minh là 1,2 tỷ đồng thì 1,2 tỷ đồng là tài sản chung; nếu giá trị 1,2 tỷ đồng là giá trị chuyển quyền sở hữu nhà thì phần giá trị thuộc tài sản chung vợ chồng sẽ là 1,2 tỷ đồng - 37.500.000đ.

2. Giải quyết quyền sử dụng đất mà vợ chồng được Nhà nước cho thuê

Quyền sử dụng đất là một quyền về tài sản đã được ghi nhận trong Bộ luật Dân sự. Theo quy định tại Điều 25 Nghị định 70/2001/NĐ-CP nói trên của Chính phủ thì sau khi kết hôn, quyền sử dụng đất mà cả vợ và chồng hoặc chỉ một bên vợ hoặc chồng được Nhà nước cho thuê là tài sản chung của vợ chồng. Do đó, khi vợ chồng ly hôn thì quyền sử dụng đất được Nhà nước cho thuê xử lý như sau:

- Nếu vợ chồng đã trả tiền thuê đất hàng năm mà khi ly hôn, nếu cả 2 vợ chồng đều có nhu cầu và điều kiện trực tiếp sử dụng đất thì việc phân chia quyền sử dụng đất được thực hiện theo quy định của Điều 95 Luật Hôn nhân và gia đình. Sau khi được Tòa án xác định quyền sử dụng đất cho mỗi bên thì các bên phải ký hợp đồng thuê với Nhà nước. Nếu chỉ có một bên có nhu cầu và có điều kiện trực tiếp sử dụng đất thì bên đó được tiếp tục sử dụng.

- Trong trường hợp vợ chồng đã trả tiền thuê đất cho cả thời gian thuê, thì khi ly hôn, các bên thỏa thuận về việc sử dụng đất đó và thanh toán cho nhau phần tiền thuê đất đã nộp trong thời hạn thuê còn lại.

Trong trường hợp một bên được sử dụng toàn bộ diện tích đất, thì phải thanh toán cho bên kia một nửa số tiền thuê đất tương ứng với thời gian thuê đất còn lại, kể từ thời điểm chia tài sản khi ly hôn.

Tuy nhiên, theo chúng tôi đối với trường hợp quyền sử dụng đất thuê của Nhà nước được đem chuyển nhượng quyền thuê quyền sử dụng đất được cơ quan có thẩm quyền cho phép thì giá trị chuyển nhượng quyền thuê quyền sử dụng đất cũng được coi là tài sản chung của vợ chồng.

Căn cứ vào Điều 714 Bộ luật dân sự trong trường hợp vợ chồng cho thuê lại quyền sử dụng đất thuê (đối với trường hợp pháp luật không có quy định khác) thì giá trị cho thuê lại quyền sử dụng đất cho thuê cũng được coi là tài sản chung của vợ chồng. Việc phân chia giá trị nói trên được giải quyết theo tinh thần của Điều 95 Luật Hôn nhân và Gia đình.

Cần lưu ý khi giải quyết các tranh chấp về quyền thuê nhà và quyền thuê quyền sử dụng đất, nếu các bên đã đầu tư tài sản vào nhà, đất (sửa chữa, nâng cấp đối với nhà, xây dựng, cải tạo đối với đất v.v..) thì phải xác định phần đầu tư này là tài sản chung của vợ chồng và giải quyết theo quy định của Điều 95 Luật Hôn nhân và gia đình.

SOURCE: TẠP CHÍ KHOA HỌC PHÁP LÝ SỐ 2 (39) NĂM 2007

Thứ Sáu, 3 tháng 10, 2008

CẠNH TRANH VÀ XÂY DỰNG PHÁP LUẬT CẠNH TRANH Ở VIỆT NAM Ở ĐÂY

TS. NGUYỄN NHƯ PHÁT - Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật

I. Đặt vấn đề (Grundlage)

Nếu xét về chế độ chính trị - xã hội thì Việt Nam vẫn được coi là một quốc gia cộng sản. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động xây dựng pháp luật ở Việt Nam mà theo đó, chế độ một Đảng theo kiểu CNXH cho phép và tạo điều kiện để lực lượng chính trị này chi phối chiến lược, kế hoạch lập pháp và thậm chí cả nội dung và tư tưởng cơ bản của từng đạo luật do Quốc hội ban hành, mặc dù và trong khi pháp luật hiện hành về quy trình lập pháp không có quy định về điều đó, trong khi, Hiến pháp có quy định về việc "tổ chức Đảng phải hoạt động theo Hiến pháp luật" . Thông thường, việc ban hành những văn bản pháp luật mới, có ý nghĩa quan trọng trong đời sống xã hội thường được dự liệu trước trong các văn kiện của Đảng (Nghị quyết Đại hội hay của các Hội nghị BCH TƯ). Kế theo đó, khi Quốc hội thậm chí cả khi Chính phủ xem xét ban hành văn bản pháp luật, cũng cần có ý kiến của cơ quan Đảng mà thông thường, đó là những quyết định.

Đối với đa số người Việt Nam, đây là những cách làm bình thường và dễ hiểu (thói quen). Tuy nhiên, nếu nhìn nhận dưới góc độ Nhà nước pháp quyền (Điều 2, Hiến pháp sửa đổi, 11/12/2001), về vấn đề tham gia và chi phối của tổ chức Đảng vào hoạt động lập pháp, trong giới nghiên cứu pháp lý cũng đã có ý kiến, nên chăng ít nhất, điều này cũng cần được cụ thể hóa trong pháp luật về quy trình và thủ tục ban hành các văn bản pháp luật.

Mặc dù vậy, trong xu thế phát huy dân chủ, nâng cao vai trò của Quốc hội, gần đây đã xuất hiện một số trường hợp là Quốc hội đã có những biểu quyết không đồng nhất với ý kiến của cơ quan Đảng - điều dường như chưa thấy lâu nay.

Cũng cần phải nói thêm rằng, xét về mặt hình thức, sự lạc hậu và bất cập có thể của hệ thống pháp luật Việt Nam không hoàn toàn có nguyên nhân từ sự yếu kém của giới nghiên cứu pháp lý[1]. Vấn đề là ở chỗ, trong một xã hội, nơi mà các Nghị quyết của Đảng được coi là công cụ trung tâm và chính thức của sự quản lý xã hội, quản lý Nhà nước và với cơ chế làm luật hiện hành và thực tế như hiện nay thì sự quan tâm, ưu tiên của xã hội, của các nhà làm làm luật chưa phải là khoa học pháp lý. Điều này sẽ cắt nghĩa cho những trường hợp mà ở đó, có những văn bản pháp luật hay thực tiễn pháp lý chứa đựng những sơ xuất sơ đẳng về khoa học pháp lý hiện đại[2].

Xét về phương diện kinh tế, thị trường Việt Nam thoát ra từ cơ chế kinh tế kế hoạch theo kiểu CNXH - nơi mà cạnh tranh được coi là xa lạ và độc quyền (Nhà nước) là phổ biến. Vì vậy, sau nhiều năm thiết lập cơ chế thị trường, nhận thức chung của xã hội và giới kinh doanh cũng như của giới chính khách (các nhà làm luật) về các hiện tượng cạnh tranh, cạnh tranh không lành mạnh, về độc quyền vẫn chưa thực sự theo các nguyên lý chung và hiện đại của thị trường, một chế định pháp luật riêng rẽ về cạnh tranh vẫn chưa hình thành. Mặc dù, Đảng CSVN, trong các văn kiện của mình đã đề cập vấn đề này khá kịp thời.

Qúa trình hình thành cơ chế kinh tế thị trường ở Việt nam còn phải tuân theo những điều kiện và bối cảnh đặc thù, ảnh hưởng đến việc hình thành chính sách cạnh tranh và pháp luật cạnh tranh trong đời sống kinh tế.

Nếu xét từ tư duy quản lý, cơ chế thị trường ở Việt Nam vẫn đang trong giai đoạn sơ khai của sự hình thành, tính chất quá độ, nguyên thuỷ và mông muội của hình thái cạnh tranh còn thể hiện ở mức tương đối rõ rệt. Đang trong bước quá độ của hiện tượng độc quyền Nhà nước chuyển sang cơ chế thị trường, vì vậy điều không thể tránh khỏi là thói quen độc quyền, ác cảm với cạnh tranh trong nhận thức và hành động và không triệt để trong nhận thức về tác hại của độc quyền trong cơ chế thị trường...là những biểu hiện còn đang thấy ở xã hội Việt Nam. Hơn thế nữa, Hiến Pháp Việt Nam thừa nhận và đặt mục tiêu là kinh tế thị trường một mặt phải đảm bảo sự quản lý của Nhà nước và mặt khác kinh tế Nhà nước phải giữa vai trò chủ đạo. Tuy gần đây, tư tưởng này được cụ thể hoá bằng việc nhận thức mới về vai trò của kinh tế Nhà nước mà theo đó, cần phân biệt giữa độc quyền Nhà nước (điều cần phải thừa nhận) với độc quyền doanh nghiệp Nhà nước (hiện tượng cần được kiểm soát).

Thêm vào đó, do phải tồn tại trong thời kỳ dài trong thời kỳ khó khăn của dân chủ và tự do mà thói quen trong ý thức của người dân Việt Nam và phần nhiều các doanh nghiệp mới ra đời chưa nhận thức được những khả năng mới mà họ có thể có nếu như cạnh tranh được kiểm soát và bảo vệ.

Từ tất cả những điều trình bầy trên đây cho thấy, mặc dù Việt Nam đã tuyên bố đi theo con đường kinh tế thị trường và gần đây Hiến pháp (sửa đổi) đã ghi nhận Nhà nước pháp quyền (XHCN), song quá trình hình thành chính sách cạnh tranh và xây dựng pháp luật về cạnh tranh ở Việt được hình thành trong sự chi phối bởi những tiền đề và bối cảnh đặc thù mà khó có thể so sánh được với các quốc gia chuyển đổi khác.

II. Thực trạng về môi trường cạnh tranh và kiểm soát độc quyền trong kinh doanh ở Việt Nam

1. Chính sách cnh tranh và s khi xướng ban đầu

Công cuộc cải cách kinh tế ở Việt Nam bắt đầu bằng những chính sách mở rộng quyền sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp (bao gồm cả sản xuất, lưu thông và giá cả) và tiếp đến là những biện pháp đa dạng hoá hình thức sở hữu của nền kinh tế. Thông qua việc ban hành Luật Đầu tư nước ngoài, Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân (1990) và nay được thay bởi Luật doanh nghiệp (12/6/1999), nn kinh tế nhiu thành phn chính thức được thừa nhận và bảo hộ Việtt Nam. Đặc biệt quan trọng, việc bảo hộ quyền lợi của người sản xuất và tiêu dùng đã được Hiến pháp 1992 (điều 28) khẳng định.

Đại hội Đảng lần thứ VIII đã đưa ra nhiệm vụ: “Tạo môi trường hợp tác và cạnh tranh lành mạnh trong sản xuất, kinh doanh. Thực hiện độc quyền nhà nước trong một số ngành, một số lĩnh vực nhất định vì lợi ích của đất nước; hạn chế độc quyền kinh doanh, không để lợi dụng địa vị độc quyền để duy trì đặc quyền, đặc lợi, lũng đoạn thị trường.”[3] Tiếp theo đó, vấn đề khuyến khích cạnh tranh và kiểm soát độc quyền đã được tiếp tục nhấn mạnh trong các văn kiện Đại hội IX của Đảng: “Nhà nước tạo môi trường pháp lý thuận lợi, bình đẳng cho các doanh nghiệp cạnh tranh và hợp tác để phát triển...[4]”, “Hình thành đồng bộ các loại thị trường đi đôi với việc xây dựng khuôn khổ pháp lý và thể chế cần thiết để thị trường hoạt động năng động, có hiệu quả, có trật tự kỷ cương trong môi trường cạnh tranh lành mạnh, hạn chế và kiểm soat độc quyền trong kinh doanh. Có giải pháp hữu hiệu chống buôn lậu và gian lận thương mại.”[5] Cụ thể hơn, phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội 5 năm đã đề ra nhiệm vụ “... chống đặc quyền và lũng đoạn thị trường ban hành Luật Cạnh tranh và kiểm soát độc quyền trong kinh doanh phù hợp với những điều kiện thực tế của Việt nam.”[6]

Khung pháp lý mới liên quan đến các giao dịch thương mại trong nền kinh tế thị trường đã dần được hình thành với những Bộ Luật, Luật, Pháp lệnh,.. như: Bộ Luật dân sự, Bộ Luật hình sự, Bộ Luật Lao động, Luật Thuế, Luật Thương mại, Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế,..... Quyn quyết định của cả người sản xuất lẫn người tiêu dùng đều được mở rộng. Chính sách hai giá bị thu hẹp từng bước, Nhà nước chỉ còn qun lý giá đối với một số sản phẩm và dịch vụ quan trọng. Giá cả hầu hết các mặt hàng đều đã phản ánh được quan hệ cung- cầu trên thị trường.

Tình trạng “ngăn sông cấm chợ” (chia cắt thị trường bằng biện pháp hành chính) đã được giải toả, hàng hoá được lưu thông t do trên cả nước. Bên cạnh đó, cùng với việc Việt nam gia nhập các tổ chức thương mại khu vực và quốc tế, các biện pháp tự do hoá thương mại đã được thực hiện từng bước, thị trường đã được mở rộng ra khỏi biên giới quốc gia.

Như vậy, với việc xuất hiện nn kinh tế nhiu thành phn, tng bước t do hoá trong sn xut, lưu thông, cho phép t định đot giá và la chn tiêu dùng, đã xuất hiện các điều kiện cơ bản cho việc hình thành môi trường cnh tranh và tạo điều kiện cho cơ chế cạnh tranh vận hành trong nền kinh tế Việt Nam. Sự cạnh tranh của hàng hoá Việt nam đã diễn ra không chỉ trên thị trường trong nước mà còn trên cả thị trường quốc tế, không chỉ giữa hàng hoá của Việt nam mà với cả hàng nhập khẩu, không chỉ giữa các doanh nghiệp nhà nước với doanh nghiệp tư nhân Việt nam mà còn cạnh tranh với cả các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.

Từ chính sách cạnh tranh và những điều kiện pháp lý khung như trên, cạnh tranh trong cơ chế thị trường ở Việt Nam đã được khởi sắc và đã só một số kết quả tích cực:

- Tạo sự sôi động trên thị trường, xuất hiện nhiều sản phẩm có sức cạnh tranh

Việc giảm các rào cản gia nhập thị trường đã cải thiện tình hình cung ứng hàng hoá ở nhiều lĩnh vực, sản phẩm và dịch vụ trên thị trường đã được nâng cao về số lượng, chất lượng và chủng loại, quyền lựa chọn của người tiêu dùng được mở rộng. Các giao dịch mua bán diễn ra sôi động hơn, một số doanh nghiệp đã vươn lên, tạo ra những sn phm có sc cnh tranh, không những chiếm lĩnh hoặc giữ được thị phần trong nước mà còn xuất khẩu ra thị trường mới. Quan sát các thị trường ở cả thành thị lẫn nông thôn đều thấy hàng hoá đa dạng hơn cả về chủng loại, mẫu mã chất lượng và giá cả.

- Thực hiện chức năng đào thải, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu

Bên cạnh đó, một số doanh nghiệp bị thua lỗ do yếu kém trong cạnh tranh, không tiêu thụ được sản phẩm, lao động bị mất việc làm. Về bản chất, đây là kết quả quá trình “chn lc, đào thi” của cơ chế cạnh tranh. Sự mất mát này mang tính cục bộ (phá sản doanh nghiệp yếu kém, tạm thời mất việc làm hoặc chuyển sang làm việc khác), nhưng nó cải thiện được chất lượng của ngành, thúc đẩy quá trình chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế theo hướng phù hợp hơn, và do vậy mang lại li ích cho tng th xã hi.

- Góp phần nâng cao kim ngạch xuất khẩu

Quá trình tự do hoá trong lĩnh vực xuất nhập khẩu (bỏ giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu, giảm số lượng mặt hàng cấm và hạn chế xuất nhập khẩu, tăng đầu mối xuất nhập khẩu, ...) đã góp phần làm sôi động hot động xut nhp khu, giảm chi phí giao dịch do bỏ bớt khâu trung gian, tăng kim ngạch xuất nhập khẩu và tăng mức độ mở cửa của nền kinh tế nước ta.

2. Thc trng cnh tranh - Nhng vn đề cn khc phc

2.1. Nhận thức về cạnh tranh

Theo quan điểm truyền thống trong thời kỳ kinh tế kế hoạch hoá tập trung thì cạnh tranh, kinh tế thị trường và Chủ nghĩa tư bản thường được gắn chặt với nhau và do vậy, cạnh tranh bị coi như là một hiện tượng xấu xa, thiếu đạo đức, “cá lớn nuốt cá bé”, là nguyên nhân dẫn đến những hiện tượng tiêu cực trong xã hội như gây ra khủng hoảng kinh tế, nhiều doanh nghiệp phá sản, nhiều người bị thất nghiệp,....Một số phương tiện thông tin đại chúng nhiều khi không khách quan, đã gán cho cạnh tranh cả những “tội lỗi” mà không phải nó trực tiếp gây ra như lừa đảo, hối lộ, hoặc đưa ra những thông tin không đúng sự thật làm giảm sức cạnh tranh của một sản phẩm, một làng nghề. Nhận thức về cạnh tranh chưa phù hợp đã dẫn đến sự phân biệt đối xử trong quyết định của một vài cơ quan cũng như trong hành vi của một số công chức còn mang tính phân biệt đối xử (đặc biệt là trong khâu đăng ký kinh doanh, phân bổ quota, chỉ định đầu mối,...). Điều đó đã làm hạn chế cạnh tranh, bóp méo các quan hệ cạnh tranh trên thị trường.

Vấn đề độc quyền ở Việt nam gắn liền với việc xác định vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế và có tác động quan trọng đến cách thức can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế. Với quan niệm cho rằng, độc quyền kinh doanh (hoặc ít nhất là khống chế thị trường) của Nhà nước là sự cần thiết cho việc điều tiết nền kinh tế, nhiều cơ quan hoạch định chính sách vẫn trực tiếp hoặc gián tiếp ủng hộ xu thế độc quyền ở nhiều lĩnh vực. Vị trí độc quyền được duy trì với những lý do như “vì an ninh quốc gia”, “vì vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước”, “bảo hộ sản xuất trong nước”.

Với quan niệm như trên, hiện nay ở Việt nam ch tn ti độc quyn ca doanh nghip nhà nước, được Nhà nước giao phó và to điu kin chiếm gi v trí này, hoàn toàn chưa có độc quyền tư nhân trong nước hay nước ngoài. Mọi tổ chức độc quyền trên thị trường hiện nay đều được hình thành thông qua quyết định hành chính[7], chưa có mt t chc độc quyn nào được hình thành thông qua t do cnh tranh. Bên cạnh những quyết định ở Trung ương, một số địa phương cũng đưa ra một số quy định nhằm chia cắt thị trường, tạo vị thế độc quyền trên địa bàn cho doanh nghiệp của địa phương mình.

Trong khi độc quyền được duy trì ở nhiều lĩnh vực thì độc quyền trong sử dụng phát minh, sáng chế (loại độc quyền có tác dụng tích cực đến quá trình đổi mới) lại không được bảo hộ một cách nghiêm túc. Điều này đã làm hạn chế đáng kể động lực ở lĩnh vực nghiên cứu & phát triển, hạn chế việc nâng cao khả năng cạnh tranh của toàn nền kinh tế.

2.2. Hin tượng phân bit đối x

Hiện tượng phân biệt đối xử diễn ra ở nhiều lĩnh vực và mang tính tương đối phổ biến. Sự phân biệt đối xử không ch được th hin trong quá trình hoch định chính sách, trong ni dung các văn bn pháp lut mà còn c trong hot động ca b máy hành chính.

Đối x khác bit trong ni dung văn bn pháp lut

ở hầu hết các khâu, từ quá trình thành lập đến tiếp cận các nguồn lực (đất đai, tín dụng, lao động,...) và sản xuất kinh doanh, đều xuất hiện các quy định và hành vi phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp, đặc biệt là giữa khu vực quốc doanh và khu vực dân doanh.

- Khác biệt trong thành lập và đăng ký kinh doanh

Hiện nay Việt Nam đang tồn tại nhiều Luật để điều chỉnh các loại hình pháp lý doanh nghiệp (Rechtsform der Unternehmen) như : Lut DNNN, Lut Doanh nghip, Lut Hp Tác Xã, Lut Đầu tư nước ngoài. ở đây, vấn đề không phải là vì có nhiều Luật mà tư tưởng về tự do kinh doanh, về thành lập, đăng ký kinh doanh và quản lý nhà nước trong các Luật này còn nhiều điểm rất khác nhau.

- Khác biệt trong chính sách thuế, giá

Đối xử khác biệt được thể hiện rất rõ nét trong thuế suất (Steuersatz), đặc biệt trong Thuế Thu nhập doanh nghiệp (Umsatzsteuer) ; cơ chế hai giá (giữa người Việt nam và nước ngoài) vẫn còn duy trì đối với một số hàng hoá dịch vụ quan trọng cho đời sống và sản xuất. Ngay trong việc thu phí dịch vụ (nhất là vé du lịch), mặc dù đã có quyết định của Thủ tướng Chính phủ, song nhiều địa phương vẫn duy trì chế độ hai giá đối với người trong nước và người nước ngoài.

- Phân biệt đối xử trong chính sách đất đai

Trong khi nhiều doanh nghiệp nhà nước không sử dụng hết mặt bằng sản xuất hoặc sử dụng không đúng mục đích thì chỉ có rất ít doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân được Nhà nước cho thuê đất. Mặc dù vấn đề này đã được phản ánh ở mọi cấp, Luật đất đai được sửa đổi nhiều lần song vẫn chưa có một biện pháp hữu hiệu để giải quyết vấn đề này.

- Phân biệt đối xử trong lĩnh vực xuất nhập khẩu

Trước khi Nghị định 57 được ban hành (1998), rất ít doanh nghiệp dân doanh xin cấp được giấy kinh doanh xuất nhập khẩu, họ cũng hầu như không có cơ hội nhận quota hoặc làm “đầu mối xuất nhập khẩu”. Hầu hết các hoạt động xuất nhập khẩu của khu vực dân doanh đều phải thực hiện qua hình thức xuất nhập khẩu uỷ thác.

- Phân biệt đối xử trong lĩnh vực tín dụng

Khả năng tiếp cận với nguồn tín dụng ngân hàng của các doanh nghiệp dân doanh khó khăn hơn nhiều so với các doanh nghiệp nhà nước (DNNN), chẳng những các DNNN không cần thế chấp mà thông thường còn nhận được nhiều thông tin và dễ dàng nhận được những khoản tín dụng ưu đãi..... Theo ước tính, khu vực DNNN chỉ chiếm 30% tổng GDP song lại chiếm tới 70% tổng số tín dụng của các ngân hàng thương mại, lý do chính là nhiều khoản tín dụng được cho vay theo chỉ định và hơn nữa, khu vực DNNN không cần phải có tài sản thế chấp khi vay ngân hàng. Bên cạnh đó các biện pháp khoanh, hoãn giãn nợ cho khu vực DNNN lại tiếp tục làm hạn chế nguồn vốn của ngân hàng cung cấp cho các doanh nghiệp khác.

- Phân biệt đối xử trong chính sách ưu đãi đầu tư trong nước

Trên cơ sở tổng hợp báo cáo từ các địa phương trong cả nước[8], số dự án dân doanh (nằm ngoài khu vực Nhà nước) được cấp chứng chỉ ưu đãi đầu tư trong năm 2000 là 1113 dự án (chiếm 79.4% tổng số chứng chỉ ưu đãi đầu tư) với số vốn là 10371 tỷ đồng (chiếm 67.9%), sử dụng 116045 lao động (chiếm 74 %). Tuy vậy, chỉ có 412 dự án dân doanh được hưởng tín dụng ưu đãi từ Quỹ hỗ trợ phát triển, nghĩa là ch có 37% chng ch thc s có ý nghĩa (trong khi đó con số này ở các dự án đầu tư của khu vực nhà nước là 86.2%). Hơn na, lượng vn cho các d án dân doanh vay ưu đãi ch chiếm có 22.5% tng vn vay ưu đãi, và lượng vn được h tr lãi sut cho các d án dân doanh ch chiếm 32.9%. Như vậy, mặc dù nhiều dự án đầu tư dân doanh được cấp chứng chỉ ưu đãi, song hầu hết những chứng chỉ này chỉ có ý nghĩa hình thức, trên thực tế Luật khuyến khích đầu tư trong nước đang còn chưa nhắm đúng vào mục tiêu chủ yếu của nó là khuyến khích đầu tư trong nước, phát huy ni lc toàn xã hi. Biểu hiện này cũng có thể được coi như một biểu hiện của sự phân biệt đối xử giữa các khu vực kinh tế của các công chức và các cơ quan công quyền tại các địa phương và các tổ chức tín dụng.

Phân bit đối x trong công quyn

Tại nhiều cơ quan công quyền, các doanh nghiệp dân doanh luôn bị ngầm coi là những doanh nghiệp làm ăn không đứng đắn, có lẽ vì vậy số lượng các đoàn thanh tra kiểm tra viếng thăm nhiều hơn hẳn so với các DNNN. Ngay cả các cán bộ tín dụng cũng e ngại khi cấp tín dụng cho các doanh nghiệp dân doanh, nguy cơ bị truy cứu trách nhiệm khi không thu hồi được nợ sẽ lớn hơn nhiều so với việc cấp tín dụng cho DNNN[9].

Việc phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp dân doanh và DNNN đã dẫn đến hiện tượng “núp bóng DNNN” của một số tư nhân để lạm dụng sự ưu đãi của Nhà nước và “rút ruột” các DNNN. Hiện tượng phân biệt đối xử cũng đã nh hưởng vô cùng tiêu cc đến môi trường cnh tranh và hơn thế nữa, nó còn nh hưởng đến lòng tin ca người dân vào đường li ci cách ca Đảng và Nhà nước.

2.3. Nhng cn tr mang tính hành chính đối vi vic gia nhp và rút khi th trường

- Những cản trở hành chính trong quá trình thành lập doanh nghiệp

Mặc dù nền kinh tế nhiều thành phần đã được Đảng và Nhà nước khuyến khích, Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân đã được ban hành từ 1990, song sự chuyển đổi các quy định pháp lý vẫn còn quá chậm chạp. Tư duy “người dân chỉ được phép kinh doanh những lĩnh vực mà Nhà nước cho phép” đã tạo ra quá nhiều rào cản trong quá trình gia nhập thị trường. Họ không được sản xuất kinh doanh ở nhiều lĩnh vực hoặc phải đáp ứng nhiều điều kiện không rõ ràng và bất hợp lý. Điều đó đã dẫn đến tình trạng trì trệ trong nhiều năm qua: số doanh nghiệp tham gia trên thị trường ở nhiều lĩnh vực còn quá thấp, các doanh nghiệp không phải chịu sức ép cạnh tranh, chậm chạp trong quá trình đổi mới, không có khả năng cạnh tranh trên thị trường khu vực và thế giới.

Luật Doanh nghiệp được ban hành năm 1999 và có hiệu lực từ 1/1/2000 là một điểm đột phá cho việc rỡ bỏ những cản trở mang tính hành chính đối với quá trình gia nhập thị trường của các nhà đầu tư, tạo bầu không khí mới cho nền kinh tế nước ta. Lần đầu tiên quyền kinh doanh của công dân theo quy định của Hiến pháp “Công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật” đã được thể chế hoá. Các doanh nghiệp được quyền kinh doanh tất cả ngành, nghề mà pháp luật không cấm.

Tuy vậy, Luật Doanh nghiệp cũng đã vấp phải nhiều vướng mắc trong quá trình thực hiện do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan. Một số cơ quan nhà nước (chủ yếu là các bộ) và địa phương chưa tích cực triển khai xây dựng các văn bản thi hành Luật, tìm cách trá hình duy trì, phục hồi những thủ tục hành chính đã bị bãi bỏ. Sự tồn tại các rào cản trên không những gây khó khăn cho việc cải thiện môi trường cạnh tranh mà còn làm giảm sút ý chí kinh doanh của công dân, ảnh hưởng tiêu cực đến sự nghiệp phát triển chung của toàn nền kinh tế. Việc duy trì một số giấy phép bất hợp lý sẽ là cơ sở cho sự tiếp tục tồn tại của cơ chế “xin-cho” và các hiện tượng tham nhũng, kìm hãm quá trình chuyển đổi cơ cấu và là một trong những nguyên nhân làm cho nhiều doanh nghiệp có thái độ ỷ lại, không thúc đẩy quá trình đổi mới.

- Những khó khăn trong quá trình phá sản

Về khía cạnh kinh tế, phá sản là hiện tượng của quá trình đào thải, chọn lọc bình thường trong cơ chế thị trường. Hậu quả do phá sản đưa lại chỉ mang tính thời điểm, ngắn hạn, nhưng chính phá sản là yếu tố thúc đẩy quá trình chuyển đổi cơ cấu, phân bổ lại các nguồn lực xã hội vào những lĩnh vực hiệu quả hơn và do vậy nâng cao tính cạnh tranh của toàn nền kinh tế.

Luật phá sản đã được ban hành năm 1993 song do nhiều nguyên nhân, Luật Phá sản chưa đi vào cuộc sống. Những bên có quyền đưa đơn đòi phá sản (bản thân doanh nghiệp, người làm công khi là chủ chủ nợ) đều không muốn cho doanh nghiệp phá sản, thủ tục phá sản không phức tạp và không thực tế Luật Phá sản không đi vào cuộc sống được. Thêm vào đó, bản thân pháp luật về phá sản còn nhiều vấn đề bất hợp lý khó đi vào cuộc sống và mặt khác toà án phá sản (Konkursgericht) đôi khi còn bị ngăn cản vì những lý do "chính scáh xã hội".

Sự kém hiệu lực của Luật Phá sản đã có tác động không tốt đến môi trường cạnh tranh và nền kinh tế, duy trì những doanh nghiệp kém hiệu quả, không tạo điều kiện để chuyển nguồn lực từ nơi kém hiệu quả sang nơi hiệu quả hơn, cản trở quá trình chuyển đổi cơ cấu. Hiện nay, một số doanh nghiệp “đã chết” song vẫn được ngân hàng tiếp tục nuôi sống với hy vọng nuôi con nợ để đòi nợ. Điều này không những tạo ra sự bất bình đẳng trong quan hệ đối xử với khách hàng, duy trì sự hoạt động kém hiệu quả của đồng vốn tại doanh nghiệp mà còn làm lãng phí nguồn tín dụng vốn đã quá nhỏ bé của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam.

2.4. Nhng hin tượng liên kết cn tr cnh tranh (Cartel)

Tuỳ theo góc độ nhìn nhận đánh giá, tác động của việc liên kết giữa các doanh nghiệp có thể đưa lại những tác động tiêu cực hoặc tích cực cho nền kinh tế. Sự liên kết với mục tiêu hợp lý hoá, định chuẩn kỹ thuật, chuyên môn hoá và đặc biệt liên kết để tạo thế mạnh trong đàm phán xuất nhập khẩu sẽ mang lại lợi ích cho toàn nền kinh tế. Ngược lại, sự liên kết để định giá hoặc phân chia thị trường hoặc cùng tẩy chay một đối thủ nào đó trên thị trường trong nước sẽ làm ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường cạnh tranh nói riêng và lợi ích toàn xã hội nói chung.

Trong giai đoạn đầu của chuyển đổi kinh tế, tỷ trọng khu vực kinh tế nhà nước còn tương đối cao, sự liên kết có hại (cho nền kinh tế) giữa các doanh nghiệp để thoả thuận về giá và phân chia thị trường có thể xuất phát từ tư tưởng kế hoạch hoá tập trung trước kia, thậm chí nhiều khi được núp những mục tiêu rất đẹp như: để thống nhất quản lý giá, không để “tư thương ép giá”. Hiện tượng tương đối phổ biến ở Việt Nam là sự liên kết giữa một số doanh nghiệp tại địa phương theo hình thức hiệp hội để tạo một thế độc quyền nhằm nâng giá, nổi bật nhất là trong lĩnh vực taxi nói riêng và vận tải hành khách nói chung.

Thông thường những hành vi liên kết cản trở cạnh tranh là những hành vi đàm phán không chính thức, không công khai nên khó phát hiện và xử lý hơn so với các hành vi cản trở cạnh tranh khác. Chính vì vậy, mặc dù hiện tượng liên kết cản trở cạnh tranh ở Việt Nam chưa có những ảnh hưởng nhiều đến môi trường cạnh tranh như những hiện tượng khác (độc quyền kinh doanh, cản trở hành chính, cạnh tranh không lành mạnh), song nếu không có những biện pháp sớm ngăn ngừa thì sẽ có thể dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng và khó giải quyết.

2.5. Nhng hành vi cnh tranh không lành mnh (unlautererWettbewerb)

Thiếu quy định pháp lý cùng với ý thức chấp hành luật pháp của người dân chưa cao là những nguyên nhân chính dẫn đến xuất hiện nhiều hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh[10] trên thị trường Việt Nam trong suốt thời gian qua.

Trong thời gian qua, hành vi cạnh tranh không lành mạnh xuất hiện ngày càng nhiều với hình thức ngày càng đa dạng hơn, thủ đoạn tinh vi hơn. Có thể điểm qua một số hình thức tương đối phổ biến của cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường Việt nam:

- Hàng gi (Irrefỹhrung):

Hàng giả là hiện tượng xuất hiện rất nhiều ở nước ta với nhiều hình thức: hàng gi v cht lượng, gi v nhãn hiu hàng hoá và gi v c cht lượng ln nhãn hiu hàng hoá[11]. Hiện tượng dán nhãn giả mạo của một số hàng có danh tiếng tuy có giảm song vẫn còn tồn tại và chuyển sang dạng “nhái” nhãn hàng với tên và biểu tượng gần giống như “nguyên bản”. Ví dụ: sau khi nước khoảng La Vie đã có uy tín trên thị trường thì đã có hàng chục nhãn khác như: La Ville, Le Vie, La Vier,.... Điều này đã buộc hãng La Vie gần đây phải đổi hình dáng bao bì, tốn kém thêm rất nhiều thời gian và chi phí, trong khi đó, các hãng khác không hề phải chịu một khoản chế tài nào cho các hành vi không lành mạnh của mình.

- Qung cáo sai lch:

Trong 10 năm qua, quảng cáo ở Việt nam đã có những bước phát triển rất mạnh, từ hình thức đơn giản là giới thiệu sản phẩm đến những chương trình quảng cáo đầy ấn tượng. Tuy vậy, hiện tượng tác dụng quá tốt mà sản phẩm không có hoặc che đậy những tác dụng xấu của sản phẩm vẫn còn xuất hiện, đặc biệt đối với các sản phẩm tân dược và hoá phẩm. Thậm chí có cả những loại thuốc tân dược như Malatonin bị cấm sử dụng ở nước ngoài nhưng vẫn được quảng cáo cho người dân Việt nam dùng để “cải lão hoàn đồng”[12].

- Khuyến mi không tht

Ngoài hình thức quảng cáo, các doanh nghiệp tại Việt nam hiện nay đang tích cực thực hiện những biện pháp khuyến mại nhằm thu hút thêm khách hàng. Bên cạnh những hình thức khuyến mại trung thực vẫn còn tồn tại nhiều hình thức đáng nghi ngờ, ảnh hưởng đến lòng tin của khách hàng[13]. Nhiều đợt mở thưởng và kết quả khuyến mại đều không được công khai nên xuất hiện tâm lý “bị lừa đảo” trong khách hàng. Nguy hiểm hơn, do chưa có những quy định rõ ràng cho khuyến mại, nhiều kẻ lừa đảo đã lợi dụng danh nghĩa của một hãng để vào các gia đình lừa đảo, bán đắt các sản phẩm “rởm” hoặc lấy trộm tài sản của công dân.

- Vu khng làm hi uy tín ca đối th cnh tranh

Hiện tượng vu khống nhằm hạ uy tín đối thủ đã được một số doanh nghiệp sử dụng ở Việt nam. Hình thức này cũng rất đa dạng, từ đơn giản với công cụ “truyền miệng” đến các phương tiện kỹ thuật hiện đại. Năm 1996, ở một số vùng đồng bằng Nam bộ xuất hiện tin đồn ăn sò voi sẽ bị ... cùi, rồi lại có tin máy cán mía của một nhà máy đã cán chết người[14]. Năm 1999 lại có tin vải ở Lục ngạn có thể làm cho người tiêu dùng bị bệnh viêm não (được phát cả trên truyền hình). Môi trường Internet cũng bị lạm dụng để truyền tin thất thiệt như: một số dầu gội đầu có thể gây ung thư, kim tiêm bị nhiễm HIV, băng vệ sinh của Procter chứa chất amiăng hại sức khoẻ. Nguy hiểm hơn, có trường hợp do vô tình hay cố ý, một số cơ quan nhà nước đã xử lý oan sai cho doanh nghiệp do tin vào những tin vu khống của đối thủ cạnh tranh.

- Bán phá giá

Điển hình nhất trong việc phá giá để bóp chết đối thủ cạnh tranh ở Việt nam là ví dụ trên thị trường nước giải khát. Sau khi xâm nhập thị trường Việt nam, từ năm 1995 Coca Cola đã liên tục hạ giá thông qua nhiều biện pháp. Chỉ sau vài năm Coca Cola đã gần như đẩy được các hãng nước ngọt Việt nam ra khỏi thị trường và chỉ còn phải chia xẻ thị trường với đối thủ Pepsi Cola..

Ngoài những hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh xuất hiện “chính thức” nói trên, còn có một số biểu hiện cạnh tranh không lành mạnh “phi chính thức” khác mà khó có thể có được những minh chứng rõ ràng. Đó là những hành vi móc ngoặc trong đấu thầu, đó là sự móc ngoặc hoặc xúi bẩy các cơ quan công quyền kiểm tra, thanh tra vô cớ các đối thủ cạnh tranh. Chỉ cần một cuộc kiểm tra liên ngành tạo một cửa hàng trong lúc đông khách có thể ảnh hưởng rất xấu đến uy tín của cửa hàng đó. Mặc dù không có kết luận sai phạm gì, nhưng việc khôi phục lại uy tín đối với cửa hàng hoàn toàn không đơn giản.

2.6. Độc quyn doanh nghip - nguyên nhân và nhng tác động tiêu cc

Mặc dù nền kinh tế nhiều thành phần đã được chính thức thừa nhận hơn 10 năm qua, song Nhà nước vẫn nắm hoặc khống chế nhiều lĩnh vực kinh tế, tỷ trọng cao nhất là ở những lĩnh vực khai thác than, kim loại, điện, nước, viễn thông, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm,.... Nguyên nhân chủ yếu cho sự tồn tại của độc quyền kinh doanh ở Việt nam xuất phát chủ yếu từ vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế. Bên cạnh đó, độc quyền ở một số lĩnh vực còn có nguyên nhân khách quan mang tính kỹ thuật khác là quy mô công ngh ti thiu đối vi mt s sn phm có quan h tương đối ln vi tng cu trong nước (ví dụ như các sản phẩm thép, ximăng,...). Điều đó có nghĩa, một khi chưa tạo được khả năng xuất khẩu thì việc tồn tại sự khống chế của 1 vài doanh nghiệp là điều tất yếu.

Trong nhiều lĩnh vực, hầu hết các DNNN được tập trung trong một Tổng công ty (90 hoặc 91) như: TCT Than, TCT Thuốc lá, TCT Điện lực, TCT Bưu chính Viễn thông, TCT Bảo hiểm,... Vì thế những lĩnh vực này không chỉ là độc quyền nhà nước mà là độc quyn doanh nghip.

Độc quyền kinh doanh tại Việt nam hoàn toàn nằm trong tay các DNNN, được Nhà nước bảo hộ, không có độc quyn kinh doanh tư nhân hoc nước ngoài. Nhiều hình thức độc quyền tồn tại ở Việt nam: độc quyn mua và độc quyn bán, độc quyn toàn quc và độc quyn địa phương[15]. Vấn đề “độc quyn t nhiên” chưa được nghiên cứu kỹ lưỡng, phù hợp với mức độ tiến bộ khoa học kỹ thuật[16]; quan niệm về độc quyền tự nhiên vẫn không có nhiều thay đổi, trải ra trong phạm vi rộng (ví dụ: trong điện và nước sạch thì bao gồm cả sản xuất lẫn mạng cung ứng điện, nước) dịch vụ công gần như “nghiễm nhiên” được coi là lĩnh vực độc quyền, chưa nghiên cứu áp dụng phương thức đấu thầu dịch vụ công. Trong nhiều ngành, tư tưởng “tự làm” từ khâu đầu đến khâu cuối đã dẫn đến hin tượng độc quyền trong liên kết dc (tự thiết kế, tự thi công, tự nghiệm thu,...).


[1] Liên qua đến vấn đề kiểm soát cạnh tranh và xây dựng pháp luật về cạnh tranh, giới khoa học kinh tế và pháp lý đã sớm có những nghiên cứu và phát hiện vấn đề từ nhiều năm nay. Ngay Viện KAS-CHLB Đức cũng đã có những khởi xướng nghiên cứu khá sớm về pháp luật cạnh tranh.

[2] Nếu theo quy định của Bộ luật dân su Việt Nam thì UBND tỉnh cũng hưởng chế ậô trách nhiệm hữu hạn, hoặc đã có vụ án mà ở đó, thẩm phán không coi các quy định của Incotrem, được thoả thuận trong hợp đồng, là cơ sở để giải quyết tranh chấp với lý do, đó không phải là pháp luật.

[3] Báo cáo chính trị tại Đại hội VIII

[4] Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng lần thứ IX (Văn kiện Đại hội IX, trang 102)

[5] Chiến lược phát triển kinh tế, xã hội 2001-2010 (Văn kiện Đại hội IX, trang 192)

[6] Phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội 2001-2005 (Văn kiện Đại hội IX, trang 322)

[7] Biểu hiện rõ nét nhất là vào ngày 7/3/1994, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 91/TTg về việc thành lập các tổng công ty toàn quố c(Doanh nghiệp Nhà nước) mà theo đó, trên thực tế đã cho ra đời (bằng các biện pháp hành chính) các nhà độc quyền trong gần 20 ngành kinh tế- kỹ thuật.

[8] Theo tổng hợp của Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế TW (4/2000)

[9] Theo điều tra của MPDF thì chỉ có 18% ủng hộ cho doanh nghiệp tư nhân vay tín dụng, trong khi có 80% ủng hộ DNNN vay tín dụng, trong trường hợp cả 2 doanh nghiệp này đều có khả năng đáp ứng các yêu cầu của ngân hàng như nhau.

[10]Hiện nay, trên thế giới chưa có một định nghĩa thống nhất và cụ thể cho hành vi cạnh tranh không lành mạnh, nhưng nói chung đều quan niệm theo hướng là hành vi cạnh tranh bằng những công cụ bất hợp pháp hoặc không hợp với đạo lý luân thường của xã hội, gây thiệt hại cho người tiêu dùng hoặc cho người cạnh tranh khác.

[11] Theo Lê Tất Chiến: Ba loại hàng giả, Báo Lao động số 32/99 ngày 24/2/99

[12] Theo TS Nguyễn Như Phát và Nguyễn Thị Thu Hiền trong báo cáo về “Thực trạng cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường hiệnn nay tại Việt nam ” tại Hội thảo 9/2000 do Viện Nhà nước và Pháp luật tổ chức.

[13] Gần đây, chương trình khuyến mại “trúng lốp bốp” được Công ty sữa Foremost tổ chức từ 15/1/2001 với giải lớn nhất là 100 triệu đồng khi hộp sữa của khách hàng có 3 ngôi sao bên trong. Thế nhưng hai khách hàng ở Kontum và TPHCM đều có 3 ngôi sao nhưng chỉ được “khuyến khích” bằng một máy ảnh giá 1.05 triệu vì 3 ngôi sao của họ không nằm liền nhau, mặc dù trước đó hãng không hề giải thích điều này khi khuyến mại (Theo bài “Thêm một bài học về cách tặng quà” trên báo Thanh niên số 85 ngày 9/4/2001)

[14] Theo bài “Cạnh tranh bằng tin đồn” đăng trên báo Công an nhân dân TPHCM ngày 17/7/1996

[15] Một số địa phương đã dùng mệnh lệnh hành chính để buộc một số tổ chức trên địa phương chỉ được phép tiêu thụ sản phẩm của địa phương mình hoặc của một hãng nào đó (ví dụ: bia, xi măng, vật liệu xây dựng, bảo hiểm,...) tạo thế độc quyền trong địa phương.

[16] Theo ý nghĩa kinh tế, độc quyền tự nhiên có thể được coi đối với những ngành công nghiệp mạng. Ví dụ: Mạng viễn thông vẫn được coi là độc quyền tự nhiên, song ngày nay, sự phát triển khoa học kỹ thuật đã cho phép nhiều công ty viễn thông có thể cùng khai thác trên một mạng, vì thế ở nhiều nước, lĩnh vực này không còn mang tính độc quyền tự nhiên nữa.

SOURCE: CHƯA XÁC ĐỊNH

Trích dẫn từ: http://www.law-vnu.netnam.vn/html/nghiencuu.html

Bài đăng phổ biến