Thứ Bảy, 25 tháng 4, 2009

LUẬT PHÁP VÀ ĐẠO ĐỨC CỦA NGƯỜI LÃNH ĐẠO

DƯƠNG NGỌC DŨNG

Tiến trình hình thành các định chế dân chủ, nếu nhìn theo viễn cảnh toàn cầu, luôn luôn được đi kèm theo một sự phê phán nghiêm khắc thực tiễn chính trị. Đó chính là trường hợp Tây Âu trong thế kỷ 18. Cũng giống như trường hợp các quốc gia hiện nay đang cố gắng xây dựng một nhà nước có cấu trúc dân chủ.

Những biến đổi mau lẹ tại nước Mỹ sau năm 1985 đã khơi dậy sự quan tâm của quần chúng đối với vấn đề quan hệ giữa chính trị và đạo đức. Trước năm 1985 sự phê phán thiếu dân chủ thường hướng về Liên Xô (cũ) và các quốc gia Đông Âu, nhưng sau năm 1992 sự phê phán đó lại quay về chính bản thân định chế dân chủ tại Hoa Kỳ. Người lãnh đạo trong thế giới hiện nay thường là mục tiêu cho những sự phê phán dựa trên hai hệ thống tiêu chuẩn hoàn toàn trái ngược nhau: một mặt ông ta phải thỏa mãn một lý tưởng đạo đức thật hoàn mỹ và hầu như không thể đạt đến được đối với một con người bình thường, nhưng mặt khác quần chúng cũng đồng thời đòi hỏi ông có ý thức thực tế cao độ và làm việc có hiệu quả và năng suất cao nhất. Nếu muốn trở thành một thánh nhân hoàn toàn đạo đức, một nhà lãnh đạo rơi vào một trạng thái hoàn toàn bất định và thông thường trở thành những kẻ bảo thủ và hẹp hòi. ông có thể không dùng những người có năng lực nhưng kém phẩm chất đạo đức. Dĩ nhiên sự phán xét thiếu hay có đạo đức hay không hoàn toàn là thuộc phạm vi chủ quan của riêng nhà lãnh đạo và chưa chắc đã phù hợp với thực tế.

Nhưng điều này không dẫn đến hệ quả dùng phương tiện biện minh cho cứu cánh: một người lãnh đạo vừa có đạo đức vừa có năng lực không hề là một sự mâu thuẫn. Trường hợp cựu thủ tướng Lý Quang Diệu tại Singapore và Phó Thủ Tướng Chu Dung Cơ tại Trung Quốc là hai ví dụ điển hình trong thế giới hiện đại. Nhưng đạo đức của người lãnh đạo là đạo đức như thế nào, đạo đức theo mô hình Nho giáo (như Trung Quốc cổ đại), hay đạo đức theo mô hình Thiên Chúa giáo (như âu châu thời Trung Cổ), hay theo mô hình Phật giáo (Sri Lanka, Ấn Độ thời vua Asoka, Miến Điện thời U Nu), hay đạo đức theo mô hình chủ nghĩa Khai Sáng sau thời Cách Mạng Pháp? Nếu chấp nhận và chọn lựa một trong những mô hình trên đây, người lãnh đạo lập tức rơi vào sự chống đối của những nhóm ủng hộ các hệ thống đạo đức khác. Trường hợp phân ly Ấn Độ và Pakistan, những rối rắm, mâu thuẫn liên tục tiếp theo, là một bằng chứng hiển nhiên cho sự chọn lựa giữa Ấn giáo và Hồi giáo. Những rối loạn chính trị trong những thập niên gần đây tại Sri Lanka chính là do chính quyền chọn Phật giáo làm quốc giáo và bị nhóm dân tộc Tamils phản ứng quyết liệt. Người lãnh đạo, trong trường hợp này, phải chọn luật pháp làm cơ sở mọi quyết định nếu thực sự ông ta muốn tránh những xung đột trong nhận định thế nào là đạo đức và ổn định tiến trình dân chủ hóa các định chế chính trị.

Thế nào là luật pháp và đạo đức có nghĩa là gì?

Luật pháp (law) bao gồm những điểm căn bản sau đây:
(l) quyền con người (human rights) như được thừa nhận trong hiến pháp,
(2) hệ thống pháp lý (dân luật, luật hình sự, luật tố tụng) nhằm thể hiện và bảo vệ các quyền con người căn bản trong các hoàn cảnh đặc thù, cụ thể,
(3) các định chế chính trị dùng để thể hiện và bảo vệ quyền con người với tư cách là một công dân (Quốc Hội và các cơ quan dân cử khác).

Đạo đức ngược lại, bao gồm những yêu cầu mang tính chất vô điều kiện, và không nhằm thỏa mãn các nhu cầu cá nhân, mà hướng đến những bổn phận hay nghĩa vụ phải thực hiện bất chấp sự thiệt hại đối với quyền lợi cá nhân. Chẳng hạn khi giúp đỡ người nghèo mà còn kỳ kèo, tính lợi tính hại, thì nền tảng đạo đức của hành vi đó không còn tồn tại nữa. Dĩ nhiên đây là một định nghĩa theo khuynh hướng triết học Kant, nhưng chúng tôi chấp nhận định nghĩa này do tính chất tuyệt đối của nó. Ví dụ như trường hợp Bill Clinton bị Monica quyến rũ, hãy tạm giả định là ông không "làm" gì cả do sợ vợ và quần chúng tố giác chứ trong thâm tâm ông vẫn muốn "làm" thì xét từ quan điểm đạo đức, ông vẫn là kẻ vô luân, nhưng xét về mặt pháp lý, thì ông hoàn toàn vẫn là một công dân tốt.

Quần chúng khi đánh giá lãnh đạo, nên căn cứ vào luật pháp, và người lãnh đạo cũng nên lấy luật pháp làm thước đo tự thẩm định các quyết định chính trị của mình. Sự tranh chấp giữa các hệ thống tiêu chuẩn đạo đức thường làm các quyết định chỉ dựa trên tính đạo đức thuần túy trở thành cực đoan và bảo thủ.
Nhưng thế nào là một thể chế dân chủ!

Một thể chế dân chủ phải đáp ứng ít nhất hai điều kiện: tính chủ quyền (sovereignty) của nhân dân và quyền con người (human rights) được đảm bảo (tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng, tự do tín ngưỡng, không bị phân biệt đối xử…). Tính chủ quyền có nghĩa là ý chí của nhân dân phải là luật pháp tối cao và mọi quyền lực chỉ trở nên hợp thức hóa thông qua ý muốn của nhân dân. Nhưng vấn đề lớn nhất đặt ra cho người lãnh đạo trong một thể chế dân chủ là: chính quyền (cơ quan quyền lực tối cao do dân cử, nghĩa là định chế chính trị thể hiện ý chí của nhân dân) có nên tuân theo ý muốn của nhân dân (được thể hiện bằng các kháng nghị, biểu tình, xuống dường…) ngược với chính ý chí của nhân dân đã được thể hiện trong hiến pháp? Dĩ nhiên câu trả lời sẽ là: khi ý muốn và hành vi của nhân dân không phù hợp với hiến pháp và đi ngược lại với luật pháp hiện hành, chính quyền không thể chiều theo các “ý muốn” đó được. Và đây chính là điểm giới hạn của khái niệm "dân chủ."
Thế nào là quyền con người hay nhân quyền (human rights)?

Các học giả thường khởi sự bằng cách truy nguyên ngược trở về khái niệm bản chất người (human nature) và dùng đó làm cơ sở để biện luận cho khái niệm "nhân quyền." Thật ra những quyền làm người căn bản phát sinh từ một kinh nghiệm đau thương mang tính chất hủy diệt và những người đầu tiên đề xướng chúng muốn khẳng định rằng một kinh nghiệm tương tự không thể tái diễn. Một triết gia người Nga, Vladimir Soloyyov viết: "Nhiệm vụ của luật pháp không phải là biến thế giới tồi tệ này thành vương quốc của Chúa, nhiệm vụ của nó chính là tránh không cho thế giới này rơi vào địa ngục trước thời hạn." Quyền con người không phát xuất từ một lý tưởng hay triết học trừu tượng nào cả. Chúng phát xuất từ nhận thức rằng: "Những chuyện như thế không được phép xảy ra nữa." Luật pháp chính là phương tiện mang tính định chế duy nhất để giúp thế giới không rơi vào "địa ngục" bằng cách khẳng định và bảo vệ những quyền con người căn bản.

Thật là ngây thơ khi cho rằng con người trên khắp thế gian sẽ được toàn thiện toàn mỹ và đoàn kết lại với nhau trong một giấc mơ dân chủ đại đồng, nhưng nhân loại vẫn có thể hợp tác với nhau để ngăn không cho thế giới rơi vào sự hỗn loạn và tan rã do thiếu chất keo pháp lý. Trong thực tế điều này có nghĩa là tiến trình dân chủ hóa các định chế chính trị phải đi song song với tiến trình pháp lý hóa các cơ cấu quyền lực. Sự góp sức của báo chí trong việc thúc đẩy hai tiến trình song song này đảm nhiệm một sứ mạng quan trọng: nhắc cho mọi người nhớ rằng, luật pháp là thước đo đạo đức của giới lãnh đạo.

SOURCE: TẠP VĂN

Trích dẫn từ: http://www.chungta.com/Desktop.aspx/ChungTa-SuyNgam/Luat-Phap/Luat_phap_va_dao_duc_nguoi_lanh_dao/

Thứ Sáu, 17 tháng 4, 2009

BẢO ĐẢM AN SINH XÃ HỘI CHO NÔNG DÂN – MỘT VẤN ĐỀ XÃ HỘI CẤP BÁCH Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

THS. ĐỖ VĂN QUÂN

Đặt vấn đề

Bảo đảm an sinh được xác lập là một quyền cơ bản của con người, mức độ đảm bảo quyền an sinh là một tiêu chí quan trọng đánh giá trình độ sự phát triển của một quốc gia, dân tộc. Đối với Việt Nam, là một đất nước mới bước vào quá trình hội nhập và phát triển, có nhiều vấn đề, mục tiêu cần phải phấn đấu giải quyết trong đó không thể thiếu mục tiêu thực hiện tốt vấn đề an sinh xã hội cho toàn dân.

Trong điều kiện  là một đất nước mà về cơ bản mang đặc trưng nông thôn, nông nghiệp và nông dân cho nên khi bước vào quá trình hội nhập và phát triển, khu vực “tam nông” đang chịu nhiều thiệt thòi nhất và đồng thời có ảnh hưởng quyết định đến công cuộc hội nhập và phát triển của đất nước. Vì lẽ đó thực hiện vấn đề an sinh xã hội của Việt Nam trước hết phải quan tâm đến đối tượng người nông dân.

Khu vực nông thôn nước ta hiện có hơn 90% nông dân sinh sống, đây là lực lượng cơ bản trực tiếp lao động tạo ra sản phẩm nông nghiệp nuôi sống xã hội, làm giàu cho đất nước. Nhưng xét về mặt nào đó trong bối cảnh hội nhập và phát triển thì nông dân nước ta đang là tầng lớp chịu nhiều thiệt thòi nhất, so với công sức lao động bỏ ra của họ. Thực tế cho thấy vì nhiều lý do chính sách xã hội nói chung và chính sách an sinh xã  hội nói riêng cho người nông dân ở Việt Nam còn chưa được quan tâm đúng mức. Do vậy, chưa thực sự tạo ra động lực to lớn  và phát huy vai trò của họ đối với quá trình hội nhập và phát triển của đất nước. Nhận thức tầm quan trọng cũng như sự khuyết thiếu của vấn đề này, gần đây Đảng, Chính phủ Việt Nam đã nhấn mạnh: “Trong quá trình hội nhập và phát triển, nông dân là lực lượng xã hội cực kỳ nhạy cảm, dễ bị tổn thương, gánh nặng hệ luỵ trước những tác động của kinh tế thị trường. Do đó chính sách nhất quán của Đảng và nhà nước ta là thực hiện chính sách xã hội hài hoà, các chính sách phúc lợi đối với nông dân, nhất là người nông dân ở miền núi vùng sâu vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số. Phải đảm bảo nâng cao đời sống về mọi mặt và thực hiện các chính sách an sinh xã hội cho nông dân khi tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Đó chính là yếu tố quyết định để nông nghiệp, nông thôn, nông dân nước ta hội nhập và phát triển”

Trong báo cáo của Chính phủ tại kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa XII, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khẳng định: “Để bảo đảm việc thực hiện các chính sách an sinh xã hội đã ban hành, Chính phủ yêu cầu các bộ, ngành liên quan, uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố ưu tiên bố trí đủ nguồn vốn và tăng dự trữ, dự phòng; đồng thời xây dựng cơ chế thực thi và chỉ đạo kiểm tra chặt chẽ việc thực hiện, bảo đảm nguồn vốn hỗ trợ của Nhà nước kịp thời, đúng đối tượng, không để thất thoát lãng phí. Đẩy nhanh việc nghiên cứu hoàn thiện các chính sách hỗ trợ có tính chất cơ bản, lâu dài về an sinh xã hội; triển khai thực hiện BHXH tự nguyện, chỉ đạo tổng kết việc thực hiện chế độ hưu của nông dân ở một số địa phương để có thể chuyển sang hình thức BHXH tự nguyện; khẩn trương chuẩn bị các điều kiện để thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp”.

Mục tiêu của bài viết là nhằm phân tích sự cần thiết phải quan tâm thực hiện tốt vấn đề an sinh xã hội cho nông dân trong bối cảnh hội nhập và phát triển của đất nước. Đồng thời, đưa ra một số khuyến nghị nhằm đảm bảo xây dựng và thực thi hệ thống an sinh của quốc gia nói chung, khu vực tam nông nói riêng phù hợp và có hiệu quả. An sinh xã hội cho nông dân - một vấn đề xã hội cần phải được quan tâm giải quyết trên cơ sở phân tích, tổng hợp một số công trình, bài viết có liên quan tác giả cho rằng cần thiết phải quan tâm giải quyết tốt vấn đề an sinh xã hội cho nông dân ở nước ta hiện nay, bởi những lý do sau đây:

Một là, mặc dù đã được cải thiện đáng kể tuy nhiên tỷ lệ hộ nghèo ở khu vực nông thôn vẫn còn cao (gần 20%), một bộ phận có xu hướng nghèo hơn. Khu vực nông thôn nước ta đang chiếm khoảng 90% người nghèo sống của cả nước (nghèo ở nông thôn được xác định là có mức chi tiêu thấp hơn 200.000/tháng/người). Do nghèo đói có tỷ lệ khá cao dẫn đến mức chi tiêu cho đời sống hàng ngày của hộ gia đình nông thôn thấp hơn nhiều so với mức chi tiêu bình quân cho tiêu dùng của hộ nghèo trong cả nước. Việc này đồng nghĩa với thực tế người nghèo ở khu vực nông thôn, nông dân không có tích lũy cho tiết kiệm, dự phòng trong cuộc sống, nhất là ở những vùng đặc biệt khó khăn. Đây thật sự là một mối đe doạ đầy bất trắc đối với tương lai của người nông dân, nhất là khi họ hết tuổi lao động. Thực tế này đặt ra yêu cầu là phải có biện pháp đảm bảo cuộc sống cho người nông dân khi họ ở tuổi già, sức khoẻ giảm sút, không thể tự lao động kiếm sống. Chính vì vậy, việc phát triển hệ thống an sinh xã hội thông qua thực hiện bảo hiểm hưu trí cho nông dân là một nhu cầu thực tế cần phải đáp ứng.

Hai là, thực tế cho thấy người nông dân, nhất là nông dân nghèo đang được hưởng rất ít các chương trình  phúc lợi xã hội, nhất là về chăm sóc sức khoẻ. Các chương trình chăm sóc sức khoẻ cho nông dân ở nước ta hiện nay thường mới dừng lại ở công tác phòng bệnh, các dịch vụ khám chữa bệnh cho nông dân, nhất là nông dân nghèo còn hạn chế. Nhiều công trình nghiên cứu về y tế dự phòng cho rằng, phần lớn tuyến y tế cơ sở nông thôn không đáp ứng được yêu cầu điều trị cho người nông dân khi ốm do đó phải chuyển lên tuyến trên điều trị. Điều này đồng nghĩa với những khoản chi phí về thuốc men, vật tư y tế, ăn ở, đi lại, bồi dưỡng thầy thuốc…thường quá tải so với mức thu nhập của họ. Để giải quyết tình trạng này chúng ta cần phải mở rộng độ bao phủ BHYT tự nguyện ở khu vực nông thôn để người nông dân tham gia.

Ba là, tình trạng phân hoá giàu nghèo, phân tầng xã hội đang có xu hướng doãng ra mạnh mẽ ở  nước ta hiện nay. Chỉ số Gini phản ánh độ chênh lệch thu nhập và phân hóa giàu nghèo trong dân cư từ 0,57 vào năm 1993 tăng lên 0,423 năm 2004. Một nghiên cứu gần đây cho biết: tỷ lệ được hưởng an sinh xã hội ở  nhóm  20%  dân số giàu nhất ở Việt Nam hiện nay đang cao gấp 6 lần nhóm người nghèo. Trong khi nhóm giàu nhất nhận được 45% trợ giúp y tế, 35% trợ giúp giáo dục, còn nhóm nghèo chỉ nhận được tương ứng là 7% và 15%. Thực tế cho thấy an sinh xã hội cho người nghèo ở nông thôn đang rất thấp, có trường hợp là số 0 hoặc số âm. Để góp phần giảm thiểu khoảng cách phân hoá giàu nghèo rất cần thực hiện chiến lược phát triển an sinh xã hội đáp ứng nhu cầu của người dân cả nước nói chung và khu vực nông thôn nói riêng(các chương trình trợ giúp xã hội; vay vốn xoá đói giảm nghèo; trợ giúp khẩn cấp…)

Bốn là, mặc dù đã có nhiều cải thiện đáng kể, tuy nhiên sức lao động ở nông thôn chưa được giải phóng triệt để, chưa phát huy và thực sự tạo ra động lực mới trong việc sử dụng có hiệu quả lao động ở khu vực này. Chất lượng và giá trị việc làm của lao động nông thôn còn thấp. Lao động gia tăng vào tăng trưởng chủ yếu vẫn là số lượng, chất lượng lao động chưa mang tính quyết định. Lao động nông thôn đóng góp làm tăng giá trị sản xuất nông nghiệp nghiệp chiếm tới 50%, nhưng chủ yếu là lao động cơ bắp, hầu hết chưa qua đào tạo nghề. Theo tính toán của Tổng Cục thống kê vào năm 2004 bình quân lao động nông nghiệp tạo ra giá trị chỉ bằng 22,7% so với khu vực dịch vụ và 16,3% so với khu vực công nghiệp. Cơ hội tiếp cận các nguồn lực để sản xuất: vốn, khoa học công nghệ, thị trường… của người nông dân còn rất cho nên hiệu quả sản xuất thường không cao, tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm ở nông thôn vẫn còn xảy với tỷ lệ cao. Bên cạnh đó, lao động trong khu vực nông thôn chủ yếu thuộc thành phần kinh tế hộ gia đình, chiếm khoảng 90%. Khả năng tham gia thị trường lao động khu vực đô thị của họ chưa nhiều, thường ở bậc thấp, nhiều rủi ro và thu nhập thấp. Bên cạnh đó, thị trường lao động ở nông thôn còn sơ khai, đặc biệt là  ở những khu vực khó khăn các quan hệ lao động hầu như chưa phát triển. Giá tiền công lao động trong khu vực nông thôn thường thấp hơn khu vực thành thị từ 15 đến 20%. Từ thực tế như vừa phân tích đặt ra yêu cầu phải đáp ứng vấn đề an sinh xã hội (BHXH tự nguyện, bảo hiểm thất nghiệp, trợ giúp thất nghiệp…) cho nông dân, nhằm hỗ trợ cho những thiếu hụt của họ do đặc điểm lao động, việc làm ở khu vực nông thôn ảnh hưởng đến.

Năm là, mục tiêu phấn đấu đến năm 2020 Việt Nam trở thành đất nước công nghiệp tuy nhiên cho đến nay về cơ bản chúng ta vẫn là một đất nước nông nghiệp, nông thôn và nông dân. Vào năm 2005 khu vực lao động nông nghiệp chiếm hơn 66,5% lao động cả nước. Đặc thù của lao động nông nghiệp là phụ thuộc hoặc thường xuyên tiếp xúc trực tiếp với sự khắc nghiệt của thời tiết, vị trí địa lý, thiên tai, dịch bệnh, hoá chất bảo vệ động thực vật... Chính vì vậy, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ và tính mạng của người lao động( các hóa chất, lũ lụt; sấm sét; thời tiết quá lạnh, quá nóng; bệnh dịch từ gia súc, gia cầm…). Tính từ năm 1990-2000 khu vực nông thôn ở Việt Nam đã có 8000 người thiệt mạng do lũ lụt. Trong năm 2004 cả nước có 4009 vụ nhiễm độc thuốc bảo vệ thực vật. Hàng năm có khoảng 20.000 lượt người bị tai nạn trong lao động trong sản xuất nông nghiệp. Bên cạnh đó, sản xuất nông nghiệp của Việt Nam đang phần lớn phụ thuộc vào sự may rủi của thiên tai thời tiết, dịch bệnh.  Đặc biệt trong thời gian gần đây chúng ta lại càng thấy rõ vấn đề: Hạn hán, rét đậm kéo dài, lũ lụt; dịch cúm gia cầm; dịch lợn tai xanh…đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến các hoạt động sản xuất của người nông dân. Chỉ tính riêng ảnh hưởng của lũ lụt mỗi năm gây thiệt hại cho sản xuất nông nghiệp từ 7-8 nghìn tỷ đồng. Như vậy, đặc điểm của lao động, sản xuất nông nghiệp đang chịu ảnh hưởng rất lớn đến tình trạng sức khoẻ và tính mạng; đến năng suất, chất lượng hiệu quả và mức thu nhập của người nông dân. Đây thật sự là một gánh nặng quá lớn đối với phần lớn nông dân khi họ tự phải xoay sở chi phí chăm sóc y tế,  khắc phục và đầu tư tái sản xuất nông nghiệp của họ. Để giảm thiểu gánh nặng liên quan đến bệnh tật, tai nạn và những rủi ro thất bát trong sản xuất nông nghiệp đòi hỏi phải thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội (BHYT; bảo hiểm tai nạn lao động; bảo hiểm sản xuất; trợ giúp khẩn cấp…) cho người nông dân.

Sáu là, cơ hội tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản, đặc biệt là dịch vụ xã hội chất lượng cao đang có sự khác biệt rất lớn giữa nông thôn và thành thị. Chẳng hạn về dịch vụ giáo dục, năm 2004 tỷ lệ người biết chữ từ 10 tuổi trở lên ở nông thôn là 91,85%, thấp hơn so với thành thị (96,34%); mức chi tiêu cho giáo dục- đào tạo bình quân ở khu vực thành thị là 1.537 nghìn đồng, cao gấp 2,6 lần so với khu vực nông thôn. Về sử dụng dịch vụ y tế cũng có sự khác biệt lớn giữa nông thôn và thành thị, trong khi 85,63% người ốm ở đô thị được điều trị nội trú tại các bệnh viện công lập, thì con số này ở nông thôn là 77,46%. Sở hữu tiện nghi đắt tiền, lâu bền  ở đô thị bình quân một hộ gia đình là 22,5 triệu đồng, trong khi tỷ lệ này ở khu vực nông thôn chỉ đạt 8,2 triệu đồng. Cho đến nay về cơ bản dân cư thành thị đã tiếp cận với nước sạch sinh hoạt, trong khi ở nông thôn chỉ có 62%. Để khắc phục tình trạng này một cách cơ bản và bền vững lâu dài rất cần phát triển hệ thống an sinh xã hội ở khu vực nông thôn (BHYT, bảo hiểm giáo dục…).

Bảy là, nhu cầu tham gia các hình thức an sinh xã hội xuất phát từ nhu cầu nội lực và trong chính truyền thống văn hoá, lịch sử tương thân tương ái giúp đỡ lẫn nhau của cư dân nông thôn, đặc biệt là nông dân. Nhu cầu tham gia bảo hiểm xã hội của  nông dân đã được chính bản thân họ khởi sướng. Từ những năm đầu  thập kỷ 80 của thế kỷ XX mặc dù chưa có chính sách BHXH của nhà nước, tuy nhiên xuất phát từ nhu cầu nguyện vọng thiết tha của người nông dân khi tuổi già có một nguồn tài chính thường xuyên để ổn định cuiộc sống, Hội nông dân ở một số địa phương đã đề xuất với cấp uỷ Đảng, chính quyền xây dựng chế độ BHXH cho nông dân với các tên gọi khác nhau, như:  Quỹ hưu nông dân; Quỹ bảo trợ nông dân; Quỹ hỗ trợ tuổi già; Quỹ BHXH nông dân…Trong đó, Nghệ An là nơi khởi xướng. Tính đến cuối năm 2005, toàn tỉnh đã có 305/326 xã phường và thị trấn thuộc 11 huyện, thị, thành phố tham gia  với 84.156 lượt người, chiếm 16,06% số người có khả năng tham gia BHXH trong tỉnh. Từ năm 2001 đến nay BHYT tự nguyện đã được triển khai trong cả nước. Theo số liệu thống kê của cơ quan BHXH, số người tham gia BHYT tự nguyện nhân dân ngày càng tăng nhanh. Chỉ trong 4 tháng đầu năm 2008, đối tượng nhân dân tham gia đạt 1,6 triệu người, cao hơn số lượng phát hành cho đối tượng này cả năm 2007. Theo kết quả điều tra về nhu cầu tham gia BHXH của Trung tâm nghiên cứu BHXH thuộc BHXH Việt Nam, năm 2003 cho thấy có 72,8% ý kiến người dân ở nông thôn được hỏi trả lời có nhu cầu tham gia BHXH. Từ những phân tích như vậy cho thấy nhu cầu tham gia BHXH của người nông dân là rất lớn và chính đáng. Do vậy, nhà nước phải có trách nhiệm thoả mãn tốt nhu cầu tham gia các loại hình BHXH, nhằm đảm bảo tốt vấn đề an sinh của người nông dân.

Trên đây là mộ số phân tích về cơ sở thực tiễn nhằm chỉ ra sự cần thiết phải nhanh chóng xây dựng, phát triển và thực thi hệ thống an sinh xã hội phù hợp cho khu vực nông thôn, nông nghiệp và nông thôn. Để làm được việc này thiết tưởng cần phải thực thi tốt các khuyến nghị sau:

3. Một số khuyến nghị

- Trước bối cảnh hội nhập và phát triển hiện nay của đất nước đặt ra yêu cầu Đảng, nhà nước và xã hội cần nhận thức đúng đắn tầm quan trọng của chương trình an sinh xã hội của quốc gia nói chung và cho nông dân nói riêng. Trên cơ sở đó có sự phối hợp, gắn kết và lồng ghép với chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, cũng như khu vực nông thôn, nông nghiệp và nông dân nhằm nâng cao tính hiệu quả cuả chương trình an sinh xã hội.

- Cần đổi mới, tăng cường bộ máy công tác quản lý nhà nước về an sinh xã hội.  Trung Quốc là một nước khá tương đồng với nước ta trên nhiều lĩnh vực trong đó có vấn đề an sinh xã hội, vừa qua họ đã thành lập Bộ Nhân lực và An sinh xã hội nhằm tăng cường công tác quản lý nhà nước và thực thi tốt chính sách an sinh xã hội của quốc gia. Đây là một gợi ý mà Việt Nam có thể tham khảo, học tập và vận dụng một cách sáng tạo nhằm xây dựng một hệ thống tổ chức quản lý an sinh xã hội của đất nước có năng lực và hiệu quả.

- Cần tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến lĩnh vực an sinh xã hội của đất nước, nhằm đáp ứng những yêu cầu của thực tiễn xã hội.

- Nhà nước cần tăng cường nguồn lực thường xuyên, đủ mạnh để thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội của đất nước nói chung và khu vực nông thôn, nông nghiệp và nông dân nói riêng. Cần xem đây như là một phương thức đầu tư nhằm đảm bảo sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước bền vững.

- Tăng cường công tác tuyên truyền, vận động nhằm nâng cao nhận thức hiểu biết, thay đổi thái độ và hành vi của người dân Việt Nam nói chung và nông dân nói riêng về những vấn đề liên quan đến an sinh xã hội. Nhà nước cần có chiến lược thực hiện tuyên truyền một cách sâu rộng trong toàn xã hội thông qua các kênh truyền thông trực tiếp và gián tiếp.

- Cần tăng cường hoạt động đào tạo nguồn nhân lực và nghiên cứu khoa học về an sinh xã hội. Muốn thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội đáp ứng yêu cầu thực tiễn hiện nay của đất nước chúng ta phải xây dựng được một đội ngũ cán bộ, nhân viên chuyên nghiệp trong thực hiện chính sách an sinh xã hội. Đồng thời, phải tăng cường hoạt động nghiên cứu khoa học về an sinh xã hội nhằm vận dụng thành công những mô hình lý thuyết, kinh nghiệm từ các nước trên thế giới. Bên cạnh đó phải thường xuyên nắm bắt chính xác và kịp thời nhu cầu, điều kiện, cơ hội tiếp cận an sinh xã hội của các nhóm xã hội, các khu vực, vùng miền, dân tộc khác nhau. Trong điều kiện Việt Nam hiện nay thì vấn đề an sinh xã hội của các nhóm xã hội, vùng miền, khu vực, dân tộc là hết sức khác nhau và đang biến đổi nhanh chóng. Trước mắt nhà nước cần tiến hành chương trình điều tra tổng thể quốc gia về an sinh xã hội.

- Để phù hợp với yêu cầu với tình hình thực tế nông nghiệp, nông thôn và nông dân, Việt Nam cần xây dựng hệ thống an sinh xã hội cho khu vực “tam nông” theo các định hướng sau: Hệ thống an sinh xã hội tam nông hiện đại; hệ thống an sinh xã hội tam nông toàn diện và đa cấp; hệ thống an sinh xã hội tam nông chuyển đổi từ mô hình phi chính thức và không chuyên nghiệp là chính sang loại hình chính thức hoá và chuyên nghiệp hoá là chính; hệ thống an sinh xã hội tam nông chuyển đổi từ mô hình an sinh dựa trên sự hỗ trợ xã hội là chính sang mô hình dựa trên BHXH là chính; mô hình an sinh xã hội dựa trên nguyên tắc nhà nước và hợp tác xã bao cấp là chính chuyển sang mô hình an sinh dựa trên nguyên tắc nhà nước và nhân dân cùng làm, lấy tự nguyện của người dân là chính”(3).

Tài liệu tham khảo chính

1. Bài phát biểu của Thường trực Ban bí thư Trung ương Đảng, Trương Tấn Sang trong chuyến thăm và tìm hiểu về tình hình nông nghiệp nông thôn và nông dân ở Quảng Nam  ngày 14,15/4/2008 (nguồn Báo điện tử Đảng cộng sản)
2. Bài phát biểu của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa XII.
3. Tô Duy Hợp, Báo cáo khảo sát về thực trạng và triển vọng an sinh xã hội tại một xã ngoại thành Hà Nội, Đề tai cấp Viện 2006
4. Tô Duy Hợp, An sinh xã hội tam nông - Một số vấn đề lý luận cơ bản, Tạp chí Xã hội học 1/2006.
5. Nguyễn Từ, Các giải pháp mở rộng thực hiện an sinh xã hội cho nông dân ở nước ta 6. Mai Ngọc Anh, Tách biệt kinh tế và chính sách an sinh xã hội cho nông dân nước ta hiện nay, Tạp chí Phát triển kinh tế số 186/2006

SOURCE: TẠP CHÍ BẢO HIỂM XÃ HỘI THÁNG 7 NĂM 2008

Chủ Nhật, 5 tháng 4, 2009

LUẬN LÝ CỦA LUẬT SƯ

LS. PHAN TRUNG HOÀI

Suốt cả buổi chiều tối ngày thứ Năm (26.3.2009), tôi liên tục nhận được những cú điện thoại gọi vào từ Mũi Né (Phan Thiết). Họ là những người nông dân miệt biển đầy nắng gió của dải đất miền Trung vừa từ Trại tạm giam Công an tỉnh Bình Thuận trở về với đời thường sau quyết định trả tự do của Hội đồng xét xử Toà án Nhân dân tỉnh Bình Thuận.

Trong giọng nói của họ, và cả những người vợ từng khóc hết nước mắt khi chồng bị bắt, vẫn còn thảng thốt, vì dường như họ vẫn chưa tin được đó là sự thật. Những ngày tháng trong tù cho họ thấy một thế giới khác và lúc này, họ hiểu hơn ai hết ranh giới của tù tội và giá trị của tự do.

Khi phiên toà đã diễn ra được hơn ba ngày, ngay cả khi đã trình bày quan điểm bào chữa trước toà, đêm về tôi vẫn thao thức, không sao ngủ được. Nhận trách nhiệm bào chữa cho 4 người nông dân bị quy buộc tội "lừa đảo", tôi mang theo cả gánh nặng trách nhiệm trước những người vợ và con cái họ Suốt những ngày diễn ra phiên toà, trong mỗi bữa trưa và tối về tôi không nuốt nổi hạt cơm khi nhìn thấy những khuôn mặt buồn bã, những lo lắng khôn nguôi vì người thân của họ đang ở trong tình trạng suy sụp vì sức khoẻ.

Có những khi, tôi không đủ tự tin để nói lại với thân nhân gia đình họ, bởi đằng sau những tiếng vỗ tay của người dân khi nghe luật sư tranh tụng tại phiên toà không đủ át đi một sự thật các bị cáo đang đối diện với bản án tù giam theo đề nghị của công tố viên. Còn có một sự lo lắng không nói lên thành lời, chính là tình trạng "thỉnh thị án", "án bỏ túi" mà dư luận râm ran bấy lâu nay. Hơn hai mươi năm va đập trong các vụ án hình sự, tôi thấu hiểu thứ vũ khí duy nhất làm nên sức mạnh của một luật sư đó chính là luận lý chưa chắc đã được hiển hiện nhiều trong thực tế.

Bây giờ ngẫm nghĩ lại, thấy đôi khi mình cũng cố chấp, hay bi kịch hoá đời sống tố tụng. Những người cầm cán cân công lý đã có một quyết định dũng cảm khi "xử nghiêm với quan, khoan hồng với dân", bởi suy cho cùng, cả một thiết chế nhà nước trong một phạm vi địa phương là chính quyền tỉnh Bình Thuận không thể là "người bị lừa" được!

Lý lẽ chính của tôi khi bênh vực cho các bị cáo trong vụ án là ở chỗ, khi người dân có sai phạm trong lấn chiếm đất hoang, bị xử lý thì người thực thi các quyết định liên quan đến việc thu hồi đất phải là chính quyền địa phương. Khi giải quyết việc đền bù thiệt hại do việc thu hồi đất phục vụ cho các dự án kinh doanh du lịch, Nhà nước có cả một hệ thống và các thiết chế xét duyệt, thẩm định, kiểm tra từ cán bộ địa chính, hội đồng xét duyệt cấp phường, cho đến hội đồng đền bù và rộng ra là các cơ quan tham mưu như Sở Tài chính, Sở Tài nguyên Môi trường, hội đồng thẩm định cấp tỉnh...

Huống hồ, khi quyết định giải quyết đền bù không thoả đáng, người dân còn đi khiếu nại và nhận được quyết định giải quyết khiếu nại thì làm sao quy kết họ cố tình lừa đảo Nhà nước? Nói cách khác, không thể biến cái lỗi của chính quyền trong việc không thực thi quyết định xử lý vi phạm hành chính và không kiểm tra, xét duyệt kỹ lưỡng hồ sơ đền bù của từng hộ dân, rồi quy buộc người dân lừa đảo mình được...

Ông Trần Văn Á - một trong bốn người nông dân mà tôi nhận trách nhiệm bào chữa - đã nói với tôi tại phiên toà: "Nếu tôi bị tiếp tục giam thêm một ngày nữa thì sẽ chết mất ". Không biết khi được về với tự do, họ có hiểu sự khoan hồng mà pháp luật dành cho họ có thể bắt đầu chính từ sự lắng nghe luận lý của luật sư? Dù sao, tôi vẫn tin điều ấy và những phán quyết như vậy cũng an ủi cho chúng tôi trên những chặng đường tố tụng còn nhiều khó khăn trước mắt....

SOURCE: BÁO LAO ĐỘNG CUỐI TUẦN

Trích dẫn từ:

http://www.laodong.com.vn/Home/Luan-ly-cua-luat-su/20094/132937.laodong

Thứ Năm, 2 tháng 4, 2009

LIÊN KẾT TRANG WEB NGOÀI

 

Diễn đàn sinh viên Đại học Luật Hà Nội

Lyris các bài hát nổi tiếng trên thế giới

NGUỒN VĂN BẢN PHÁP LUẬT

Những thông tin cần thiết về đất nước hoa anh đào

Nơi chia xẻ kinh nghiệm nghề nghiệp của các nhà giáo

Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam

SỔ TAY THẨM PHÁN TRỰC TUYẾN

THE ROMAN LAW LIBRARY

Thông tin Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí MInh

Thông tin về cải cách hành chính

Thông tin về tư pháp và Bộ tư pháp

THƯ VIỆN MẪU VĂN BẢN, HỢP ĐỒNG

Trang thông tin pháp luật nước ngoài

Trang thông tin đại học Luật Hà Nội

Trang tin tức

Tìm hiểu thủ tục tư pháp

Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp

Văn phòng Quốc hội

Đọc sách online

 

CIVILLAWINIFOR TỔNG HỢP (TRANG ĐANG QUÁ TRÌNH CHỈNH SỬA)

KHI CON NGƯỜI TRỞ THÀNH HÀNG HÓA

A.D

Theo công bố mới nhất từ Bộ Công An, VN hiện là địa bàn của các hoạt động đưa người di cư, xuất khẩu lao động trá hình cũng như nhiều đường dây mua bán phụ nữ, trẻ em, tế bào thai, nội tạng ra nước ngoài. Tính riêng 6 tháng đầu năm 2008 đã có 193 vụ xảy ra, với hơn 430 phụ nữ, trẻ em bị buôn bán. Như vậy, trung bình mỗi ngày, có ít nhất 2 phụ nữ, trẻ em bị những kẻ buôn người biến thành hàng hoá.

Gần 50% nạn nhân là người mù chữ

Từ năm 2005 đến nay, cả nước phát hiện gần 1.100 vụ buôn bán phụ nữ, trẻ em với 1.980 đối tượng tham gia, lừa bán 2.800 phụ nữ trẻ em. Tuy nhiên, đây mới chỉ là phần nổi của tảng băng chìm vì tình hình phụ nữ trẻ em bỏ nhà đi khỏi địa phương không rõ lý do, nghi bị buôn bán ngày càng gia tăng.
Theo Cục Phòng chống tệ nạn xã hội (Bộ LĐTBXH), có gần 50% phụ nữ, trẻ em bị bán qua biên giới không biết chữ, gần 40% mới học xong bậc tiểu học và 88% nạn nhân đều thuộc diện gia đình khó khăn.
Buôn bán phụ nữ, trẻ em diễn ra ở bốn tuyến rõ rệt: hai tuyến đầu diễn ra ở khu vực biên giới VN - Trung Quốc (Quảng Ninh, Lạng Sơn, Lai Châu, Lào Cai, Cao Bằng... chiếm 70% tổng số vụ trên toàn quốc) và biên giới VN - Campuchia (An Giang, Tây Ninh, Đồng Tháp, Hậu Giang...); tuyến thứ ba buôn bán quốc tế tới các địa điểm như Macau, Đài Loan, Hồng Kông, Hàn Quốc và tuyến cuối cùng buôn bán trong đất liền, xuyên qua Campuchia và Lào đến Thái Lan và Malaysia.
Hoạt động buôn bán phụ nữ, trẻ em không chỉ diễn ra bằng đường bộ. Các tổ chức tội phạm trong nước và quốc tế còn hợp pháp hoá hoạt động qua việc tổ chức cho nạn nhân đi du lịch, hợp tác lao động... bằng đường hàng không và đường biển, sau đó đưa họ sang Hàn Quốc, Australia, Mỹ, Malaysia, Đài Loan... để ép buộc bán dâm.

Nam giới cũng là... hàng hoá

Cùng với sự bùng nổ rầm rộ về số lượng các vụ buôn người thì tính phức tạp của nó cũng ngày một tăng lên. Không chỉ phụ nữ bị buôn bán để làm nô lệ tình dục hay làm vợ, ngay cả nam giới cũng bị lừa bán để khai thác sức lao động và bán nội tạng, như vụ 6 nam thanh niên bị lừa bán sang Trung Quốc để bóc lột lao động mới đây tại Lào Cai và Hải Dương.
Theo Tổ chức Chương trình quốc tế của Liên Hợp Quốc về nạn buôn người ở khu vực hạ Mê Kông (UNIAP), buôn bán người là loại tội phạm diễn ra rất tinh vi và phức tạp. Đây là một vấn nạn lớn nhưng cũng là một vấn nạn được che giấu, vì thế khó nói được con số chính xác (các vụ án và bị can). Hình thức buôn bán người ở mỗi nơi một khác. Ở chỗ này là buôn bán phụ nữ và trẻ em để làm mại dâm, ở chỗ kia là để làm lao công trong các nhà máy, trong lĩnh vực nông nghiệp, chỗ khác lại bắt buộc trẻ em đi ăn xin hoặc làm con mồi cho dịch vụ kết hôn.

Bán từ người quen đến... người thân

Theo một nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Phát triển Xã hội (ISDS),  những thủ phạm buôn người có thể chính là người thân, bạn bè hoặc người cùng làng xã của các nạn nhân. Chính vì vậy, chúng có thể dễ dàng chiếm được lòng tin của các nạn nhân khi lừa phỉnh đưa họ đi thành phố, hoặc sang biên giới kiếm việc làm, nhưng thực chất là bán họ làm hàng hoá.
Một nạn nhân sau khi được trở về nhà cho biết đã đồng ý theo một người phụ nữ sang Trung Quốc tìm việc, vì "cô ta biết cả gia đình em". "Cô ấy đã có chồng, có con và chơi với cả các anh trai của em. Em không thể tưởng tượng được rằng cô ta dám bán em, trong lúc biết rõ rằng các anh của em rất ghê gớm" - cô gái mới 16 tuổi cho hay.
Mức giá mà những kẻ buôn người nhận được thường từ 5-7 triệu đồng cho một phụ nữ. Tuy nhiên, mức giá đó có thể cao hơn nhiều, nếu đó là những cô gái xinh xắn. Theo nghiên cứu của ILO, đàn ông Trung Quốc thường trả từ 7.000-8.000 Nhân dân tệ cho một cô dâu Việt "ưa nhìn". Nếu cô gái không xinh, giá sẽ giảm xuống còn 3.000-4.000 ND tệ.
Ông Paul Buckley - quan chức UNIAP - nhấn mạnh tình trạng buôn bán người trên thế giới và trong khu vực cũng đang là vấn nạn phức tạp và nhức nhối của các nước. Lợi nhuận của việc buôn bán người mỗi năm lên đến 31 tỉ USD. Bọn tội phạm này còn liên quan chặt chẽ đến tội phạm buôn bán vũ khí và ma tuý.
Ông Paul cho rằng, để phòng chống buôn bán người đạt được hiệu quả cao, Chính phủ các nước sở tại phải hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, nâng cao đời sống cho người dân, đặc biệt là những phụ nữ, trẻ em gái ở vùng nông thôn nghèo cần phải được trang bị kiến thức pháp luật, xã hội, và phải có nghề nghiệp ổn định.

Vương quốc Anh lo ngại nạn buôn người dịp Olympic

Vấn nạn buôn người kéo theo nó là nô lệ tình dục đang làm đau đầu các nhà chức trách Anh. Bộ Nội vụ nước này đặc biệt lo ngại Olympic London 2012 sẽ là thỏi nam châm đối với những kẻ buôn người bán cho các nhà thổ và lao động bất hợp pháp.
Chắc chắn có rất nhiều người tìm kiếm công ăn việc làm khi Olympic diễn ra ở London. Và nhân dịp này, những kẻ buôn người tội phạm sẽ cố gắng khai thác thêm nguồn hàng.
Bộ Nội vụ Anh lên kế hoạch chống các băng nhóm bắt cóc phụ nữ làm nô lệ tình dục và buộc đàn ông làm lao động cưỡng bức. Bộ Nội vụ Anh còn yêu cầu các nhóm chuyên phát hiện bọn buôn người canh gác tại các sân bay và bến cảng.
Ngoài ra Anh còn lập một đường dây nóng tới cảnh sát, nhân viên nhập cư và nhân viên xã hội để nhận diện nạn nhân nhanh hơn. Theo ước tính của Bộ Nội vụ Anh, riêng năm 2003, 4.000 nạn nhân buôn người làm việc trong các nhà chứa Anh.

Ấn Độ: Cảnh sát cũng dính líu

Các nhà lãnh đạo nữ ở bang Assam, phía Tây Bắc Ấn Độ, cho biết nạn buôn bán phụ nữ ở bang này đã đạt tới "tỉ lệ nguy hiểm" trong những thập niên qua. "Ngày càng có nhiều phụ nữ bị bán để phục vụ cho ngành công nghiệp tình dục này. Họ bị lừa rằng sẽ có một công việc hái ra tiền hoặc là nạn nhân của những cuộc hôn nhân giả tạo", bà Sumitra Hazarika Gogoi - Uỷ viên cao cấp của Hội Phụ nữ bang Assam - cho biết.
Bà Gogoi còn tiết lộ, rất nhiều các quan chức cao cấp và cảnh sát trong bang cũng có dính líu tới những vụ buôn bán phụ nữ. Từ năm 2000 đến 2007, 413 người đã bị bắt trong 150 vụ buôn bán phụ nữ, trẻ em núp dưới bóng một tổ chức hoạt động chống lại nạn buôn người.
G Bhuiyan - trưởng phòng điều tra tội phạm bang Assam - cho biết: "Các tổ chức buôn người thường mở những trung tâm môi giới việc làm. Các cô gái nhẹ dạ sẽ nhận được lời hứa có công việc với thu nhập cao. Nhưng thực chất họ bị bán với giá từ 10.000 đến 30.000 rupi (tương đương từ 233USD đến 700USD) để làm người mẫu hoặc gái bar, sau đó, các cô bị đẩy vào hoạt động mại dâm" (Theo BBC)

"Công việc duy nhất mà chúng dành cho tôi là trong nhà thổ"

Tomissi là một người Nigeria nhút nhát, thông minh, 20 tuổi nhưng thực ra trông chỉ như mới 18. Cô đã bị một người bạn của mẹ cô lừa tới Turin, miền bắc Italia, vào năm ngoái với lời hứa để làm công việc trông trẻ. Nhưng kết cục, cô bị bán cho các chủ chứa làm nô lệ tình dục.
Nigeria là một trong những quốc gia là điểm nóng về nạn buôn người. Có rất nhiều cô gái đã bị dụ dỗ sang Italia, với những ước mơ về một công việc tốt để đổi đời. "Người ta nói có công ăn việc làm ở Turin, nhưng công việc duy nhất là trong nhà thổ. Họ chỉ lừa gạt những cô gái nhẹ dạ như tôi!" - Tomissi nói.
Theo ước tính, có chừng 20.000 gái mại dâm người Nigeria tại Italia. Hầu hết đều đến từ tiểu bang Edo ở miền nam Nigeria. "Các tú bà thường đánh đập tôi, nếu tôi không tiếp khách" - Tomissi nhớ lại. Trong một lần may mắn, Tomissi đã trốn thoát và may mắn gặp được một tổ chức thiện nguyện, những người đã giúp đỡ cô ổn định lại cuộc sống.

SOURCE: BÁO LAO ĐỘNG

Trích dẫn từ: http://www.baothuongmai.com.vn/Details/phap-luat/khi-con-nguoi-tro-thanh-hang-hoa/32/0/8876.star

Chủ Nhật, 22 tháng 3, 2009

LỆNH CHUẨN VĂN HÓA

NHÀ SỬ HỌC. DƯƠNG TRUNG QUỐC

Mỗi con người ít nhiều mang trong mình một giá trị ảo bởi đều sống trong không gian và thời gian mà khái niệm của chuẩn mực đang xáo trộn để tiếp cận chân lý. Để tiến tới một chuẩn mực hoàn hảo thì hãy chấp nhận thay đổi từng bước.

Lệch chuẩn - hệ quả khó tránh khi chuyển đổi cơ chế

Xã hội nào cũng có hệ thống giá trị riêng. Nhìn lại Việt Nam hơn một thế kỷ qua, ai cũng thấy sự thay đổi ghê gớm đến thế nào. Một đất nước có truyền thống dân tộc dựa trên chế độ tiểu nông, lại nằm cạnh quốc gia sở hữu nền văn hóa lớn như Trung Hoa, những ứng xử đảm bảo cho một dân tộc được tồn tại và không rơi vào số phận như nhiều tộc người khác trên dòng Dương Tử đã tạo nên tính cách người Việt truyền thống. Bên cạnh sự mạnh mẽ của dân tộc Việt Nam thể hiện qua nhiều cuộc chống ngoại xâm, người Việt cũng bộc lộ những hạn chế khi có điều kiện hội nhập với nền văn minh thế giới.

Trong hơn 30 năm (chống Pháp và chống Mỹ), nhiều tư tưởng tiến bộ đã phát huy sức mạnh của nó như đoàn kết dân tộc, phát hiện nhiều gương mặt tiên phong và mang tới một chỗ dựa kinh tế vững chắc. Nhưng khi bắt tay vào xây dựng chế độ mới, nó đã bộc lộ sự bất cập. Minh chứng rõ nhất là hệ thống xã hội coi trọng tầng lớp bần cố nông, hạ thấp một số tầng lớp khác trong đó có tầng lớp tri thức, tư sản nên đã hạn chế sự phát triển. Hay một trong những yếu tố được xã hội coi trọng là trí tuệ, mà đại diện cho trí tuệ là bằng cấp, học hàm, học vị. Nhưng vì đặt tiêu chuẩn bằng cấp ở mức tuyệt đối, xã hội đã nảy sinh việc mua quan bán tước, trở nên khá phổ biến.

Hệ thống giá trị có phần bị đảo lộn, không tạo nên chuẩn mực lâu dài mà chỉ mang tính nhất thời, nguyên căn bởi nó không có cội rễ truyền thống. Có một số giá trị giả. Sự thiếu chuẩn mực đã dẫn tới sự tuỳ tiện trong vận dụng. Chuẩn mực không có nền tảng trở thành giá trị ảo, tạo nên thứ đạo đức giả. Có những điều được coi là tiến bộ xã hội, nhưng nó không ăn nhập với chuẩn mực (mà thực tế sự chuẩn mực này cũng chưa rõ ràng) nên vô tình trở thành lạc lõng. Sự lệch chuẩn không chứng tỏ xã hội đang xấu đi, mà nó là hệ quả của sự chuyển đổi xã hội. Khi sự chuyển đổi liên tục diễn ra, hệ thống chuẩn mực tự thân cũng thay đổi.

Hãy công bằng hơn khi xét đoán chuẩn mực

Nhìn trong thời kỳ chuyển biến đó, sự lệch chuẩn là điều khó tránh khỏi. Chỉ khi xã hội hình thành nên nền kinh tế ổn định và phát triển, sự vận hành mới khiến những giá trị ảo mất dần. Cộng với những giá trị dân tộc, chuẩn mực sẽ dần thẳng đường tiến.

Đặc thù thời đại là sự phát triển quá mạnh mẽ, nhất là sự đột biến của cách mạng thông tin, tạo nên sự nhũng nhiễu, nhân danh tự do để hạ thấp người này, bôi đen người khác. Sự “hỗn loạn” ấy nếu đi theo đúng quy luật sẽ giúp con người tiến tới sự văn minh và nền tảng dân chủ. Nhưng đồng thời, nó cũng chứa đựng những mặt trái.

Nhắc một chút tới sự kiện FPT tai tiếng. Có thể Ban tổ chức chỉ coi sự kiện mang tính nội bộ, nhưng những người chứng kiến lại đánh giá nó dưới con mắt của số đông. Hay sự cố Hoa hậu Việt Nam 2008, bản thân nó có những chuẩn mực riêng, nhưng khi đặt chung với yếu tố thị trường, cộng với vài toan tính đằng sau, chuẩn mực ấy bỗng bị thay đổi, kéo theo hệ lụy lớn. Hay như chuyện video sex, đó là chuyện riêng, nhưng khi bị phát tán thì lại trở thành chuyện chẳng hay gì. Tất cả điều này xảy ra bởi chúng ta còn thiếu những chuẩn mực cụ thể, mỗi người nhìn sự việc bằng những đánh giá khác nhau, tạo ra những ảnh hưởng xã hội khác nhau.

Rất khó để có một chuẩn mực hoàn hảo. Điều chúng ta hướng tới chính là xây dựng chuẩn mực ấy bằng nhiều cách. Có thể có sự can thiệp của pháp luật, tuy nhiên đó chỉ là một nhân tố. Quan trọng là nhận thức, dân trí và trình độ của con người. Tất nhiên, sống trong một xã hội mà các chuẩn mực đang “bị vỡ” thì kỳ vọng này có vẻ cao quá.

Các cụ nhà ta xưa sống trong chuẩn mực cụ thể: công dung ngôn hạnh, tu thân - tề gia - trị quốc - bình thiên hạ… Có thể một số người chưa thực hiện được chuẩn mực này, nhưng ít nhất cũng đã có một chuẩn mực nhất định để cùng soi vào. Có người tuân theo chuẩn, có người không, nhưng sự cần thiết hình thành hệ thống chuẩn mực chung không thể không có. Trong xã hội phát triển một ngày bằng 20 năm, sự điều chỉnh càng cần thiết hơn nếu muốn tạo một xã hội tiến bộ. Nếu phong trào giải phóng tình dục ở châu Âu những năm 70 (thế kỷ XX) coi sex là “chuyện thường ngày ở huyện”, thì sau đó, họ dần lấy lại những giá trị thực sự của gia đình. Họ bước qua giai đoạn trào lưu để đi tới cái đích thực. Trào lưu của họ mang tính quy luật rõ ràng, còn tại Việt Nam, những gì đang diễn ra là hệ quả tất yếu do khi chuyển đổi từ cơ chế bao cấp sang kinh tế thị trường định hướng XHCN. Thực tế này khiến quá trình xây dựng hành lang chuẩn mực còn khó khăn, mất thời gian lâu hơn.

Đừng quá khắt khe khi đánh giá một sự kiện. Tiếng nói của dư luận không thể thiếu, nhưng khi đánh giá, hãy nhìn nó bằng cái nhìn công bằng. Những đánh giá khách quan sẽ góp phần tạo dựng chuẩn mực, để mọi người từ đó soi chiếu, nhìn nhận và tự điều chỉnh hành vi trước xã hội. Còn ngay lúc này, chúng ta hãy sống và hướng tới điều tốt đẹp. Xã hội nào cũng có sự lệch chuẩn, nhưng những giá trị ảo sẽ tự đào thải khi nó không còn dung hòa được với sự phát triển xã hội.

SOURCE: BÁO ĐẤT VIỆT

Trích dẫn từ:

 http://chungta.com/Desktop.aspx/ChungTa-SuyNgam/Van-Hoa/Lech_chuan_van_hoa/

Thứ Bảy, 21 tháng 3, 2009

CHU TRÌNH PHÁT TRIỂN GIÁ TRỊ: MỘT CÔNG CỤ ĐẢM BẢO CHẤT LƯỢNG BÊN TRONG CHO TRƯỜNG ĐẠI HỌC

TS. LÊ VĂN HẢO

Đảm bảo chất lượng bên trong là một yêu cầu không thể thiếu đối với các trường đại học trong quá trình tham gia kiểm định chất lượng. Bài viết này nhằm góp phần cung cấp cơ sở lý luận về đảm bảo chất lượng bên trong và giới thiệu lý thuyết Chu trình phát triển giá trị, một công cụ quản lý kinh tế được vận dụng vào giáo dục đại học nhằm hỗ trợ công tác đảm bảo chất lượng bên trong ở các trường.

I. CHẤT LƯỢNG VÀ ĐẢM BẢO CHẤT LƯỢNG BÊN TRONG

I.1 Khái niệm ‘chất lượng’ đối với ‘khách hàng’ của giáo dục đại học

Chất lượng là một khái niệm có tính phổ biến trong nhiều lĩnh vực khác nhau, nhưng thực ra nó không được định nghĩa một cách thống nhất, ngay cả trong lĩnh vực giáo dục bởi lẽ mỗi bên có liên quan (stakeholder) quan niệm ‘chất lượng’ giáo dục theo những chuẩn mực riêng của họ.

Trong lĩnh vực giáo dục đại học (GDĐH), khi nói đến chất lượng, chúng ta thường quan tâm đến phầngiáo dục, tức hay bàn đến chất lượng đào tạo (training quality). Chất lượng đào tạo thường được xác định qua các tiêu chí liên quan đến kiến thức, kỹ năng, thái độ sinh viên (SV) có được sau những khóa học hoặc sau khi ra trường. Tuy nhiên, ở một bình diện rộng hơn và nếu dựa trên quan niệm của ‘khách hàng’ (client/consumer), chất lượng GDĐH (higher education quality) thường được xác định là mức độ hài lòng của họ đối với các loại ‘sản phẩm’ mà GDĐH tạo ra (phần sau sẽ phân tích về ‘khách hàng’ và ‘sản phẩm’ của GDĐH).

Đối với GDĐH, việc đáp ứng nhu cầu, thị hiếu của ‘khách hàng’ khó có thể diễn ra một cách triệt để, bởi lẻ sản phẩm của GDĐH cần thời gian ‘sản xuất’ khá lâu (chẳng hạn 4-6 năm cho một khóa đào tạo bậc đại học), trong khi nhu cầu và thị hiếu thường thay đổi nhanh chóng hơn. Vì vậy, hoạt động ‘sản xuất’ của GDĐH cần có sự định hướng mang tính chiến lược hơn là sự thõa mãn những nhu cầu và thị hiếu trước mắt.

I.2 Đảm bảo chất lượng bên trong

Có hai khái niệm song hành về đảm bảo chất lượng: đảm bảo chất lượng bên trong (internal quality assurance) và đảm bảo chất lượng từ bên ngoài (external quality assurance). Trong khi đảm bảo chất lượng bên trong là trách nhiệm của mỗi tổ chức thì đảm bảo chất lượng từ bên ngoài được tiến hành bởi các cơ quan chịu trách nhiệm về kiểm định chất lượng.

Đối với một cơ sở GDĐH, “đảm bảo chất lượng bên trong bao gồm bộ máy, các nguồn lực và các nguồn thông tin nhằm thiết lập, duy trì, và phát triển chất lượng các hoạt động dạy, học, nghiên cứu khoa học và phục vụ cộng đồng” (AUN, 2007, tr.22). Đảm bảo chất lượng bên trong nếu được phối hợp có hiệu quả với đảm bảo chất lượng từ bên ngoài sẽ tạo ra một cơ chế bền vững cho việc duy trì và phát triển chất lượng của nhà trường.

Năm 2005, Hiệp hội Đảm bảo chất lượng giáo dục đại học châu Âu (European Association for Quality Assurance in Higher Education - ENQA) đã đề ra bảy tiêu chí và nội dung hướng dẫn cho hoạt động đảm bảo chất lượng bên trong ở các trường ĐH như sau:

- Chính sách và qui trình đảm bảo chất lượng: Nhà trường cần có chiến lược, chính sách và các qui trình hoạt động nhằm không ngừng nâng cao chất lượng toàn diện; xây dựng và phát triển nếp văn hóa chất lượng trong toàn bộ các hoạt động.

- Xét duyệt và định kỳ rà soát các chương trình đào tạo và việc cấp văn bằng, chứng chỉ: Nhà trường cần có cơ chế, qui trình để duyệt xét và định kỳ rà soát các chương trình đào tạo và văn bằng, chứng chỉ được cấp.

- Đánh giá người học: Người học được đánh giá dựa trên các chuẩn mực, qui định và qui trình được công khai và có tính nhất quán.

- Đảm bảo chất lượng đối với đội ngũ giảng dạy: Đội ngũ giảng dạy được đảm bảo về chất lượng, được tham gia ý kiến vào các báo cáo đánh giá chất lượng của nhà trường.

- Nguồn tài nguyên hỗ trợ học tập: Người học được tiếp cận các nguồn tài nguyên học tập tương ứng với chương trình đào tạo.

- Hệ thống thông tin: Nhà trường có đủ những thông tin cần thiết cho công tác quản lý các chương trình đào tạo và các hoạt động khác trong nhà trường.

- Công khai thông tin: Nhà trường định kỳ cập nhật và công khai thông tin về các chương trình đào tạo và văn bằng, chứng chỉ được cấp.

(Xem chi tiết nội dung hướng dẫn tại: http://www.enqa.eu/files/ESG_v03.pdf)

Hội thảo thường niên năm 2008 tại Chiba, Nhật Bản của Mạng lưới Đảm bảo chất lượng châu Á – Thái Bình Dương (Asia-Pacific Quality Network) cũng đã đề ra bảy nguyên tắc (được gọi là Chiba Principles) của đảm bảo chất lượng bên trong mà mỗi cơ sở giáo dục ĐH cần áp dụng như sau:

- Xây dựng và phát triển nếp văn hóa đảm bảo chất lượng trong toàn trường

- Đảm bảo chất lượng được thể hiện trong những mục tiêu hoạt động của nhà trường

- Xây dựng hệ thống đảm bảo chất lượng bên trong cùng các chính sách và qui trình hoạt động

- Tổ chức xét duyệt và định kỳ rà soát các chương trình đào tạo và việc cấp văn bằng, chứng chỉ

- Xây dựng và triển khai chiến lược phát triển chất lượng toàn diện

- Chất lượng của đội ngũ giảng dạy và nghiên cứu được duy trì và phát triển

- Công khai các thông tin về nhà trường, về các chương trình đào tạo, văn bằng chứng chỉ được cấp và những thành tựu của nhà trường

(Trích dịch từ: http://www.brisbanecommunique.deewr.gov.au/NR/rdonlyres/F7C48BD9-DA8D-4CFD-8C6A-914E001E2E39/23073/FinalQAPrinciples.pdf)

Một trong những điểm tương đồng đáng lưu ý của hai hướng dẫn trên đây đối với công tác đảm bảo chất lượng bên trong của mỗi nhà trường là việc xây dựng và triển khai có hiệu quả chiến lược phát triển chất lượng toàn diện. Để làm được điều này, rất cần có một công cụ tư duy quản lý mang tính tổng thể. Chu trình phát triển giá trị được trình bày ở phần sau có thể được xem là một công cụ tư duy mạnh, giúp ích rất tốt cho việc đánh giá thực trạng nhà trường để từ đó xây dựng chiến lược phát triển chất lượng các nguồn lực, các sản phẩm của GDĐH, và các hoạt động cần phải có ở một trường ĐH.

II. CHU TRÌNH PHÁT TRIỂN GIÁ TRỊ – MỘT CÁCH TIẾP CẬN QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG TOÀN DIỆN

II.1 Giới thiệu Chu trình phát triển giá trị

Chu trình phát triển giá trị (Value-creation Cycle), biểu diễn trên (Hình1), được xây dựng vào cuối thế kỷ 20 theo một dự án tài trợ bởi Hội đồng Nghiên cứu khoa học Na Uy. Chu trình đã được chính thức giới thiệu lần đầu tại Việt Nam thông qua “Hội thảo nâng cao năng lực quản lý” được tổ chức tại Trường ĐH Thuỷ sản (nay là Trường ĐH Nha Trang) vào năm 2004 (Olsen, 2004).


image
Hình 1

: CHU TRÌNH PHÁT TRIỂN GIÁ TRỊ (VALUE-CREATION CYCLE)

(NSX: Nhà sản xuất; SP: Sản phẩm; KH: Khách hàng)

Đây là một chu trình nhằm cung cấp một cách nhìn hệ thống về mối liên hệ giữa “nhà sản xuất” (organisation), “sản phẩm” (product), và “khách hàng” (target group); đồng thời nhấn mạnh bốn yếu tố nguồn lực giúp cho mối liên hệ nói trên không ngừng được phát triển: nguồn nhân lực (human resource),nguồn lực tài chính (finance resource), nguồn lực cấu trúc (structural resource), và nguồn lực hợp tác (co-working resource). Chu trình này có thể được áp dụng cho tất cả các tổ chức có tạo ra ‘sản phẩm’ nhằm đáp ứng yêu cầu của ‘khách hàng’.

Theo chu trình trên, trong quá trình NSX sản xuất ra SP (production), SP đó cần phải được quảng báđến KH (marketing). Sau khi KH tiêu thụ SP, NSX cần phải chủ động lấy thông tin phản hồi từ KH về chất lượng SP. Dựa trên thông tin này, NSX điều chỉnh hoặc phát triển SP của mình (market orientation). Cứ như vậy, chất lượng của SP sẽ không ngừng được nâng cao và ngày càng đáp ứng yêu cầu của KH. Các yếu tố nguồn lực của chu trình có thể được mô tả tóm tắt như sau:

NGUỒN LỰC

MÔ TẢ

Tài chính Các nguồn vốn / tài chính mà NSX có thể tập hợp được
Nhân lực Đội ngũ CBVC của NSX cùng những giá trị văn hóa, tinh thần (sự đoàn kết, tin tưởng, quí trọng,..), sự hợp tác bên trong giữa các cá nhân, đơn vị
Cấu trúc Bao gồm hệ thống cơ sở vật chất; cơ cấu bộ máy; các kế hoạch chiến lược; các quiđịnh, qui tắc, tiêu chí… cần phải có để vận hành hoạt động SX; các giá trị vật chất (bằng sáng chế, hệ thống bài giảng, cơ sở dữ liệu, mạng lưới thông tin...) được xây dựng nhằm giúp NSX hoạt động ổn định
Hợp tác Bao gồm các mối liên hệ hợp tác với bên ngoài (quan hệ với các đối tác có tác động đến hoạt động SX)

Một số đặc trưng đáng lưu ý của các khái niệm nguồn lực trên đây:

- Nguồn nhân lực không chỉ là đội ngũ CBVC của NSX mà còn là những giá trị văn hóa, tinh thần, sự hợp tác bên trong giữa các cá nhân, đơn vị. Một NSX với đội ngũ CBVC đoàn kết và coi trọng sự hợp tác sẽ có nhiều khả năng phát triển bền vững.

- Cơ cấu bộ máy, kế hoạch chiến lược, các qui định, qui tắc, tiêu chí… của một NSX cũng được xem như các dạng nguồn lực. Một NSX có kế hoạch chiến lược tốt cùng với một cơ cấu bộ máy hợp lý sẽ có nhiều cơ hội để thành công.

- Hợp tác được xem như một nguồn lực, nhất là trong bối cảnh kinh tế - xã hội hiện nay. Một NSX không có nhiều tiềm năng về tài chính nhưng nếu có nhiều mối quan hệ hợp tác tốt sẽ có thể phát triển nhanh chóng.

II.2 Áp dụng vào quản lý đại học

· Sản phẩm và khách hàng của giáo dục đại học

Nếu áp dụng Chu trình phát triển giá trị vào GDĐH thì có thể coi trường ĐH là NSX. So với hoạt động của các doanh nghiệp nói chung (với hàng hóa là các sản phẩm, dịch vụ cụ thể) thì trường ĐH có các loại sản phẩm mang tính đặc thù. Tương ứng với mỗi loại sản phẩm của trường ĐH, đối tượng khách hàng cũng thay đổi theo:

SẢN PHẨM CỦA TRƯỜNG ĐH

KHÁCH HÀNG

SV tốt nghiệp Xã hội (công ty, xí nghiệp, tổ chức…)
Các khóa học Người học
Xã hội

Khoa học - công nghệ (bao gồm các dịch vụ cộng đồng)

Giảng viên
nhà khoa học

Khái niệm NSX trong Chu trình còn có thể áp dụng cho các đơn vị, bộ phận trong trường ĐH ví dụ như Khoa, Thư viện, Viện/Trung tâm Khoa học công nghệ… Khi đó, tùy theo chức năng nhiệm vụ của mỗi đơn vị, mà sản phẩm và khách hàng tương ứng cũng sẽ khác nhau (ví dụ như đối với Thư viện, sản phẩm chính là nguồn thông tin và khách hàng chính là SV và CBVC của Trường…)

· Hoạt động quản lý ĐH tương ứng với sản phẩm (chỉ nêu một số hoạt động tiêu biểu)

Với sản phẩm là SV tốt nghiệp:

MỐI QUAN HỆ

HOẠT ĐỘNG

Sản xuất
  • Tổ chức, sử dụng các nguồn lực phục vụ đào tạo
  • Quản lý chất lượng đầu vào (tuyển sinh), quá trình (công tác đào tạo), và đầu ra (chất lượng SV tốt nghiệp)
  • Tổ chức các hoạt động đảm bảo chất lượng đào tạo (xây dựng các qui định, tổ chức giám sát, kiểm tra, đánh giá các hoạt động có liên quan đến chất lượng đào tạo)
  • Quảng bá Giới thiệu số lượng, chất lượng SV tốt nghiệp đến các tổ chức, doanh nghiệp…
    Phản hồi Tổ chức thu thập thông tin về SV tốt nghiệp, về yêu cầu nguồn nhân lực của các tổ chức, doanh nghiệp…

    Với sản phẩm là các khóa học:

    MỐI QUAN HỆ

    HOẠT ĐỘNG

    Sản xuất
  • Tổ chức các nguồn lực phục vụ xây dựng các khóa học
  • Quản lý các khóa học phù hợp với nhiều đối tượng, nhiều loại yêu cầu
  • Xây dựng các qui định, tổ chức giám sát, kiểm tra, đánh giá các chương trình, tài liệu của các khóa học
  • Quảng bá Giới thiệu các khóa học đến các đối tượng người học, các tổ chức, doanh nghiệp…
    Phản hồi Tổ chức thu thập thông tin về các khóa học từ các đối tượng người học, các tổ chức, doanh nghiệp…

    Với sản phẩm là khoa học-công nghệ:

    MỐI QUAN HỆ

    HOẠT ĐỘNG

    Sản xuất
  • Tổ chức các nguồn lực phục vụ NCKH
  • Tổ chức triển khai hoạt động NCKH
  • Xây dựng các qui định, tổ chức giám sát, kiểm tra, đánh giá các đề tài NCKH
  • Quảng bá
    Giới thiệu các sản phẩm, dịch vụ NCKH đến giảng viên, nhà khoa học, các tổ chức, doanh nghiệp liên quan
    Phản hồi Tổ chức thu thập thông tin phản hồi về các sản phẩm NCKH từ các đối tượng có liên quan

    II.3 Đánh giá thực trạng quản lý đại học và xây dựng giải pháp đảm bảo chất lượng

    Sau đây là một số phân tích SWOT mang tính ví dụ về thực trạng và giải pháp đối với hệ thống ĐH ViệtNam dựa trên yêu cầu về nguồn lực, các mối quan hệ và sản phẩm theo Chu trình phát triển giá trị. Những phân tích này có thể được tham khảo để đánh giá thực trạng về hoạt động quản lý của một cơ sở giáo dục ĐH, từ đó xác định những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng toàn diện của nhà trường. Một bản phân tích đầy đủ cần bao gồm tất cả các nguồn lực (tài chính, nhân lực, cấu trúc, hợp tác) và các mối quan hệ (sản xuất, quảng bá, phản hồi) đối với từng loại sản phẩm (SV tốt nghiệp, khóa học, khoa học – công nghệ).

    NGUỒN LỰC CẤU TRÚC

    Điểm mạnh:

    Đa số các trường ĐH đều đã xây dựng tương đối ổn định cơ cấu bộ máy và hệ thống chức năng nhiệm vụ

    Điểm yếu:

    • Nhiều trường chưa thật sự quan tâm đến việc xây dựng các kế hoạch chiến lược và kế hoạch thực thi
    • Hệ thống dữ liệu về giảng dạy, NCKH ở các trường nhìn chung chưa đáp ứng được yêu cầu khai thác, chia sẽ

    Cơ hội:

    Cơ chế quản lý GDĐH ở Việt Nam ngày càng giao nhiều quyền tự chủ hơn cho các trường ĐH

    Thách thức:

    Sự phát triển của xã hội và yêu cầu hội nhập trong GD đòi hỏi nhà trường cần có bộ máy quản lý không ngừng được hoàn thiện

    Giải pháp:

    • Tăng cường tính chuyên nghiệp trong công tác xây dựng kế hoạch chiến lược
    • Liên kết với các trường, viện để xây dựng nguồn tư liệu phục vụ đào tạo và NCKH

    SẢN XUẤT
    (Đối với sản phẩm là các khóa học)

    Điểm mạnh:

    Các trường ĐH có thâm niên đã xây dựng tương đối ổn định các chương trình đào tạo cho các bậc học

      Điểm yếu:

    • Tính liên thông ngang và dọc đối với các khóa học trong cùng một trường và giữa các trường còn hạn chế
    • Chưa có nhiều chương trình bồi dưỡng ngắn hạn đáp ứng nhu cầu của xã hội

    Cơ hội:

    Nhu cầu của xã hội về đào tạo, bồi dưỡng là rất lớn

    Thách thức:

    Sự cạnh tranh trong đào tạo với các cơ sở đào tạo có yếu tố nước ngoài ngày càng lớn

    Giải pháp:

    • Tổ chức xây dựng các chương trình bồi dưỡng ngắn hạn dựa trên kết quả thăm dò định kỳ đối với nhu cầu xã hội
    • Liên kết với các trường, viện để có sự hợp tác về liên thông giữa các chương trình đào tạo

    QUẢNG BÁ
    (Đối với sản phẩm là SV tốt nghiệp)

    Điểm mạnh:

    Hoạt động giới thiệu việc làm ở các trường ĐH ngày càng được quan tâm

    Điểm yếu:

    Nhiều trường chưa chủ động giới thiệu cơ cấu và chất lượng SV tốt nghiệp hàng năm đến các cơ quan, doanh nghiệp

    Cơ hội:

    Nhiều trang web về việc làm sẳn sàng kết hợp với các trường ĐH để giới thiệu SV tốt nghiệp

    Thách thức:

    Quảng bá SV tốt nghiệp cũng là một lĩnh vực mang tính cạnh tranh ngày càng cao giữa các trường ĐH

    Giải pháp:

    • Tăng cường kinh phí và tính chuyên nghiệp cho hoạt động quảng bá SV tốt nghiệp
    • Định kỳ gửi thông tin SV tốt nghiệp đến các cơ quan, doanh nghiệp thông qua nhiều hình thức khác nhau

    Để tạo thuận lợi cho công tác điều hành, hệ thống các giải pháp nhằm duy trì và nâng cao chất lượng các sản phẩm của nhà trường (sau khi được phân tích và xây dựng như trên) có thể được liệt kê theo bảng sau đây:

    Sản xuất

    Quảng bá

    Phản hồi

    SV tốt nghiệp

    (các giải pháp)

    (các giải pháp)

    (các giải pháp)

    Các khóa học

    (các giải pháp)

    (các giải pháp)

    (các giải pháp)

    KH-CN

    (các giải pháp)

    (các giải pháp)

    (các giải pháp)

    Tài liệu tham khảo
    AUN (2007). Asian University Network Quality–Assurance: Manual for the implementation of the Guidelines. Tanapress.

    Olsen, B. E. (2004). “The Value Creation Cycle”: Introducing a Model for Strategic Management in Knowledge-based Organizations. Tham luận tại Hội thảo Nâng cao năng lực quản lý năm 2004. Trường Đại học Thủy sản.

    (Bài viết này được thực hiện với sự tài trợ của Quỹ Giáo dục Việt Nam - VEF. Những ý kiến nêu ra trong bài viết chỉ phản ảnh quan điểm của tác giả, không nhất thiết là của VEF. Địa chỉ email trao đổi với tác giả: haolv@cb.ntu.edu.vn).

    SOURCE: TẠP CHÍ TIA SÁNG

    Trích dẫn từ: http://tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=65&News=2746&CategoryID=6

    Bài đăng phổ biến