Hiển thị các bài đăng có nhãn CHÍNH SÁCH VÀ PHÁP LUẬT VỀ GIỚI. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn CHÍNH SÁCH VÀ PHÁP LUẬT VỀ GIỚI. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Tư, 15 tháng 7, 2009

TÁC ĐỘNG CỦA PHONG TỤC, TẬP QUÁN ĐỐI VỚI VIỆC THỰC HIỆN BÌNH ĐẲNG GIỚI – TỪ GÓC NHÌN ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ

TS. NGUYỄN THỊ BÁO - Viện Nghiên cứu Quyền con người, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh

Tăng cường bình đẳng nam nữ và nâng cao vị thế cho phụ nữ là mục tiêu thứ 3 trong các Mục tiêu Phát triển thiên niên kỷ đang được nước ta nỗ lực thực hiện. Bên cạnh những kết quả rất đáng ghi nhận, chúng ta đang phải tiếp tục khắc phục những định kiến trọng nam, xem thường nữ, xuất phát từ quan niệm phong kiến, lạc hậu vẫn còn ăn sâu trong tiềm thức của một bộ phận người dân, trên con đường chinh phục mục tiêu này.

Là một nước phong kiến, nửa thuộc địa, kinh tế kém phát triển, kể từ Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến nay, chúng ta đã đi được một chặng đường dài trên con đường tiến tới thực hiện mục tiêu bình đẳng nam nữ: cách biệt về giới ở các cấp học sẽ được xóa bỏ trước năm 2015; phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý ở các ngành các cấp; cơ hội việc làm được mở ra cho cả nam và nữ; lao động nữ đã có nhiếu đóng góp cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; phụ nữ được tạo điều kiện thuận lợi để tiếp cận các nguồn lực thúc đẩy sản xuất kinh doanh, góp phần giảm nghèo và nâng cao vị thế của người phụ nữ; phụ nữ ngày càng được thụ hưởng bình đẳng với nam giới trong các dịch vụ công về y tế, văn hóa, xã hội...

Để nâng cao các quyền về kinh tế cho nữ giới, Quốc hội Việt Nam đã thông qua Luật Sửa đổi đất đai năm 2003, trong đó có ghi rõ tất cả các giấy tờ liên quan đến quyền sử dụng đất đều phải được cấp bao gồm tên của cả vợ và chồng.

Các giấy tờ về quyền sử dụng đất giúp bảo đảm quyền và nghĩa vụ của người phụ nữ đối với tài sản đất đai đó.

Những giấy tờ này cũng giúp nữ giới có thể vay vốn để đầu tư vào sản xuất kinh doanh, đồng thời cũng nhằm bảo vệ quyền lợi hco phụ nữ trong trường hợp ly dị và phân chia tài sản.

Các luật về bình đẳng giới và phòng chống bạo lực gia đình đã được Quốc hội thông qua và đi vào cuộc sống. Từ năm 2008, nước ta đã có cơ quan quản lý nhà nước về bình đẳng giới. Việt Nam có tên trong danh sách các nước được tính toán về thước đo nâng cao vị thế về giới (GEM) với vị trí 52/93 nước được xếp hạng (xem: Báo cáo "Việt Nam tiếp tục chặng đường thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ” của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tháng 12-2008).

Tuy nhiên, để thực hiện trọn vẹn mục tiêu bình đẳng giới, bình đẳng cả về cơ hội hưởng thụ, cống hiến, chúng ta còn nhiều việc phải làm, mà trước hết là khắc phục tận gốc tư tưởng phong kiến trọng nam, khinh nữ đã ăn sâu, bám rễ trong tiềm thức, suy nghĩ, quan niệm, cách hành xử và lối sống của một bộ phận người dân từ bao đời nay; khắc phục những phong tục, tập quán lạc hậu, tác động tiêu cực đến việc thực hiện bình đẳng giới.

1. Vì sao tâm lý phải có con trai nặng nề, và tồn tại dai dẳng đến như vậy?

Về mặt kinh tế, đặc trưng của đồng bằng sông Hồng là nông nghiệp lúa nước, kinh tế được tổ chức theo đơn vị gia đình, chủ yếu dựa trên lao động thủ công, dựa vào sức lực là chính. Công việc đồng áng nặng nhọc, tạo ra khát vọng có con trai, coi trọng con trai. Con trai là lao động chính, là chỗ dựa tinh thần của gia đình, vì thế, vai trò của người đàn ông được đề cao và xem trọng.

Về mặt xã hội, ba thiết chế truyền thống của cộng đồng làng xã là nhà (gia đình), họ (tông tộc) và giáp có ảnh hưởng sâu sắc đến bất bình đẳng giới.

Gia đình của người Việt nói chung, của đồng bào vùng đồng bằng sông Hồng nói riêng, theo chế độ phụ quyền, có tục lệ thờ cúng tổ tiên, duy trì nòi giống, nên rất coi trọng con trai và vì thế, đề cao vai trò của nam giới. Người đàn ông, người chồng được coi là trụ cột trong gia đình, phụ nữ được quan niệm là người trông coi việc bếp núc.

Mở rộng của gia đình là dòng họ - tập hợp những gia đình có chung một ông tổ. Trong đó, quan hệ của các dòng họ được dựa theo số đông nam giới với quan niệm là “họ đa đinh”, “họ ít đinh”. Điều này dẫn đến việc phải duy trì nòi giống, nâng cao sức mạnh và vị thế của dòng họ trong làng. Yếu tố này góp thêm một nhu cầu cần nam giới và trọng con trai.

Một đặc điểm khác nữa là coi trọng giáp - thiết chế của nam giới trong làng. Mỗi giáp bao gồm đinh nam của một hai dòng họ hoặc chi họ. Làng Việt cổ lấy giáp làm đơn vị tổ chức thực hiện các công việc của đời sống cộng đồng, nên phụ nữ không có quyền và nghĩa vụ với các việc chính trị - xã hội của làng.

Nhiều tục lệ của làng xã được văn bản hoá thành hương ước, trở thành công cụ để quản lý làng xã. Trong nhiều hương ước đã sử dụng triệt để thiết chế dòng họ và giáp để gạt bỏ quyền dân sự, chính trị của người phụ nữ(1). Phụ nữ không được ghi tên trong sổ hàng xã, không được tham gia hội đồng kỳ mục - cơ quan có toàn quyền đối với công việc của làng xã.

Trong quan hệ gia đình, chỉ có người chồng mới là đại diện chính thức cho “quyền ngoại giao” đối với láng giềng, dòng họ, cộng đồng làng xã trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Mọi hành vi giao thiệp của người vợ với bên ngoài chịu sự kiểm soát, phán xét khắc nghiệt của chồng, gia đình nhà chồng cũng như cộng đồng.

Sự bất bình đẳng của phụ nữ về mặt nhân thân trong tục lệ làng xã còn thể hiện rõ nét trong việc làm gia phả. Tuyệt đại đa số gia phả của các dòng họ được viết bằng chữ Hán trước đây đều thể hiện sự phân biệt đối xử đối với phụ nữ với nguyên tắc “nữ nhi ngoại tộc” (con gái đi lấy chồng là thuộc về dòng họ khác), nên trong gia phả không ghi tên con gái, còn các con trai được ghi chép khá đầy đủ các thông số liên quan đến nhân thân(2).

2. Quan niệm trọng nam, xem thường nữ tác động thế nào đến vấn đề thực hiện bình đẳng giới hiện nay?

Những yếu tố hình thành nên tư tưởng trọng nam, xem thường nữ trên đây, mặc dù đã được khắc phục rất nhiều kể từ khi đất nước giành được độc lập, nhưng những dư âm, tàn tích của nó vẫn còn rơi rớt, ẩn sâu trong tâm lý, suy nghĩ của một bộ phận người dân, tác động đến việc thực hiện bình đẳng giới.

Thứ nhất, trong việc tham gia quản lý, hoạt động xã hội.

Thực tế cho thấy, ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng hiện nay, tỷ lệ phụ nữ tham gia vào cấp uỷ, các cơ quan công quyền và tổ chức chính trị, xã hội còn khiêm tốn. Chẳng hạn, Ninh Bình được coi là tỉnh đứng đầu khu vực đồng bằng sông Hồng có tỷ lệ phụ nữ tham gia vào các hoạt động chính trị, xã hội, nhưng tỷ lệ phụ nữ trúng cử đại biểu Quốc hội khoá XII của tỉnh cũng chỉ dừng ở con số 33,3%; nữ cấp uỷ cấp tỉnh đạt 14,28%; cấp huyện đạt 17,43%; cấp xã đạt 15,01%; toàn tỉnh chỉ có 14 nữ là Bí thư, Phó Bí thư Đảng uỷ cơ sở; nữ đại biểu hội đồng nhân dân cấp tỉnh đạt 28%; cấp huyện, thị, thành phố đạt 24,19%; cấp xã đạt 19,57%; có 20 chị là lãnh đạo trưởng, phó các ban, ngành, đoàn thể cấp tỉnh; 3 Phó Chủ tịch UBND cấp huyện, thị, thành phố; 20 xã phường có nữ lãnh đạo chủ chốt trong HDDND và UBND(3).

Phụ nữ đồng bằng sông Hồng chủ yếu mới chỉ tích cực tham gia vào các tổ chức chính trị, xã hội có liên quan trực tiếp đến bản thân và trách nhiệm của các chị trong gia đình như: Hội Nông dân: 50%; Hội Phụ nữ: 80,71%; câu lạc bộ gia đình hạnh phúc không sinh con thứ 3: 57,14%; tập huấn chăn nuôi 56,42%. Họ ít có cơ hội, điều kiện hơn nam giới để tham gia các hoạt động của các tổ chức chính trị, xã hội như: tham gia họp thôn chỉ có 26,42%, họp Hội Nông dân: 26,42%(4).

Thứ hai, trên lĩnh vực kinh tế

Nếp sống dựa trên quan niệm “tam tòng, tứ đức” đã trở nên quen thuộc, ăn sâu vào tiềm thức của người phụ nữ Việt Nam trước đây, làm cho người phụ nữ cam phận lệ thuộc hoàn toàn vào chồng, không dám quyết định, giải quyết những vấn đề trong gia đình. Còn người chồng quen với tư tưởng gia trưởng, áp đặt mọi quyết định đối với người vợ.

Phụ nữ được mong đợi là làm việc nhà nhiều hơn, còn nam giới là trụ cột kinh tế, người kiếm sống nuôi các thành viên gia đình. Từ đó đẫn đến những định kiến nghề nghiệp, trong đó, một số công việc được coi là của nam giới (làm rừng, đánh bắt hải sản, đi làm ăn xa nhà, lãnh đạo cộng đồng…); một số việc được coi là của phụ nữ (nội trợ, chăm sóc gia đình, sản xuất tại nhà, gần nhà, không tham gia lãnh đạo cộng đồng…).

Chính ảnh hưởng của quan niệm đó mà hiện nay, phụ nữ nông thôn Việt Nam nói chung, phụ nữ đồng bằng sông Hồng nói riêng chủ yếu chỉ quen với công việc đồng áng, nội trợ; những công việc đơn giản, thủ công, thu nhập thấp.

Phụ nữ đồng bằng sông Hồng đảm nhận: 82,14% công việc giặt giũ; 65,71% công việc quét dọn, nấu ăn; 69,28% công việc làm cỏ; 55,71% việc gieo trồng. Do đó, đóng góp kinh tế của họ trong gia đình được lượng hoá bằng tài sản không nhiều, dẫn đến người phụ nữ hầu như không có quyền về tài sản nhưng phải gánh vác nhiều nghĩa vụ trong gia đình. Mặt khác, mặc dù pháp luật dân sự của Việt Nam hiện nay đã quy định về quyền bình đẳng nam nữ trên lĩnh vực tài sản, nhưng do ảnh hưởng nặng nề của phong tục tập quán truyền thống của người Kinh, phụ nữ hầu như không có quyền sở hữu tài sản, mọi tài sản thuộc về người chồng.

Tập tục truyền thống không thừa nhận quyền thừa kế tài sản của con gái và hiện tại, tập tục này vẫn còn tác động đến tâm lý, thói quen và cách suy nghĩ, hành xử của một bộ phận nhân dân. Nhiều gia đình ở nông thôn thường không quan tâm đến hàng thừa kế là con gái, tài sản, đất đai của gia tộc chỉ chia cho con trai, đặc biệt dành phần ưu tiên cho con trai trưởng để lo phần hương hoả.

Con gái khi đi lấy chồng không được bố mẹ đẻ cho sử dụng đất nông nghiệp cũ và cũng không được gia đình nhà chồng cho đất mới. Điều đặc biệt là, do ảnh hưởng của tập tục cũ, mặc dù biết điều đó là bất công, không phù hợp với pháp luật, nhưng rất ít phụ nữ dám đứng lên đòi hỏi quyền bình đẳng của mình. Vì thế, các tài sản lớn trong gia đình như đất đai, nhà cửa, xe máy, đất nông nghiệp đều đứng tên người chồng và người chồng là chủ hộ.

Ở nông thôn, khoảng gần 80% chủ hộ là nam giới, do đó trên thực tế, phần lớn nam giới là người đứng tên chủ sở hữu nhà, đất. Hơn nữa đa số trường hợp nhà ở và đất ở là tài sản kế thừa do cha mẹ chia cho con trai khi họ lập gia đình.

Nam giới là chủ hộ, trong khi các chủ trương chính sách của Nhà nước khi tác động đến hộ gia đình nông thôn lại lấy chủ hộ làm chủ thể, vì thế, người đứng tên chủ sở hữu đất đai là chủ hộ, người đứng tên chủ tài sản cũng là chủ hộ. Khi thế chấp tài sản hay đất đai để vay vốn, cũng phải do chủ hộ quyết định. Và khi có các lớp tập huấn khoa học kỹ thuật nông nghiệp thì tất nhiên người tham gia phải là chủ hộ, người đại diện cho hộ gia đình, và trong đa số trường hợp là nam giới.

Theo số liệu khảo sát, hiện ở đồng bằng sông Hồng, phụ nữ đứng tên vay vốn ngân hàng chỉ có 27,85%; đứng tên sổ đỏ là 14,28%; 8,6% là chủ hộ; quyết định mua sắm những tài sản lớn, có giá trị trong gia đình như ti vi, xe máy,… là 5,0%.

Trong xã hội, chỉ có 10% số người quan niệm người vợ có vai trò đóng góp nhiều hơn về kinh tế cho gia đình(5). Điều này đã dẫn đến hậu quả là nhiều phụ nữ khi ly hôn, buộc phải ra khỏi nhà chồng với hai bàn tay trắng.

Như vậy, các phong tục, tập quán, quan niệm phong kiến, lạc hậu là một tác nhân quan trọng tạo rào cản đối với người phụ nữ trong việc tiếp cận và hưởng thụ các quyền về kinh tế; đưa người phụ nữ nông thôn vào vị thế phụ thuộc vào người chồng về kinh tế. Từ phụ thuộc về kinh tế sẽ dẫn đến phụ thuộc mọi mặt vào người chồng trong cuộc sống gia đình.

Thứ ba, trên lĩnh vực văn hoá và xã hội

Với quan niệm “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”, con trai có quyền và được ưu tiên quyền được đi học, còn con gái phải ở nhà học mẹ công việc nội trợ, bếp núc để quán xuyến gia đình khi lập gia thất. Hậu quả của quan niệm này là gây bất bình đẳng giới trên lĩnh vực văn hoá, xã hội. Biểu hiện rõ nhất của tình trạng này là phụ nữ gặp nhiều trở ngại khi tiếp cận quyền và hưởng thụ các quyền về văn hoá, xã hội.

Hiện nay, mặc dù đã có nhiều tiến bộ, Đảng và Nhà nước đã có nhiều cố gắng trong việc chỉ đạo thực hiện chính sách pháp luật thúc đẩy bình đẳng giới, nhưng do nhiều yếu tố, phụ nữ vẫn chịu nhiều thiệt thòi so với nam giới trên lĩnh vực văn hoá giáo dục.

Trong gia đình, nếu phải lựa chọn việc cho con trai hay con gái tiếp tục theo học các bậc hệ cao hơn thì con trai bao giờ cũng được ưu tiên hơn. Đó là một trong những nguyên nhân lý giải vì sao ở nông thôn, đa số phụ nữ chỉ học hết cấp I và cấp II. Tỷ lệ phụ nữ mù chữ, trẻ em gái bỏ học giữa chừng luôn nhiều hơn nam giới. Theo báo cáo của Uỷ ban nhân dân tỉnh Ninh Bình năm học 2007 - 2008, tỷ lệ học sinh nữ trong các cấp học là: bậc Mầm non: 49,6%; bậc Tiểu học: 48,2%; bậc Trung học cơ sở: 48,7%.

Đặc biệt, quyền được đào tạo nghề, tập huấn kỹ thuật cho lao động nữ nông thôn hiện đang gặp nhiều thách thức.

Tư tưởng "trọng nam, khinh nữ" dẫn đến số phụ nữ có trình độ học vấn cao rất ít, lại không được tạo điều kiện để tiếp cận các khoá tập huấn đào tạo kỹ thuật canh tác, sản xuất mới nên tay nghề và kỹ thuật cho lực lượng lao động nữ vẫn còn ở mức thấp. Sự chênh lệch giữa nam giới và phụ nữ trong lĩnh vực này là điều đáng quan tâm. Tỷ lệ phụ nữ ở độ tuổi 13 trở lên được đào tạo tay nghề kỹ thuật trên toàn quốc chỉ chiếm khoảng 6% và so với nam giới là 9%. Phụ nữ ở độ tuổi 22-25 có cơ hội tiếp cận tới đào tạo nghề thấp hơn đáng kể so với nam giới ở cùng độ tuổi (24% nữ nông thôn so với 30% nam nông thôn)”(6).

Một trong những hạn chế về giáo dục đối với phụ nữ phải kể đến các định kiến về việc thường xuyên xây dựng hình ảnh nam giới và phụ nữ với vai trò, nghề nghiệp theo quan điểm truyền thống như phụ nữ thường là giáo viên, bác sỹ, nội trợ...; nam giới thường là giám đốc, kỹ sư, phi công.... Cách xây dựng hình ảnh như vậy rất ảnh hưởng đến định hướng lựa chọn ngành nghề trong tương lai, và, sự tách biệt giới trên thị trường lao động là tất yếu.

Trong các ngành đào tạo, đại đa số phụ nữ theo học ở các ngành sư phạm và khoa học xã hội, trong khi đó, nam giới lại chiếm số đông trong các ngành kỹ thuật. Sự cách biệt này là nguyên nhân làm hạn chế khả năng và cơ hội của phụ nữ tham gia vào thị trường lao động đang thay đổi trong điều kiện đất nước hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu và tiếp cận với khoa học kỹ thuật và công nghệ(7).

Quan niệm về người chồng là trụ cột trong gia đình đã gây áp lực cho nam giới phải cố gắng phấn đấu để tìm kiếm việc làm có thu nhập cao, trong khi phụ nữ dễ bị tư tưởng cầu an, chỉ tìm kiếm các công việc nhẹ nhàng, thu nhập thấp để dành thời gian chăm sóc chồng con, dẫn đến sự tự nguyện bị lệ thuộc chi phối bởi đức ông chồng về mọi mặt.

Áp lực của định kiến xã hội còn cản trở phụ nữ cầu tiến bộ. Vì hầu như những người phụ nữ có chí tiến thủ, phấn đấu vươn lên trong công tác, học tập, khẳng định được vị thế bình đẳng, đôi khi vượt trội trong gia đình về thu nhập kinh tế và địa vị xã hội thường bị đánh giá là người phụ nữ có nhiều “tham vọng, hãnh tiến”, và gia đình đó bị coi là “âm thịnh, dương suy”!

Phong tục, tập quán thể hiện bản sắc văn hoá riêng của mỗi dân tộc, mỗi vùng miền, trong đó có vùng đồng bằng sông Hồng. Trong quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế hiện nay, cần phải phát huy những nét đẹp của văn hoá truyền thống, bên cạnh đó cần phải kiên quyết loại bỏ dần những phong tục, tập quán lạc hậu, là rào cản cho sự tiếp cận và hưởng thụ quyền bình đẳng của phụ nữ trên các lĩnh vực dân sự, chính trị; kinh tế, xã hội và văn hoá để góp phần thúc đẩy thực hiện bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay.

Bình đẳng giới không phải là làm dùm, càng không phải là tạo chỗ dựa cho phụ nữ, mà là tạo cơ hội, tạo điều kiện cho họ phát huy được năng lực bản thân, giúp họ đứng vững trên đôi chân của mình để góp phần xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.

Thúc đẩy bình đẳng giới và tăng quyền năng cho phụ nữ là một trong những mục tiêu phát triển hàng đầu được xác định trong Tuyên bố Thiên niên kỷ; bất bình đẳng chính là nguyên nhân kìm hãm sự phát triển đất nước và cản trở việc hoàn thành mục tiêu của các chương trình xây dựng đất nước. Cho nên, cần phải có quyết tâm và sự đồng thuận của toàn xã hội, trong đó có quyết tâm của phụ nữ để xóa bỏ dần những phong tục, tập quán, các định kiến xã hội tiêu cực về giới, tăng cường hoạt động có hiệu quả của Hội phụ nữ, Ban vì sự tiến bộ của phụ nữ, của các cấp, ban ngành, địa phương tạo cơ chế phối kết hợp đa ngành hữu hiệu để quyền bình đẳng của phụ nữ trên mọi mặt dân sự, chính trị; kinh tế, xã hội và văn hoá được hiện thực hoá trong cuộc sống./


(1) Trần Từ - Cơ cấu tổ chức của làng Việt cổ ở Bắc Bộ - Nxb, KHXH, 1984, tr. 46-60, 106-128.

(2) Bùi Xuân Đính - "Lệ tục làng Việt và ảnh hưởng của nó đến việc bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ và trẻ em", Kỷ yếu Hội thảo của Trung tâm Nghiên cứu Quyền con người năm 2001 về “Tập tục truyền thống với việc bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ và quyền trẻ em ở Việt Nam”, H, 2001, trang. 53-60.

(3) Báo cáo số 05/BC- VSTBPN ngày 05/02/2008 của Ban vì sự tiến bộ phụ nữ tỉnh Ninh Bình về Kết quả hoạt động vì sự tiến bộ của phụ nữ năm 2007, phương hướng, nhiệm vụ năm 2008, tr. 4.

(4) Báo cáo kết quả điều tra khảo sát tháng 9-2008 của Ban chủ nhiệm đề tài “Vai trò của hệ thống chính trị cơ sở trong việc thực hiện bình đẳng giới ở đồng bằng sông Hồng”, tr. 2,4.

(5) Báo cáo kết quả điều tra khảo sát tháng 9-2008 của Ban chủ nhiệm đề tài “Vai trò của hệ thống chính trị cơ sở trong việc thực hiện bình đẳng giới ở đồng bằng sông Hồng”, tr. 1-3.

(6) Đỗ Thị Bích Loan, Những vấn đề giới trong giáo dục ở Việt Nam , http://www.unescobkk.org/fileadmin/user_upload/appeal/gender/Viet Nam.doc).

(7) Báo cáo CEDAW lần 5,6 của các tổ chức NGO Việt Nam

Thứ Năm, 2 tháng 4, 2009

KHI CON NGƯỜI TRỞ THÀNH HÀNG HÓA

A.D

Theo công bố mới nhất từ Bộ Công An, VN hiện là địa bàn của các hoạt động đưa người di cư, xuất khẩu lao động trá hình cũng như nhiều đường dây mua bán phụ nữ, trẻ em, tế bào thai, nội tạng ra nước ngoài. Tính riêng 6 tháng đầu năm 2008 đã có 193 vụ xảy ra, với hơn 430 phụ nữ, trẻ em bị buôn bán. Như vậy, trung bình mỗi ngày, có ít nhất 2 phụ nữ, trẻ em bị những kẻ buôn người biến thành hàng hoá.

Gần 50% nạn nhân là người mù chữ

Từ năm 2005 đến nay, cả nước phát hiện gần 1.100 vụ buôn bán phụ nữ, trẻ em với 1.980 đối tượng tham gia, lừa bán 2.800 phụ nữ trẻ em. Tuy nhiên, đây mới chỉ là phần nổi của tảng băng chìm vì tình hình phụ nữ trẻ em bỏ nhà đi khỏi địa phương không rõ lý do, nghi bị buôn bán ngày càng gia tăng.
Theo Cục Phòng chống tệ nạn xã hội (Bộ LĐTBXH), có gần 50% phụ nữ, trẻ em bị bán qua biên giới không biết chữ, gần 40% mới học xong bậc tiểu học và 88% nạn nhân đều thuộc diện gia đình khó khăn.
Buôn bán phụ nữ, trẻ em diễn ra ở bốn tuyến rõ rệt: hai tuyến đầu diễn ra ở khu vực biên giới VN - Trung Quốc (Quảng Ninh, Lạng Sơn, Lai Châu, Lào Cai, Cao Bằng... chiếm 70% tổng số vụ trên toàn quốc) và biên giới VN - Campuchia (An Giang, Tây Ninh, Đồng Tháp, Hậu Giang...); tuyến thứ ba buôn bán quốc tế tới các địa điểm như Macau, Đài Loan, Hồng Kông, Hàn Quốc và tuyến cuối cùng buôn bán trong đất liền, xuyên qua Campuchia và Lào đến Thái Lan và Malaysia.
Hoạt động buôn bán phụ nữ, trẻ em không chỉ diễn ra bằng đường bộ. Các tổ chức tội phạm trong nước và quốc tế còn hợp pháp hoá hoạt động qua việc tổ chức cho nạn nhân đi du lịch, hợp tác lao động... bằng đường hàng không và đường biển, sau đó đưa họ sang Hàn Quốc, Australia, Mỹ, Malaysia, Đài Loan... để ép buộc bán dâm.

Nam giới cũng là... hàng hoá

Cùng với sự bùng nổ rầm rộ về số lượng các vụ buôn người thì tính phức tạp của nó cũng ngày một tăng lên. Không chỉ phụ nữ bị buôn bán để làm nô lệ tình dục hay làm vợ, ngay cả nam giới cũng bị lừa bán để khai thác sức lao động và bán nội tạng, như vụ 6 nam thanh niên bị lừa bán sang Trung Quốc để bóc lột lao động mới đây tại Lào Cai và Hải Dương.
Theo Tổ chức Chương trình quốc tế của Liên Hợp Quốc về nạn buôn người ở khu vực hạ Mê Kông (UNIAP), buôn bán người là loại tội phạm diễn ra rất tinh vi và phức tạp. Đây là một vấn nạn lớn nhưng cũng là một vấn nạn được che giấu, vì thế khó nói được con số chính xác (các vụ án và bị can). Hình thức buôn bán người ở mỗi nơi một khác. Ở chỗ này là buôn bán phụ nữ và trẻ em để làm mại dâm, ở chỗ kia là để làm lao công trong các nhà máy, trong lĩnh vực nông nghiệp, chỗ khác lại bắt buộc trẻ em đi ăn xin hoặc làm con mồi cho dịch vụ kết hôn.

Bán từ người quen đến... người thân

Theo một nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Phát triển Xã hội (ISDS),  những thủ phạm buôn người có thể chính là người thân, bạn bè hoặc người cùng làng xã của các nạn nhân. Chính vì vậy, chúng có thể dễ dàng chiếm được lòng tin của các nạn nhân khi lừa phỉnh đưa họ đi thành phố, hoặc sang biên giới kiếm việc làm, nhưng thực chất là bán họ làm hàng hoá.
Một nạn nhân sau khi được trở về nhà cho biết đã đồng ý theo một người phụ nữ sang Trung Quốc tìm việc, vì "cô ta biết cả gia đình em". "Cô ấy đã có chồng, có con và chơi với cả các anh trai của em. Em không thể tưởng tượng được rằng cô ta dám bán em, trong lúc biết rõ rằng các anh của em rất ghê gớm" - cô gái mới 16 tuổi cho hay.
Mức giá mà những kẻ buôn người nhận được thường từ 5-7 triệu đồng cho một phụ nữ. Tuy nhiên, mức giá đó có thể cao hơn nhiều, nếu đó là những cô gái xinh xắn. Theo nghiên cứu của ILO, đàn ông Trung Quốc thường trả từ 7.000-8.000 Nhân dân tệ cho một cô dâu Việt "ưa nhìn". Nếu cô gái không xinh, giá sẽ giảm xuống còn 3.000-4.000 ND tệ.
Ông Paul Buckley - quan chức UNIAP - nhấn mạnh tình trạng buôn bán người trên thế giới và trong khu vực cũng đang là vấn nạn phức tạp và nhức nhối của các nước. Lợi nhuận của việc buôn bán người mỗi năm lên đến 31 tỉ USD. Bọn tội phạm này còn liên quan chặt chẽ đến tội phạm buôn bán vũ khí và ma tuý.
Ông Paul cho rằng, để phòng chống buôn bán người đạt được hiệu quả cao, Chính phủ các nước sở tại phải hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, nâng cao đời sống cho người dân, đặc biệt là những phụ nữ, trẻ em gái ở vùng nông thôn nghèo cần phải được trang bị kiến thức pháp luật, xã hội, và phải có nghề nghiệp ổn định.

Vương quốc Anh lo ngại nạn buôn người dịp Olympic

Vấn nạn buôn người kéo theo nó là nô lệ tình dục đang làm đau đầu các nhà chức trách Anh. Bộ Nội vụ nước này đặc biệt lo ngại Olympic London 2012 sẽ là thỏi nam châm đối với những kẻ buôn người bán cho các nhà thổ và lao động bất hợp pháp.
Chắc chắn có rất nhiều người tìm kiếm công ăn việc làm khi Olympic diễn ra ở London. Và nhân dịp này, những kẻ buôn người tội phạm sẽ cố gắng khai thác thêm nguồn hàng.
Bộ Nội vụ Anh lên kế hoạch chống các băng nhóm bắt cóc phụ nữ làm nô lệ tình dục và buộc đàn ông làm lao động cưỡng bức. Bộ Nội vụ Anh còn yêu cầu các nhóm chuyên phát hiện bọn buôn người canh gác tại các sân bay và bến cảng.
Ngoài ra Anh còn lập một đường dây nóng tới cảnh sát, nhân viên nhập cư và nhân viên xã hội để nhận diện nạn nhân nhanh hơn. Theo ước tính của Bộ Nội vụ Anh, riêng năm 2003, 4.000 nạn nhân buôn người làm việc trong các nhà chứa Anh.

Ấn Độ: Cảnh sát cũng dính líu

Các nhà lãnh đạo nữ ở bang Assam, phía Tây Bắc Ấn Độ, cho biết nạn buôn bán phụ nữ ở bang này đã đạt tới "tỉ lệ nguy hiểm" trong những thập niên qua. "Ngày càng có nhiều phụ nữ bị bán để phục vụ cho ngành công nghiệp tình dục này. Họ bị lừa rằng sẽ có một công việc hái ra tiền hoặc là nạn nhân của những cuộc hôn nhân giả tạo", bà Sumitra Hazarika Gogoi - Uỷ viên cao cấp của Hội Phụ nữ bang Assam - cho biết.
Bà Gogoi còn tiết lộ, rất nhiều các quan chức cao cấp và cảnh sát trong bang cũng có dính líu tới những vụ buôn bán phụ nữ. Từ năm 2000 đến 2007, 413 người đã bị bắt trong 150 vụ buôn bán phụ nữ, trẻ em núp dưới bóng một tổ chức hoạt động chống lại nạn buôn người.
G Bhuiyan - trưởng phòng điều tra tội phạm bang Assam - cho biết: "Các tổ chức buôn người thường mở những trung tâm môi giới việc làm. Các cô gái nhẹ dạ sẽ nhận được lời hứa có công việc với thu nhập cao. Nhưng thực chất họ bị bán với giá từ 10.000 đến 30.000 rupi (tương đương từ 233USD đến 700USD) để làm người mẫu hoặc gái bar, sau đó, các cô bị đẩy vào hoạt động mại dâm" (Theo BBC)

"Công việc duy nhất mà chúng dành cho tôi là trong nhà thổ"

Tomissi là một người Nigeria nhút nhát, thông minh, 20 tuổi nhưng thực ra trông chỉ như mới 18. Cô đã bị một người bạn của mẹ cô lừa tới Turin, miền bắc Italia, vào năm ngoái với lời hứa để làm công việc trông trẻ. Nhưng kết cục, cô bị bán cho các chủ chứa làm nô lệ tình dục.
Nigeria là một trong những quốc gia là điểm nóng về nạn buôn người. Có rất nhiều cô gái đã bị dụ dỗ sang Italia, với những ước mơ về một công việc tốt để đổi đời. "Người ta nói có công ăn việc làm ở Turin, nhưng công việc duy nhất là trong nhà thổ. Họ chỉ lừa gạt những cô gái nhẹ dạ như tôi!" - Tomissi nói.
Theo ước tính, có chừng 20.000 gái mại dâm người Nigeria tại Italia. Hầu hết đều đến từ tiểu bang Edo ở miền nam Nigeria. "Các tú bà thường đánh đập tôi, nếu tôi không tiếp khách" - Tomissi nhớ lại. Trong một lần may mắn, Tomissi đã trốn thoát và may mắn gặp được một tổ chức thiện nguyện, những người đã giúp đỡ cô ổn định lại cuộc sống.

SOURCE: BÁO LAO ĐỘNG

Trích dẫn từ: http://www.baothuongmai.com.vn/Details/phap-luat/khi-con-nguoi-tro-thanh-hang-hoa/32/0/8876.star

Chủ Nhật, 2 tháng 3, 2008

ĐỔI MỚI NỘI DUNG GIẢNG DẠY CHẾ ĐỊNH THỪA KẾ TRONG MÔN LUẬT DÂN SỰ DƯỚI GÓC ĐỘ GIỚI

THS. Nguyễn Hồng Hải - Khoa Luật dân sự - Đại học Luật Hà Nội

I. Mục tiêu tổng quát:

Lồng ghép giới trong giảng dạy chế định thừa kế của môn Luật dân sự được dành cho đối tượng ngưòi học là sinh viên thuộc các hệ đào tạo bậc đại học của trường Đại học Luật Hà Nội (hệ chính qui, văn bằng hai, tại chức, chuyển cấp, trung cấp pháp lý) với mục tiêu tổng quát là:

Tng bước lng ghép gii trong xây dng Giáo trình, Giáo án, phương pháp ging dy v chế định tha kế hướng ti mc tiêuchung là tng bước thay đổi nhn thc và cách tiếp cn ca sinh viên khi nghiên cu các qui định pháp lut v tha kế dưới góc độ gii.

II. Những nội dung cần được lồng ghép giới trong giảng dạy chế định pháp luật thừa kế

II.1. Khái quát nội dung giảng dạy chế định thừa kế trong chương trình đào tạo hiện nay

Theo chương trình giảng dạy hiện nay của môn Luật dân sự, chế định thừa kế nằm trong học phần 2 với tổng số tiết giảng và thảo luận là 15 tiết với những nội dung cơ bản sau:

- Th nht: Khái niệm và các nguyên tắc cơ bản về thừa kế (Đ.631 Đ.632/BLDS năm 2005);

- Th hai, các qui định chung về thừa kế (Đ.633 - Đ. 645/BLDS năm 2005):

+ Thời điểm, địa điểm mở thừa kế;

+ Di sản:

+ Người thừa kế và các quyền, nghĩa vụ của ngưòi thừa kế, trong đó có quyền từ chối nhận di sản;

+ Việc thừa kế của những ngưòi chết cùng thời điểm và những người không được quyền hưởng di sản;

+ Người quản lý di sản và các quyền, nghĩa vụ của người quản lý di sản;

+ Thời hiệu khởi kiện về thừa kế.

+ Một số nội dung khác.

- Th ba, thừa kế theo di chúc (Đ.646 - Đ.673/BLDS năm 2005):

+ Khái niệm di chúc và người lập di chúc;

+ Các quyền của nguời lập di chúc và những nguời hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc;

+ Điều kiện có hiệu lực của di chúc;

+ Vấn đề sử dụng tài sản làm tài sản di tặng hoặc dùng làm thờ cúng;

+ Các nội dung khác.

- Th tư, thừa kế theo pháp luật (Đ.674 - Đ.680/BLDS năm 2005):

+ Khái niệm và các trường hợp thừa kế theo luật;

+ Người thừa kế theo pháp luật và những nguời được thừa kế thế vị;

+ Quyền thừa kế của giữa cha mẹ nuôi và con nuôi; cha dượng, mẹ kế với con riêng của vợ, chồng mình…

- Th năm, thanh toán và phân chia di sản (Đ 681 - Đ 687/ BLDS năm 2005):

+ Thứ tự ưu tiên thanh toán;

+ Phân chia di sản theo di chúc;

+ Phân chia di sản theo pháp luật;

+ Hạn chế phân chia di sản;

+ Một số nội dung khác.

II.2. Những nội dung kế cần được lồng ghép giới trong chế định thừa kế

Căn cứ vào nội dung giảng dạy chế định thừa kế trong môn Luật dân sự nêu trên và những nguyên tắc trong nghiên cứu về giới và bình đẳng giới, cần thiết lồng ghép giới vào trong những nội dung cơ bản sau:

II.2.1. Khái nim và các nguyên tc cơ bn ca tha kế:

Bên cạnh những kiến thức bắt buộc là khái niệm và các nguyên tắc thừa kế được qui định trong pháp luật, theo chúng tôi, giáo trình và giảng viên cần cung cấp những thông tin sau đây cho sinh viên:

- Quan hệ thừa kế là một trong những quan hệ xã hội chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi phong tục, tập quán và truyền thống đạo đức về vai trò và quyền, nghĩa vụ để lại di sản hoặc thụ hưởng di sản của nam, nữ trong thừa kế tài sản giữa các thế hệ trong gia đình;

- Quan niệm truyền thống trong xã hội Việt Nam thường có sự ưu ái hơn về quyền quyết định di sản và thụ hưởng di sản thừa kế của nguời nam giới (người cha, người chồng, nguời con trai hoặc các thành viên nam khác trong dòng họ và gia đình), còn nguời nữ giới (người mẹ, nguời vợ, con gái hoặc các thành viên nữ khác trong gia đình, dòng họ) thường có sự yếu thế hơn về vấn đề này;

- Sự bình đẳng nam, nữ trong thừa kế không chỉ chịu sự phụ thuộc vào định kiến xã hội mà còn phụ thuộc rất nhiều vào quan điểm của nhà làm luật dưới mỗi chế độ xã hội. Thực tiễn pháp lý đã chứng minh, không phải pháp luật của Nhà nước nào cũng công nhận và bảo hộ sự bình đẳng giữa nam và nữ về thừa kế.

- Pháp luật Việt Nam về thừa kế trải qua các giai đoạn phát triển của đất nứơc đã có những minh chứng rất rõ nét về vấn đề bình đẳng giới trong thừa kế:

+ Pháp luật dưới chế độ cũ luôn có những qui định bảo vệ quyền lợi của người đàn ông trong các quan hệ xã hội và quan hệ gia đình. Giáo trình và giảng viên cần phân tích cơ sở xã hội và pháp lý của vấn đề này;

+ Pháp luật của Nhà nước ta qui định về thừa kế dựa trên nguyên tắc bình đẳng không phân biệt đối xử giữa những người thừa kế, trong đó chú trọng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của những người yếu thế hoặc những người có quan hệ gắn bó chặt chẽ, gần gũi về dòng máu, quan hệ tình cảm và đạo đức (cha mẹ, vợ chồng, con chưa thành niên hoặc con đã thành niên nhưng không có khả năng lao động…). Tuy nhiên, trên thực tế việc đưa các qui định này vào cuộc sống còn nhiều vấn đề bất cập. Trong đó, những định kiến phân biệt đối xử về vai trò quyết định di sản hoặc quyền được thụ hưởng di sản của người phụ nữ nói chung, nguời vợ, ngưòi con gái nói riêng vẫn còn ảnh hưởng nặng nề trong một bộ phận dân cư, cộng đồng hoặc nhóm xã hội. Theo chúng tôi, giáo trình và giảng viên cần dẫn chứng những cơ sở xã hội và thực tiễn để chứng minh luận điểm này.

II.2..2. Phn các qui định chung v tha kế

Giáo án và giảng viên cần lồng ghép các nội dung bình đẳng giới vào trong các thông tin liên quan đến xác định nguời thừa kế, người không được hưởng di sản cũng như việc xác định di sản liên quan đến tài sản chung của vợ chồng và tài sản chung của gia đình. Trong đó cần nhấn mạnh sự cần thiết và trên thực tiễn pháp lý đã thực hiện được hay chưa thực hiện được về bình đẳng giới trong xác định ngưòi thừa kế, nguời không được hưởng di sản.

Ví d: người chng (hoc ngưòi v) không quan tâm chăm sóc, hoc có hành vi hành h v th xác và tinh thn khi người v (hoc chng) mình b m đau, không được cu cha kp thi mà chết. Nhng hành vi trên, nếu không phát hin kp thi hoc vi quan đim đấy là “chuyn riêng” ca v chng h mà không tước quyn tha kế ca người vi phm cũng là mt du hiu ca bt bình đẳng v gii…

Ngoài ra, do ảnh hưởng của tư tưởng, phong tục, tập quán lạc hậu hoặc do chịu ảnh hưởng của định kiến xã hội, thái độ tự ti… hoặc thiếu hiểu biết pháp luật mà có thể dẫn đến người có quyền thừa kế lại không dám khởi kiện, không muốn khởi kiện hoặc không biết mình được huởng thừa kế mà khởi kiện.

Ví d: Người con dâu sng cùng vi gia đình nhà chng, sau khi người chng chết không dám khi kin hoc t cho là mình không có quyn được hưởng tha kế, thì đây cũng là mt dng ca bt bình đẳng v gii nếu như pháp lut và các cơ quan Nhà nước có thm quyn không giúp hđược s th hưởng trên tha tế quyn tha kế ca mình…

II.2.3. Tha kế theo di chúc

Trong phần thừa kế theo di chúc, giáo trình và giảng viên cần phân tích đầy đủ các thông tin về người có quyền lập di chúc và các quyền của nguời lập di chúc trên cơ sở những quyền này áp dụng chung cho tất cả những người lập di chúc mà không có sự phân biệt đối xử dưói góc độ giới.

Bên cạnh đó, cần nhấn mạnh những định kiến xã hội về vai trò quyết định di sản và thụ hưởng di sản của nguời phụ nữ so với nam giới có ảnh hưởng rất lớn đến tâm tư, nguyện vọng của nguời lập di chúc. Từ đó, nó có thể quyết định người để lại di sản có “dám” hay không “dám” lập di chúc, cũng như nó có thể quyết định nội dung của di chúc bao gồm ai sẽ được hưởng thừa kế, mức thừa kế và các ràng buộc về quyền và nghĩa vụ phát sinh khi được thừa kế…

Ví d: Ngui con dâu sng cùng gia đình nhà chng khi mc bnh him nghèo biết mình không qua khi thì thường có suy nghĩ cho rng mình không nên hoc không có quyn lp di chúc dn ti h quyết định không lp di chúc. Ngược li, khi h quyết định lp di chúc thì ngui chng hoc gia đình nhà chng cho rng ch v không có quyn đó hoc không nên có di chúc như vy khi người chng, cha, m, anh, em gia đình nhà chng còn sng…

Ngoài ví dụ trên, chúng ta cũng có thể thấy một hiện tượng phổ biến là người để lại di sản khi lập di chúc thường có quan niệm con trai hoặc cháu trai là nguời thừa tự, nối dõi tông đường và kế tục các truyền thống của gia đình, dòng họ nên thường quyết định trao toàn bộ hoặc phần lớn di sản thừa kế cho con trai và cháu trai. Trong khi đó, con gái, cháu gái thì hưởng được phần ít hơn hoặc không được hưởng. Bản thân phía người phụ nữ nhiều khi cũng có quan niệm cho rằng, quyền thừa kế thuộc về con trai, anh trai, em trai, cháu trai còn mình thì không được hưởng dẫn tới họ không “dám”, không muốn khởi kiện để hưởng thừa kế…

II.2.4. Tha kế theo pháp lut:

Chúng tôi cho rằng, nội dung cần phải có trong giảng dạy là phân tích dưói góc độ, không có sự phân biệt đối xử trong việc xác định diện những nguời được hưởng thừa kế theo pháp luật. Nam hay nữ nếu có quan hệ nhân thân ngang nhau với người để lại di sản thì cùng thuộc cùng hàng thừa kế của người để lại di sản và được chia phần di sản bằng nhau. Ví d: Người tha kế đều là con đẻ hoc con nuôi ca ngui chết thì đều thuc hàng tha kế th nht ca cha m

Ngoài ra, cũng cần chú ý các quan hệ thừa kế đặc biệt, có tính nhạy cảm giới cao như quan hệ thừa kế giữa vợ và chồng đã chia tài sản chung, đang xin ly hôn, đã kết hôn với người khác; quan hệ thừa kế giữa con riêng với bố dượng, mẹ kế; quan hệ thừa kế giữa con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi và cha đẻ, mẹ đẻ…

II.2.5. Thanh toán và phân chia di sn

Về thanh toán và phân chia di sản, nhìn chung pháp luật áp dụng nguyên tắc tôn trọng ý chí của người để lại di sản, sự thoả thuận giữa những người thừa kế. Trong trường hợp chia di sản thừa kế theo pháp luật thì thực hiện nguyên tắc bình đẳng giữa những người thừa kế về nhận di sản và thực hiện nghĩa vụ của người chết để lại. Đặc biệt, nếu việc phân chia di sản làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của bên vợ hoặc chồng còn sống và gia đình thì bên còn sống có quyền yêu cầu Toà án xác định phần di sản mà những người thừa kế được hưởng nhưng chưa được chia di sản trong một thời hạn nhất định (thời hạn đó là không quá 3 năm…)…

Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại những yếu tố xã hội có thể ảnh hưởng đến việc thực hiện các nguyên tắc trên mà giáo trình và giảng viên cần cung cấp cho người học. Ví d: Sau khi thông báo v vic m tha kế hoc di chúc được công b, nhng người tha kế hp mt để tho thun v vic c người qun lý di sn, người phân chia di sn, cách thc phân chia di sn. Trong nhng cuc hp này, người tha kế là n gii thường ít tham gia hoc có tham gia nhưng không có ý kiến do ph thuc vào ý kiến ca nhng người tha kế nam gii, người tha kế “b trên”. Thm chí, khi người ph n có ý kiến thì thường không được nhng người tha kế khác quan tâm thích đáng, thm chí gt đi không chp nhn…

Hay pháp luật thừa nhận quyền của người vợ sau khi người chồng chết là yêu cầu Tòa án không chia di sản thừa kế của người chồng trong thời hạn không quá 3 năm nếu việc chia di sản có ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của họ và gia đình. Trên thực tế, những người vợ có thực hiện được quyền này hay không khi người khởi kiện chia thừa kế chính là cha mẹ chồng, con cái của mình… và sự lựa chọn phổ biến của người phụ nữ trên thực tế là nhận sự khó khăn thuộc về mình và chấp nhận yêu cầu khởi kiện của những người thừa kế khác.

III. Phương pháp sư phạm khi lồng ghép giới trong giảng dạy chế định thừa kế

Ngưòi học trong môi trường đào tạo luật về cơ bản là nhóm xã hội đã có sự nhận thức cơ bản và đa dạng về các vấn đề xã hội. Trong đó có vấn đề vai trò của nữ giới và nam giới trong xã hội. Để lồng ghép giới có hiệu quả vào trong nội dung giảng dạy chế định thừa kế, theo chúng tôi phương pháp sư phạm cần được thực hiện theo những nguyên tắc cơ bản sau:

- Cùng tham gia;

- Học hỏi lẫn nhau;

- Trực quan hoá

* Phương pháp sư phạm cùng tham gia giúp cho học viên chủ động tích cực tham gia vào quá trình học tập, tránh thụ động trong tiếp thu kiến thức về lồng ghép giới. Đặc biệt, khi lồng ghép giới luôn mang tính nhạy cảm cao do có sự định kiến về giới trong mỗi nguời và quan niệm truyền thống về giới trong mỗi cộng đồng, nhóm nguời là khác nhau. Phương pháp cùng tham gia thừa nhận những kinh nghiệm, kỹ năng, ý tưởng phong phú. đa dạng của người học, đồng thời lấy đó làm cơ sở của tiến trình học tập. Phương pháp này giúp cho học viên tự xác định được nhu cầu, mục tiêu học tập…

* Phương pháp học hỏi lẫn nhau được hiểu là nguời học cùng tích cực trao đổi về quan điểm, ý kiến và kinh nghiệm của mình về giới và bình đẳng giới. Trong đó mọi ý kiến đều được tôn trọng như nhau. Giáo viên là chỉ là người gợi mở, hướng dẫn, cung cấp những kiến thức cơ bản về giới và bình đẳng giới trong pháp luật về thừa kế cho ngưòi học;

* Trực quan hoá là một khía cạnh quan trọng của kỹ thuật giảng dạy, giảng viên cần tranh thủ các phương tiện kỹ thuật như máy tính, đèn chiếu, các phầm mềm ứng dụng để truyền đạt thông tin cho người học và thu thập thông tin từ phía người học. Ngoài ra. Trực quan hoá cũng là việc người giảng viên đưa ra công cụ thông tin thực tế để minh chứng hoặc gợi ý cho sinh viên nghiên cứu thảo luận về giới và bình đẳng giới trong thừa kế. Các công cụ thông tin đó có thể là: một hồ sơ vụ án tranh chấp thừa kế, một vụ việc nêu trên báo chí, một con ngưòi, gia đình cụ thể…

III. Các công cụ và phương tiện cần thiết để hỗ trợ lồng ghép giới trong giảng dạy chế định thừa kế của môn Luật dân sự

Trong đào tạo, để truyền đạt một nội dung thông tin đến người học, thì cơ sở đào tạo, bộ môn và giảng viên có thể áp dụng nhiều công cụ, phuơng tiện khác nhau để hỗ trợ, nâng cao hiệu quả sư phạm. Gắn với nội dung lồng ghép giới trong giảng dạy chế định thừa kế của môn Luật dân sự, chúng tôi cho rằng cần phải có những các công cụ phương tiện sau đây:

+ Giáo trình: đây là công cụ quan trọng, cần thiết và mang tính phổ biến không chỉ đối với người học mà còn cả với người dạy. Tổ bộ môn cần xây dựng một giáo trình chuẩn, thống nhất chuyên môn về các kiến thức cơ bản, mang tính nền tảng cho khoa học Luật dân sự nói chung và pháp luật về thừa kế nói riêng. Trong đó, sự thống nhất về lồng ghép giới trong từng nội dung của giáo trình là bắt buộc. Bên cạnh đó, giáo trình cũng phải là tài liệu gợi mở cho nguời học những nhận thức mới và suy nghĩ đa chiều về những yếu tố xã hội và pháp lý của một qui định pháp luật dân sự nói chung và pháp luật về thừa kế nói riêng. Trong đó có vấn đề về bình đẳng giới trong thừa kế.

+ Giáo án: đây là công cụ không thể thiếu phản ánh trách nhiệm khoa học và chuyên môn của người giảng viên. Nó truyền tải những kiến thức cơ bản phải có về chủ đề mà ngưòi học sẽ tiếp nhận. Ngoài ra, giáo án cũng đánh dấu sự sáng tạo của giảng viên trong việc tiếp cận và truyền đạt thông tin. Mỗi giảng viên có một cách tiếp cận và diễn đạt nội dung khác nhau về cùng bài giảng, điều đó là cần thiết giúp cho người học có được cách tiếp cận đa dạng về cùng một vấn đề. Tuy nhiên, lồng ghép giới vào từng nội dung của giáo án lại là nguyên tắc bắt buộc. Chúng ta hãy đặt địa vị là nguời học, liệu nguời học có được sự nhận thức đúng đắn về giới và bình đẳng giới hay không khi mỗi giáo viên lại đặt tầm quan trọng của nó khác nhau, thậm chí mâu thuẫn nhau. Trong khoa học tất yếu có những quan điểm khác nhau về giới và bình đẳng giới, nhưng theo chúng tôi điểm đến của mọi quan điểm là nguời học phải nhận thức được bình đẳng giới trong pháp luật, thực thi pháp luật và trong đời sống xã hội là cần thiết, tất yếu để xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

+ Các phương tin h tr: tài liệu tham khảo cho sinh viên, các phương tiện kỹ thuật như máy chiếu, máy tính, các phần mềm hỗ trợ…

Trên đây là một số ý kiến của chúng tôi về lồng ghép giới trong giảng dạy chế định thừa kế của môn Luật dân sự. Rất mong nhận được những ý kiến đóng góp, thảo luận về vấn đề này của các đồng nghiệp.

SOURCE: TẠP CHÍ LUẬT HỌC CHUYÊN ĐỀ VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI SỐ THÁNG 3/2007

Thứ Bảy, 5 tháng 1, 2008

VẤN ĐỀ GIỚI TRONG QUÁ TRÌNH NGHIÊN CỨU VÀ GIẢNG DẠY MÔN LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

THS. NGUYỄN THỊ LAN - KHOA LUẬT DÂN SỰ - ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

“Giới là một phạm trù chỉ vai trò và mối quan hệ xã hội giữa nam giới và nữ giới. Nói đến mối quan hệ giới là nói đến cách thức phân định xã hội giữa nam giới và phụ nữ, liên quan đến hàng loạt vấn đề thuộc về thể chế xã hội...”.([1]) Trong xã hội hiện đại ngày nay, sự bất bình đẳng về giới vẫn tồn tại một cách dai dẳng, không chỉ ở các quốc gia kém phát triển mà ở cả những quốc gia phát triển. Sự bất bình đẳng này luôn được bắt nguồn từ những lí do về mặt xã hội. Xoá bỏ sự bất bình đẳng giới là một yêu cầu xã hội được các trào lưu tiến bộ xã hội hết sức coi trọng. Trong quá trình nghiên cứu và giảng dạy môn học Luật hôn nhân và gia đình, sự hiểu biết về giới, vận dụng kiến thức về giới trong chu trình đào tạo khép kín của môn học này là vô cùng cần thiết và bổ ích.

Trong mối liên hệ về giới thì môn học Luật hôn nhân và gia đình có vị trí đặc biệt quan trọng. Hôn nhân và gia đình là vấn đề rất tế nhị nhưng cũng không kém phần phức tạp, là đối tượng nghiên cứu của rất nhiều ngành khoa học trong đó có luật học. Ngay từ khi xã hội loài người vừa mới hình thành thì vấn đề giới đã thể hiện rất rõ trong các tập đoàn người thời nguyên thuỷ. Đầu tiên, đó là sự thống trị của người phụ nữ trong gia đình và xã hội, rồi sau đó do sự thay đổi về các điều kiện kinh tế, ý thức xã hội, phong tục, tập quán, khi xuất hiện nhà nước thì địa vị của người đàn ông đã được thay đổi và thay vào đó là chế độ phụ quyền: “Chế độ mẫu quyền bị lật đổ là sự thất bại lịch sử có tính chất toàn thế giới của giới phụ nữ”.([2]) Kể từ đó chế độ phụ quyền đã tồn tại một cách dai dẳng theo sự phát triển của xã hội loài người. Và “sự đối lập giai cấp đầu tiên xuất hiện trong lịch sử trùng với sự phát triển của sự đối kháng giữa chồng và vợ, trong hôn nhân cá thể, sự áp bức đầu tiên là trùng với sự nô dịch của đàn ông đối với đàn bà... biểu lộ rõ ràng mâu thuẫn giữa người đàn ông với người đàn bà, kết quả thống trị độc nhất của chồng là một hình ảnh thu nhỏ của những mặt đối lập và những mâu thuẫn trong đó, từ đầu thời kì văn minh, xã hội chia thành giai cấp vẫn vận động mà không thể nào giải quyết được...”.([3]) Như vậy, sự bất bình đẳng giới đầu tiên chính là từ gia đình, trong gia đình mà gia đình lại là tế bào của xã hội, thể hiện tính chất và kết cấu của xã hội. Một xã hội đạt được sự bình đẳng giới thì trước tiên trong mỗi gia đình các thành viên phải được bình đẳng với nhau về quyền và nghĩa vụ. Mục tiêu này, dưới góc độ pháp lí, sẽ phụ thuộc vào sự tuyên truyền những kiến thức pháp luật nói chung và pháp luật hôn nhân và gia đình nói riêng. Nhìn từ góc độ giới, môn học Luật hôn nhân và gia đình có thể được coi là một trong những môn học tiên phong của quá trình đưa những nội dung về giới vào chương trình nghiên cứu và đào tạo luật.

Môn học luật hôn nhân và gia đình trong một chừng mực nhất định đã được các nhà quản lí nhìn nhận, có vị trí quan trọng bên cạnh những môn học khác, đây là một trong những môn học truyền thống của chương trình đào tạo luật ở tất cả các cơ sở đào tạo luật của Việt Nam. Tại Trường Đại học Luật Hà Nội, trước đây, môn học luật hôn nhân và gia đình thuộc Khoa tư pháp, trực thuộc bộ môn luật dân sự gồm ba phân môn là luật dân sự, luật tố tụng dân sự và luật hôn nhân và gia đình. Sau đó, trong quá trình phát triển, chuyên môn hóa thì môn học này đã được tách thành một bộ môn riêng. Trong môn học này, đối với hệ đào tạo chính quy thì ngoài chương trình cơ bản còn có ba chuyên đề trong đó chuyên đề “chế định tài sản của vợ chồng” (30 tiết, chương trình bắt buộc) và hai chuyên đề “thủ tục nhận nuôi con nuôi theo Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam” (20 tiết) và “pháp luật hôn nhân và gia đình của một số nước trên thế giới (20 tiết, chương trình tự chọn). Đặc biệt, là một trong những môn thi tốt nghiệp, tương đối thường xuyên đối với các lớp trung cấp luật - đối tượng chủ yếu là những cán bộ tư pháp ở các xã, phường, vùng sâu, vùng xa... nơi mà hàng ngày họ phải giải quyết rất nhiều các vấn đề liên quan đến hôn nhân và gia đình. Như vậy, có thể thấy rằng việc nghiên cứu môn học này ngày càng mang tính chất chuyên sâu, đảm bảo chất lượng dạy và học. Xét dưới góc độ giới, đây cũng là cách nhìn mới đối với tầm quan trọng của môn học này. Mặt khác, nhìn từ góc độ người học, hầu hết sinh viên (gồm sinh viên hệ chính quy và hệ tại chức) rất hứng thú với môn học này. Bởi môn học này gắn liền với cuộc sống của mỗi con người, đặc biệt đối với học viên hệ tại chức, họ có thể là những cán bộ thực thi pháp luật, bảo vệ pháp luật, hàng ngày phải giải quyết rất nhiều các vụ việc liên quan đến yếu tố giới, những vụ việc về hôn nhân và gia đình… Việc nghiên cứu và giảng dạy môn học này không chỉ cung cấp cho người học những kiến thức chuyên ngành luật mà còn giúp cho người học ý thức được trách nhiệm của cá nhân đối với gia đình và xã hội, xoá bỏ những định kiến giới truyền thống và dần hình thành những chuẩn mực hành vi trên cơ sở bình đẳng giới.

Các quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình luôn mang đậm màu sắc giới. Vì vậy, trong chương trình giảng dạy môn học luật hôn nhân và gia đình có rất nhiều nội dung có thể khai thác dưới góc độ giới.

Thứ nhất, hệ thống các nguyên tắc cơ bản của Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam trong đó có nguyên tắc áp dụng phong tục, tập quán về hôn nhân và gia đình, đây là nguyên tắc nhằm giữ gìn và phát huy những phong tục, tập quán thể hiện bản sắc văn hoá tốt đẹp của mỗi dân tộc mà không trái với những nguyên tắc cơ bản của Luật hôn nhân và gia đình. Ở nguyên tắc này, có thể đề cập rất nhiều các phong tục tập quán của các dân tộc, đặc biệt là các dân tộc thiểu số, nơi mà những kiến thức về giới không được biết đến hoặc chỉ là những khái niệm rất mơ hồ. Việc đi sâu nghiên cứu và tìm ra phương pháp tiếp cận vấn đề để thiết kế bài giảng gắn liền giữa phong tục tập quán với kiến thức về giới sẽ làm cho bài giảng sinh động và cuốn hút người học hơn. Hiện nay, pháp luật hôn nhân và gia đình đã dành sự quan tâm đặc biệt đến các phong tục, tập quán có ảnh hưởng sâu sắc tới đời sống hôn nhân và gia đình của đồng bào dân tộc thiểu số. Trong đó ghi nhận những phong tục, tập quán tốt đẹp thể hiện đậm đà bản sắc dân tộc của từng vùng, từng dân tộc, thể hiện sự bình đẳng giữa các thành viên trong gia đình. Bên cạnh đó cũng đề cập những tập tục lạc hậu cần thiết phải xóa bỏ…

Nguyên tắc hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng; nguyên tắc vợ chồng có nghĩa vụ thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình; nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của cha mẹ và con; nguyên tắc bảo vệ phụ nữ và trẻ em, giúp đỡ các bà mẹ thực hiện tốt chức năng cao quý của người mẹ. Đây là những nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình. Việc khai thác khía cạnh về giới trong các nguyên tắc này là hoàn toàn phù hợp. Sự phát triển của những nguyên tắc này trong suốt quá trình lịch sử đã thể hiện rất rõ sự nhận thức về giới. Việc lồng ghép những kiến thức về giới vào từng nguyên tắc sẽ giúp cho người học có tầm nhìn bao quát hơn về các vấn đề cơ bản của luật hôn nhân và gia đình và tiếp cận vấn đề dễ dàng hơn. Nghiên cứu dưới góc độ giới sẽ làm cho các nguyên tắc này không còn khô cứng mà đầy sức thuyết phục và hấp dẫn.

Thứ hai, các chế định cụ thể của luật hôn nhân và gia đình có thể khai thác được dưới góc độ giới như chế định kết hôn, li hôn, quan hệ pháp luật giữa vợ chồng, xác định cha, mẹ, con, nuôi con nuôi...

Chế định kết hôn có thể đi sâu vào một vấn đề rất nhạy cảm đó là tự nguyện trong việc kết hôn, điều này thể hiện rất rõ quan điểm giới. Đặc biệt có thể khai thác yếu tố tự nguyện trong thực tiễn khi tình trạng kết hôn với người nước ngoài gia tăng đột biến trong thập niên vừa qua, hàng năm có rất nhiều phụ nữ Việt Nam kết hôn với người nước ngoài mà chủ yếu là các công dân Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc, trong đó, nguyên nhân chủ yếu của việc kết hôn này là vì mục đích kinh tế. Khi nhìn từ góc độ giới, người học sẽ thấy rõ hơn mục đích không lành mạnh của sự tự nguyện kết hôn này.

Chế định li hôn có một vấn đề khá thú vị và phù hợp nếu lồng những nội dung về giới vào quá trình nghiên cứu và giảng dạy. Đó là trường hợp hạn chế quyền yêu cầu li hôn của người chồng khi người vợ đang mang thai hoặc đang nuôi con dưới mười hai tháng tuổi. Thực chất của vấn đề sẽ được mổ xẻ, giúp người học hiểu sâu sắc vấn đề và vận dụng kiến thức một cách linh hoạt. Ngoài ra, chế định li hôn còn rất nhiều những nội dung mà có thể khai thác được dưới góc độ giới như các nguyên nhân li hôn, căn cứ li hôn, các trường hợp li hôn và hậu quả pháp lí của li hôn. Những vấn đề này có thể kết hợp với thực tiễn xét xử để thấy được một bức tranh toàn cảnh của gia đình khi không nhận thức được đầy đủ trách nhiệm về giới.

Đối với quan hệ pháp luật giữa vợ và chồng, đây là một nội dung trọng điểm, mang đậm màu sắc giới khi nghiên cứu trên hai khía cạnh quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với nhau và đối với những chủ thể khác như đối với con, cha mẹ... Những nội dung này sẽ giúp cho người học một cái nhìn toàn diện về sự bình đẳng giữa nam và nữ, giữa vợ và chồng trong gia đình cùng sự so sánh với tình trạng vi phạm quyền bình đẳng giới trên thực tế.

Trong chế định xác định cha, mẹ, con có thể đặc biệt quan tâm đến vấn đề thể hiện rất rõ kiến thức về giới đó là thiên chức của mỗi chủ thể, xuất phát từ sự khác nhau về giới tính. Trong đó tập trung khai thác quyền làm mẹ, bao gồm quyền mang thai và sinh con. Sự hiểu biết về giới trong trường hợp này là vô cùng cần thiết vì điều đó sẽ giúp nguời học hiểu sâu sắc hơn về những căn cứ, những cơ sở khoa học và thực tế của việc xác định cha, mẹ, con. Khi nghiên cứu lồng ghép vấn đề giới trong trường hợp này người học còn hiểu được những quy định của pháp luật về xác định cha, mẹ, con còn thấm đẫm tình người, mang đậm nét nhân văn sâu sắc.

Ở mỗi nội dung trên có thể lồng ghép những kiến thức về giới và khai thác triệt để dưới góc độ giới. Làm được điều này sẽ tạo nên một bức tranh sinh động về vấn đề giới trong các quan hệ hôn nhân và gia đình, giúp cho người học nhận thức một cách sâu sắc các vấn đề về hôn nhân và gia đình, từ đó tìm ra những vấn đề còn hạn chế thiếu cơ sở về giới và có hướng hoàn thiện mới. Nên chăng trong chương trình nghiên cứu và giảng dạy môn học luật hôn nhân và gia đình cần có thêm một chuyên đề “Pháp luật hôn nhân và gia đình với vấn đề giới”.

Mặt khác, để sinh viên hiểu một cách toàn diện hơn vấn đề hôn nhân và gia đình dưới góc độ giới, khi Luật về bình đẳng giới được Quốc hội thông qua, bộ môn luật hôn nhân và gia đình nên có thêm một môn giảng mới về Luật bình đẳng giới. Đây là môn học tiên quyết trước khi sinh viên bước vào nghiên cứu luật hôn nhân và gia đình và các chuyên đề chuyên sâu.

Như chúng ta đã biết, sự nhận thức về giới, về quyền và nghĩa vụ của mỗi chủ thể trong gia đình ở các vùng, miền là khác nhau. Trong thực tế tình trạng bất bình đẳng giới xảy ra phổ biến ở khắp nơi, đặc biệt là ở miền núi, nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Nguyên nhân chủ yếu là do sự hạn chế về trình độ nhận thức, cộng thêm vào đó là những phong tục, tập quán lạc hậu tồn tại như là một thuộc tính cố hữu trong các mối quan hệ ở làng xã Việt Nam. Một thực tế minh chứng cho sự bất bình đẳng về giới nữa là bạo lực trong gia đình và một trong những hậu quả của nó là dẫn tới gia đình tan vỡ. Theo con số thống kê các vụ việc về hôn nhân và gia đình trong 5 năm trở lại đây thì li hôn chiếm tỉ lệ cao nhất.

Dưới đây là số liệu thống kê giải quyết các vụ việc li hôn theo thủ tục sơ thẩm:

Nguyên nhân ly hôn 2000 2001 2002 2003 2004 2005

Mâu thuẫn gia đình, bị đánh đập, ngược đãi

29280*

92**

29120*

134**

17408*

1288**

31317*

1331**

 

37254***

 

39730***

Ngoại tình

2590*

24**

2954*

28**

 

3672*

127**

2997*

138**

3660***

4188***

Bệnh tật, không có con

658*

2**

2**

 

200*

103**

 

516*

42**

876***

 

805***

Do nghiện ma tuý, rượu chè, cờ bạc

       

1039***

 

2930***

Một bên ở nước ngoài

1216**

2307**

554**

 

1*

1232**

1476***

 

1294***

Một bên là người nước ngoài đã về nước

13*

108**  

191*

57**

2*

13**

41*

77**

   

Một bên bị mất tích

1184*

13**

1339*

229**

3108*

152**

1500*

23**

1439***

 

868***

Mâu thuẫn về kinh tế

1318*

4**

1355*

3**

3129*

41**

2118*

6**

2661***

3134***

Sắc tài, địa vị, tuổi tác

2**

 

269*

1**

2**

286*

16931***

 

Một bên bị xử lí hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự

27**

 

 

706*

8**

1571*

7**

392*

19**

 

 

 

Có vợ lẽ

116*

5**

654*

3**

2349*

51**

615*

33**

   

Tảo hôn

251*

4**

101*

2**

9*

57*

2**

   

Cưỡng bức kết hôn

58*

4*

6**

1*

18*

   

Các nguyên nhân khác

12031*

924**

14245*

116**

19471*

440**

15410*

537**

 

12638***

Tổng

47699*

2421** 

 

50938*

2896**

50920*

2778**

57786*

3430**

65336***

65587***

(Nguồn: Toà án nhân dân tối cao)

Ghi chú: *. Cấp huyện

**. Cấp tỉnh

***. Cả cấp huyện và cấp tỉnh

Qua bảng số liệu trên có thể thấy rằng Các vụ việc li hôn ngày càng gia tăng, đặc biệt là trong ba năm trở lại đây. Các nguyên nhân dẫn đến việc li hôn rất đa dạng và hầu hết các nguyên nhân đó đều liên quan tới vấn đề giới. Đặc biệt là một số nguyên nhân như ngược đãi, hành hạ, có vợ lẽ, ngoại tình, người nước ngoài đã bỏ về nước, nghiện ma tuý, rượu chè, cờ bạc. Trong đó nổi bật là li hôn do bị ngược đãi, hành hạ, chiếm tới khoảng 60% tổng số vụ việc li hôn trong từng năm. Điều đó nói lên vấn đề bất bình đẳng về giới trong gia đình vẫn còn rất phổ biến, sự bất bình đẳng đó không chỉ ảnh hưởng tới bản thân các chủ thể trong quan hệ vợ chồng mà còn cực kì nguy hiểm cho con trẻ, để lại những vết hằn khó phai mờ trong những tâm hồn non nớt của chúng, ảnh hưởng tới sự phát triển nhân cách của cả một thế hệ.

Hiện nay, môn học luật hôn nhân và gia đình là một trong những nội dung chính, mang tính chủ đạo trong các chương trình tuyên truyền kiến thức pháp luật về giới của một số các tổ chức phi chính phủ tới cộng đồng dân cư nhằm nâng cao sự hiểu biết về giới, xoá bỏ sự bất bình đẳng giới trong gia đình và cộng đồng, đặc biệt là bảo vệ quyền của phụ nữ.

Với những cơ sở lí luận và thực tiễn như trên, chúng tôi thiết nghĩ nên chăng xây dựng một khoá học ngắn hạn với chủ đề “Pháp luật hôn nhân và gia đình trên cơ sở bình đẳng giới” tới các đơn vị hành chính nhỏ nhất và đối tượng tham gia là đông đảo các thành phần xã hội, đặc biệt là nam giới, vì hiện nay nạn nhân chủ yếu của định kiến giới, bất bình đẳng giới là phụ nữ. Nếu thành phần tham gia những khoá học, những buổi tham luận, toạ đàm về giới hoặc liên quan đến giới mà thành phần chỉ toàn là phụ nữ hoặc chủ yếu là phụ nữ thì ngay trong khoá học, buổi tham luận đó đã thể hiện sự bất bình đẳng giới và hiệu quả chỉ còn là một nửa nếu không muốn nói là vô nghĩa.

Tóm lại, trong quá trình hội nhập quốc tế, vấn đề giới là vấn đề khá nhạy cảm đã và đang được sự quan tâm của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Trong lĩnh vực đào tạo luật nói chung và nghiên cứu, giảng dạy môn học luật hôn nhân và gia đình nói riêng cần được khai thác, mở rộng hướng nghiên cứu và giảng dạy mới từ góc độ giới. Đó chính là sự sáng tạo mới, một động thái tích cực không chỉ có tác động đến đối tượng người học mà còn làm cho cán bộ, giáo viên nâng cao hơn trách nhiệm của mình đối với chuyên môn và các công tác khác, chủ động, sáng tạo, tự tin để cống hiến cho sự nghiệp trồng người./.


([1]).Xem: Uỷ ban quốc gia về sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam - Dự án VIE 01-015-01 “Giới trong chính sách công” (2004), Hướng dẫn lồng ghép giới trong hoạch định và thực thi chính sách.

([2]).Xem: C. Mác - Ph. Ăngghen (tuyển tập VI) (1984), Nxb. Sự thật, H, tr. 95.

([3]).Xem: C.Mác - Ph. Ăngghen (tuyển tập VI) (1984), Nxb. Sự thật, H, tr. 106, 109.

SOURCE: TẠP CHÍ LUẬT HỌC SỐ 3/2007

Thứ Năm, 3 tháng 1, 2008

MỘT SỐ QUI ĐỊNH VỀ QUAN HỆ LAO ĐỘNG VÀ QUYỀN CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG THEO LUẬT QUAN HỆ LAO ĐỘNG BANG NEWSOUTHWARE NĂM 1996 - AUSTRALIA

Quy chế lao động và Hợp Đồng Xí Nghiệp

Uỷ Ban Quan Hệ Lao Động (Industrial Relations Commission) Tiểu Bang NSW có thể lập quy chế lao động và chuẩn y hợp đồng xí nghiệp quy định điều kiện làm việc cho nhân viên làm việc trong từng ngành.

Luật Quan Hệ Lao Động NSW 1996 (NSW Industrial Relations Act 1996) (gọi tắt là " Luật ") quy định điều kiện nhân dụng ở Tiểu Bang NSW bằng cách giao cho Uỷ Ban Quan Hệ Lao Động NSW (gọi tắt là "Uỷ Ban") nhiệm vụ lập quy chế lao động và chuẩn y hợp đồng xí nghiệp quy định điều kiện làm việc cho nhân viên làm việc trong từng ngành.

Quy chế lao động là gì?

Quy chế lao động định rõ những quyền lợi và trách nhiệm của chủ nhân và nhân viên của mỗi ngành. Có nhiều loại quy chế lao động khác nhau, áp dụng cho những ngành nghề khác nhau.

Quy chế lao động định điều kiện làm việc, như số giờ làm việc, mức lương, mức lương ngoài giờ, lương phụ trội (loading), phụ cấp, ngày nghỉ, chế độ bảo vệ chỗ làm, và việc làm bán thời hay bất thường.

Lập quy chế lao động NSW như thế nào?

Uỷ Ban lập quy chế lao động tiểu bang áp dụng ở NSW ("NSW awards" [quy chế lao động NSW]). Thường thường, Uỷ Ban lập quy chế lao động khi những tổ chức đại diện các chủ nhân ("employer organisations") hoặc nhân viên ("unions", [công đoàn]) yêu cầu Uỷ Ban lập quy chế lao động. Uỷ Ban cũng có thể lập quy chế lao động để giải quyết tranh chấp lao động.

Quy chế lao động NSW áp dụng cho những ai?

Quy chế lao động NSW áp dụng cho tất cả chủ nhân và nhân viên trong ngành nghề thuộc quy chế lao động đó, dù có góp phần vào việc lập quy chế lao động hay không. Quy chế lao động NSW nào cũng có một điều khoản nêu rõ ngành hay nghề mà quy chế lao động áp dụng.

Luật buộc chủ nhân phải trưng phó bản của tất cả những Quy chế lao động NSW liên quan ở nơi làm việc.

Còn quy chế lao động liên bang thì sao?

Quy chế lao động liên bang áp dụng cho một số nhân viên làm việc ở NSW. Có khi cả quy chế lao động liên bang lẫn quy chế lao động NSW áp dụng cho cùng một nơi làm, nhưng áp dụng cho những loại nhân viên khác nhau.

Điều kiện làm việc ghi trong quy chế lao động NSW áp dụng cho tất cả nhân viên làm việc trong ngành nghề thuộc quy chế lao động đó, trừ khi những nhân viên hưởng quy chế lao động liên bang.

Quy chế lao động liên bang nêu rõ loại nhân viên mà quy chế lao động đó áp dụng, và cũng ghi rõ những chủ nhân nào được áp dụng quy chế lao động liên bang (hoặc cho từng chủ nhân, hoặc cho từng tổ chức mà chủ nhân đó là thành viên).

Muốn có chi tiết về quy chế lao động liên bang, xin liên lạc Federal Department of Workplace Relations (Bộ Quan Hệ Lao Động và Doanh Nghiệp Nhỏ Liên Bang), số 1300 363 264.

Hợp đồng xí nghiệp là gì?

Hợp đồng xí nghiệp cũng quy định quyền lợi và trách nhiệm của chủ nhân và nhân viên trong từng loại việc cụ thể trong xí nghiệp.

Chủ nhân và nhân viên hoặc công đoàn thay mặt nhân viên ("the parties", các bên) có thể thương lượng để lập hợp đồng xí nghiệp.

Trong trường hợp có dị biệt, những điều khoản của một hợp đồng xí nghiệp có giá trị ưu tiên so với những điều khoản của quy chế lao động. Một hợp đồng xí nghiệp có thể liên quan tới một phần hay toàn bộ điều kiện làm việc áp dụng cho những nhân viên liên hệ.

Tuy nhiên, hợp đồng xí nghiệp phải tuân theo tất cả luật của NSW quy định quyền lợi và trách nhiệm về việc làm, như quyền được nghỉ nuôi con, nghỉ hàng năm, và nghỉ thâm niên.

Bất cứ hợp đồng xí nghiệp nào cũng phải lập thành văn bản và có chữ ký của các bên hay đại diện. Hợp đồng phải ghi tên các bên, và phải nêu rõ những nhân viên đối tượng của hợp đồng.

Thông thuờng, mọi hợp đồng xí nghiệp phải có hiệu lực trong khoảng thời gian nhất định từ một tới ba năm. Tuy nhiên, hợp đồng xí nghiệp tiếp tục có hiệu lực sau khoảng thời gian đó, trừ khi bị huỷ bỏ.

Hợp đồng xí nghiệp được chuẩn y như thế nào?

Có thể làm đơn nộp cho Văn Phòng Đăng Ký (Industrial Registrar) của Uỷ Ban xin chuẩn y hợp đồng. Hợp đồng xí nghiệp chỉ có hiệu lực sau khi được Uỷ Ban chuẩn y.

Khi nào Uỷ Ban chuẩn y một hợp đồng xí nghiệp?

Khi quyết định chuẩn y, Uỷ Ban phải đảm bảo là:

  • hợp đồng tuân theo tất cả những quy định của luật pháp;
  • nhìn chung, hợp đồng không làm cho nhân viên bị thiệt;
  • các bên hiểu rõ ảnh hưởng của hợp đồng;
  • các bên không bị cưỡng ép ký hợp đồng; và
  • hợp đồng không bất công loại trừ một số nhân viên nào đó.

Nhân viên có phải ký hợp đồng xí nghiệp không?

Không ai bị ép buộc ký hợp đồng xí nghiệp. Tuy nhiên, khi những nhân viên liên quan đã bỏ phiếu kín chấp thuận một hợp đồng, thì sau khi Uỷ Ban chuẩn y, hợp đồng cũng áp dụng cho cả những nhân viên đã không bỏ phiếu tán thành.

Tương tự, khi một nhân viên mới nhận chỗ làm ở một chủ nhân đã có hợp đồng xí nghiệp, thì sẽ được hưỏng hợp đồng đó trong những phần mà hợp đồng áo dụng cho công việc của mình.

Tuy nhiên, chủ nhân phải thông báo cho nhân viên mới được biết về hợp đồng đó và phải cung cấp cho nhân viên mới một bản tóm tắt hợp đồng.

Nghỉ nuôi con

Luật Quan Hệ Lao Động 1996 (Industrial Relations Act 1996) quy định chế độ tối thiểu để cho nhân viên hưởng nghỉ mẹ sinh con, cha nuôi con và nghỉ nuôi con nuôi.

Nghỉ nuôi con

Luật Quan Hệ Lao Động 1996 (Industrial Relations Act 1996) quy định ngày nghỉ tối tiểu cho nhân viên nghỉ nuôi con. Luật, quy chế lao động và hợp đồng làm việc có thể để nhân viên nghỉ nhiều hơn.

Nghỉ nuôi con là gì?

Nghỉ nuôi con là chế độ được nghỉ không lương, trừ khi quy chế lao động hay hợp đồng quy định khác. Nhân viên có thể nghỉ nuôi con dưới hình thức:

  • mẹ nghỉ, khi nhân viên có thai hoặc sinh con;
  • cha nghỉ khi vợ sinh con;
  • nghỉ khi nhận trẻ dưới 5 tuổi làm con nuôi.

Nhân viên không cần phải có hôn thú mới được nghỉ nuôi con.

Ai được hưởng nghỉ nuôi con?

Nhân viên nam nữ đều có thể được nghỉ nuôi con. Nhân viên toàn thời, bán thời hoặc bất thường được nghỉ nuôi con sau khi làm liên tục với chủ nhân của mình ít nhất 12 tháng.

Nhân viên sẽ được nghỉ nuôi con sau khi làm việc đều đặn và theo hệ thống với chủ nhân của mình ít nhất 12 tháng, và có hy vọng là tiếp tục đươc làm. Những người làm việc tạm thời khác và những người làm theo mùa không được nghỉ nuôi con.

Sau khi làm với một chủ nhân 12 tháng, thông thường nhân viên được nghỉ nuôi con mỗi lần có con.

Nhân viên được nghỉ nuôi con bao lâu?

Nhân viên được nghỉ tối đa 52 tuần lễ. Có thể nghỉ theo những cách sau đây:

  • mẹ nghỉ: một thời gian nghỉ liên tục trong lúc có thai hoặc sau khi sinh con;
  • cha nghỉ : một thời gian nghỉ liên tục nhiều nhất là một tuần lễ bắt đầu khi con ra đời (cha nghỉ ngắn ngày) và một thời gian nghỉ liên tục nữa để làm người săn sóc chính cho con (cha nghỉ dài ngày); hoặc
  • nghỉ nuôi con nuôi: một thời gian nghỉ liên tục nhiều nhất là ba tuần lễ bắt đầu khi nhận con nuôi (nghỉ ngắn ngày) một thời gian nghỉ liên tục nữa để làm người săn sóc chính cho con (nghỉ dài ngày).

Tất cả các hình thức nghỉ nuôi con phải chấm dứt trước sinh nhật thứ nhất của con hoặc ngày nhận con nuôi được một năm.

Nhân viên và vợ/chồng nhân viên không được nghỉ nuôi con cùng một lúc, trừ khi một trong hai người đang ở trong thời gian "nghỉ nuôi con ngắn ngày" hoặc "nghỉ nuôi con nuôi ngắn ngày".

Có thể bắt buộc nhân viên nghỉ nuôi con không?

Không.

Chủ nhân phải cho nhân viên biết những gì?

Khi biết nhân viên hay vợ/chồng nhân viên có thai hoặc sắp nhận con nuôi, chủ nhân phải cho nhân viên biết quyền nghỉ nuôi con và nhân viên có trách nhiệm báo cho chủ nhân ý định nghỉ của mình.

Nhân viên phải báo trước bao lâu?

Nhân viên phải:

  • thông báo ý định nghỉ bằng thư ít nhất mười tuần lễ trước ngày dự định bắt đầu nghỉ; và
  • thông báo bằng thư ngày muốn bắt đầu và chấm dứt nghỉ ít nhất bốn tuần lễ trước ngày bắt đầu nghỉ nuôi con (14 ngày trong trường hợp nghỉ nuôi con nuôi).

Trước khi nghỉ, nhân viên phải đưa giấy bác sĩ chứng nhận có thai và ngày sinh dự đoán hoặc thư báo của cơ quan chuẩn nhận con nuôi có ghi ngày nhận con nuôi.

Trước khi bắt đầu nghỉ sinh con hoặc nghỉ nuôi con dài ngày, nhân viên phải trình:

  • tờ khai danh dự ghi xin nghỉ nuôi con mà người vợ/chồng xin; và
  • tờ khai danh dự ghi nhân viên là người săn sóc chính của cháu bé (chỉ cần trong trường hợp nghỉ nuôi con dài ngày và nghỉ nuôi con nuôi dài ngày).

Nhân viên có thể đổi ý về thời gian nghỉ không?

Nhân viên có thể kéo dài thời gian nghỉ nuôi con một lần mà không cần ưng thuận của chủ nhân, nếu báo trước ít nhất 14 ngày. Muốn kéo dài nữa, thì nhân viên và chủ nhân phải thoả thuận với nhau.

Có thể rút ngắn thời gian nghỉ nuôi con nuôi nếu nhân viên báo trước ít nhất 14 ngày và chủ nhân đồng ý.

Chủ nhân có thể yêu cầu nhân viên trở lại làm việc để giúp chủ nhân không?

Nếu chủ nhân yêu cầu, nhân viên có thể ngưng nghỉ nuôi con để trở lại làm việc toàn thời, bán thời hay tạm thời. Tuy nhiên, nhân viên không bắt buộc phải theo lời yêu cầu của chủ nhân.

Nhân viên vẫn có quyền trở lại nghỉ nuôi con sau khi đã làm việc theo yêu cầu của chủ nhân. Tuy nhiên, nhân viên vẫn phải ngưng nghỉ nuôi con trước sinh nhật thứ nhất của con hoặc ngày nhận con nuôi được một năm.

Nhân viên nên yêu cầu chủ nhân ghi bằng văn thư thời gian ngưng nghỉ nuôi con để làm việc thoả thuận giữa hai bên.

Nhân viên đang nghỉ nuôi con có thể làm việc có lương không?

Chủ nhân có thể yêu cầu nhân viên không làm việc cho các chủ nhân khác khi đang nghỉ nuôi con, nếu việc làm đó mâu thuẫn với việc làm chính.

Nhân viên có được nghỉ đặc biệt vì đau ốm không?

Nếu đau ốm vì có thai trong lúc đang làm việc, nhân viên có quyền nghỉ sinh con không lương hay dùng ngày nghỉ bệnh có lương (hay dùng cả hai loại nghỉ). Phải có giấy bác sĩ.

Nếu sẩy thai, con chết hoặc không xin được con nuôi thì sao?

Nếu nhân viên chưa bắt đầu nghỉ nuôi con, thì sẽ không đựợc nghỉ nữa. Tuy nhiên, nhân viên phái nữ được hưởng "nghỉ sản phụ đặc biệt" trong một thời gian. Nếu đang nghỉ, nhân viên có thể viết thư yêu cầu chủ nhân cho trở lại làm việc. Chủ nhân phải để nhân viên trở lại làm việc trong vòng hai tuần lễ kể từ ngày nhận thư yêu cầu.

Nhân viên còn được hưởng chế độ nghỉ nào khác không?

Nhân viên có thể dùng ngày nghỉ hàng năm, nghỉ thâm niên thay cho (hay cùng với) nghỉ nuôi con. Thời gian tổng cộng của tất cả các loại nghỉ không được hơn 52 tuần lễ. Dùng ngày nghỉ bệnh khi đang nghỉ nuôi con thì không được trả lương, trừ khi chủ nhân đồng ý trả.

Nhân viên muốn nhận con nuôi được hưởng hai ngày nghỉ không lương để dự những buổi phỏng vấn bắt buộc liên quan tới việc nhận con nuôi.

Nếu nhân viên nghĩ là chỗ làm nguy hiểm thì sao?

Nếu việc đang làm nguy hiểm cho người mang thai hay nuôi con bằng sữa mẹ, chủ nhân phải điều chỉnh điều kiện hay giờ làm việc, hoặc chuyển nhân viên sang làm công việc thích hợp. Chỗ làm mới phải có chức vị và lương bổng tương tự. Bác sĩ của nhân viên phán đoán về những nguy hiểm đó.

Nếu không thể chuyển nhân viên, nhân viên phải được hưởng " nghỉ sản phụ đặc biệt ", theo yêu cầu của bác sĩ.

Nhân viên có quyền trở lại làm việc không?

Có. Nhân viên được quyền trở lại chỗ làm ngay trước khi nghỉ nuôi con. Nếu không còn chỗ làm đó, chủ nhân phải tìm cho nhân viên một chỗ làm tương đương về chức vị và lương bổng với chỗ làm trước.

Có thể sa thải nhân viên đang nghỉ nuôi con không?

Không. Sa thải nhân viên vì người ấy hay vợ/chồng nhân viên:

  • có thai hoặc xin nhận con nuôi;
  • sinh con hoặc nhận con nuôi: hoặc
  • xin hay đang nghỉ nuôi con là phạm luật.

Nhân viên cũng có thể nộp đơn khiếu nại sa thải bất công cho Uỷ Ban Quan Hệ Lao Động NSW (NSW Industrial Relations Commission).

Nghỉ nuôi con ảnh hương đến quyền lợi làm việc của nhân viên như thế nào?

Nghỉ nuôi con không làm gián đoạn thời gian thâm niên của nhân viên đối với chủ nhân. Tuy nhiên, thời gian nghỉ việc sẽ không đươc kể khi tính nghỉ thâm niên hay những loại nghỉ khác.

Phải giữ sổ sách về nghỉ nuôi con bao lâu?

Chủ nhân phải giữ sổ sách về nghỉ nuôi con ít nhất sáu năm.

Chủ nhân có được dùng nhân viên thay thế không?

Chủ nhân có thể dùng người thay thế trong thời gian nhân viên nghỉ nuôi con. Chủ nhân phải để người thay thế đó biết là việc làm chỉ có tính cách tạm thời và nhân viên đang nghỉ nuôi con sẽ trở lại chỗ làm.

Chủ nhân có được kỳ thị nhân viên nghỉ nuôi con không?

Không. Nếu cho là bị chủ nhân kỳ thị vì có thai hoặc muốn nghỉ nuôi con, nhân viên có thể khiếu nại kỳ thị với Hội Đồng Chống Ky Thị NSW (Anti-Discrimination Board of NSW) hoặc Uỷ Ban Quan Hệ Lao Động NSW (NSW Industrial Relations Commission).

Muốn biết thêm chi tiết

Tài liệu này chỉ tóm tắt một số điều khoản chọn lọc của Luật Quan Hệ Lao Động NSW 1996 (NSW Industrial Relations Act 1996). Muốn biết thêm chi tiết, xin liên lạc:

  • tổ chức chủ nhân hoặc công đoàn của Quý Vị, nếu Quý Vị là thành viên.
  • Văn Phòng Đăng Ký của Uỷ Ban Quan Hệ Lao Động (Industrial Registry)
    50 Phillip Street, Sydney, 2000
    Điện thoại (02) 9258 0866
    Website: http://www.lawlink.nsw.gov.au/
  • Bộ Quan Hệ Lao Động NSW (NSW Office of Industrial Relations)
    Điện thoại : 131 628 (tiền gọi địa phương ở NSW) Website: http://www.industrialrelations.nsw.gov.au/
  • Hội Đồng Chống Ky Thị NSW (Anti-Discrimination Board of NSW)
    Level 17, 201 Elizabeth Street, Sydney 2000
    Điện thoại : (02) 9268 5544 hoặc 1800 670 812
    Website: www.lawlink.nsw.gov.au/adb

SOURCE: http://www.industrialrelations.nsw.gov.au

Thứ Bảy, 29 tháng 12, 2007

TÍNH CÁCH VIỆT

Hãy đắp điếm nhớ thương
phủ nhiều hoa lên dĩ vãng.
Rồi biên chế ba lô cho nhẹ gánh lên đường.

1. Những đặc tính của một dân tộc không phải trời cho ngay một lúc, mà được hình thành dần trong những điều kiện đặc biệt về không gian (hay địa lý) và thời gian (hay lịch sử).
Có thể nói đặc tính nổi bật nhất của người Việt là đặc tính chống (hay tự vệ¬).
Câu hỏi Tồn tại hay không tồn tại luôn được đặt ra với chúng ta một cách bức thiết trong suốt chiều dài của lịch sử. Và chỉ riêng việc tồn tại của một nước Việt Nam trên bản đồ thế giới đã có thể coi là một kì tích.
Trải đằng đẵng hàng nghìn năm Bắc thuộc từ thuở còn trứng nước mà không bị tiệt giống (hay đồng hóa) bản thân nó đã nói lên sức sống “bất trị” của các dân tộc Việt.
Một số nước lớn có một thói quen rất du đãng của bọn xã hội đen là bắt nạt các nước yếu. Và luôn nhận vơ lãnh thổ của họ bất chấp lẽ phải và đạo lý. Việc dám “chơi nhau” tay bo với các “bố già” sừng sỏ nhất đến từ phương Bắc, từ phía mặt trời mọc, từ châu Âu và cả châu Mỹ xa xôi cho họ phơi bụng đã chứng tỏ bản lĩnh thiện chiến của “nhược tiểu” Việt Nam.
Nó được gói gọn trong hai câu ca dao tuyệt vời hào khí dưới đây:
Nực cười châu chấu đá xe
Tưởng rằng chấu nát dè đâu xe kềnh

Nếu chúng ta có một truyền thống “chống” number – one, chúng ta chưa có đủ điều kiện và thời gian để tự tạo cho mình một truyền thống “xây” cân xứng.
Hay nói như các nhà khoa học nhân văn, Việt Nam có một truyền thống tự vệ hàng đầu nhưng còn thiếu truyền thống “phát triển”. Nói thế không có nghĩa là ta không có khả năng phát triển mà chỉ có nghĩa rằng đó là một sở đoản, cần phải nỗ lực học tập, rèn luyện trường kì để biến nó thành sở trường.

2. Đã có một thời nhận xét sau đây rất được truyền tụng:
“Ta đã thắng đế quốc Mỹ thì khó khăn nào ta cũng thắng được”.
Nhận xét này không hoàn toàn sai, nhưng không đủ, và hơi vội. Đánh Mỹ oanh liệt trong chiến tranh giải phóng dân tộc và phát triển bền vững đất nước thành một quốc gia công nghiệp tiền tiến là hai việc khác nhau, đòi hỏi những kinh nghiệm khác nhau.


Xây dựng một nước Việt Nam to đẹp, đàng
hoàng phát triển cả về mặt GDP lẫn nhân phẩm.

Trong những điều kiện đã thay đổi, những ưu điểm của thời trước có thể trở thành nhược điểm thậm chí, trở ngại của thời kì sau.
Trong chiến tranh du kích, một đặc tính tối cần thiết là sự đối phó mau lẹ, một khả năng “tháo vát”, “giật gấu vá vai”, “hoạt trí” hơn là những suy tính dài hơi, có tính hệ thống. Đó là nguyên nhân chính (ở đây tôi không đề cập đến tệ tham nhũng) của những kế hoạch kinh tế vội vàng, “chụp giật” làm tốn kém tài sản nhiều khi tới mức kếch xù của nhân dân.
Một kế hoạch tốt không đòi hỏi một sự ứng phó nhanh mà đòi hỏi một suy tính bình tĩnh, bao quát, xây dựng trên những thông tin đầy đủ và những luận chứng xác đáng. Xuất phát từ một trình độ tri thức của những chuyên viên tinh thông. Vì thiếu cái khả năng này nên chúng ta thường đưa ra những kế hoạch vội vàng, “ăn đong”, phải liên tục sửa chữa, càng sửa chữa càng rối, càng nát.

3. Những tính cách của một dân tộc có thể coi là vốn xã hội của dân tộc đó, mà đã nói đến vốn, thì phải nói đến việc sử dụng vốn đó một cách tối ưu. Muốn đạt được sự tối ưu đó, cần phải xây dựng một lớp người quản lí xã hội có tri thức, nghĩa là hiểu biết dựa trên một hệ thống thông tin minh bạch và trung thực.
Không ít người thường lẫn lộn một thông tin khoa học với một thông tin quảng cáo. Ở ta, có một thói quen rất không tốt là coi những người nói về những khuyết điểm của cộng đồng là kém yêu nước hơn những người nói về ưu điểm. Người ta sẵn sàng chấp nhận những ưu điểm “ảo” và dị ứng những khuyết điểm “thật”. Trong một xã hội trung thực nói những ưu điểm “ảo”, hoang đường sai lệch nhằm những mục đích vụ lợi cần phải được phê phán nghiêm khắc như một hành động vu cáo.
Quảng cáo cần thông tin đẹp để quyến rũ, khoa học cần thông tin xác thực để hiểu biết và thức tỉnh.
Đó là hai chuyên ngành khác nhau.

4. Ai cũng biết nông dân Việt Nam nổi tiếng là cần cù, hay lam hay làm.
Chính những người nông dân cần cù này đã một thời trở thành những kẻ chây lười, tắc trách do tác động một số chính sách nông nghiệp sai lầm của chúng ta về hợp tác hóa.
Dân tộc Việt Nam là một dân tộc nổi tiếng có truyền thống hiếu học.
Chúng ta đã sử dụng vốn đó thế nào khiến nạn chạy bằng, chạy điểm, chạy lớp lan tràn khắp nước, đến mức người phụ trách cao nhất của ngành Giáo dục phải lớn tiếng kêu gọi: “Nói không với tiêu cực trong học đường”. Trong ngôn ngữ thông dụng của hoạt động kinh tế thị trường, người ta gọi đó là “buôn thua bán lỗ”, là ăn vào vốn.
Đã có một thời người ta ca ngợi tính cách “phép vua thua lệ làng”, quan hệ làng xóm “tối lửa tắt đèn”, “chín bỏ làm mười” của người Việt như một ưu điểm trong việc xây dựng một nền dân chủ của xã hội.
Phải biết rằng trong quá trình xây dựng một nhà nước pháp quyền, đó là một điều tối kị, nó dẫn đến tình trạng “trên bảo dưới không nghe”, ảnh hưởng rất xấu đến sự thực thi của pháp luật. Một xã hội văn minh phải là một xã hội có kỉ cương thông suốt từ trên xuống dưới.
Việc chấp hành kỉ luật một cách thoải mái, thân thiện với một cộng đồng làng xã có thể rất dễ chịu nhưng nó tiềm ẩn một nguy cơ rất lớn khi ta xây dựng một xã hội công nghiệp kỹ thuật cao, chẳng hạn công nghệ nguyên tử.
Một nhà báo đã nói đùa: Đứng về mặt giao thông đô thị thì Việt Nam là nước tự do nhất thế giới.
Chúng ta thường tự hào đất nước có hàng nghìn cây số bờ biển nhưng cho đến nay, chúng ta vẫn chưa xây dựng được một nền văn minh biển. Không xây dựng được một nền văn minh biển thì làm sao ra biển lớn được? Các nhà sử học đều biết rằng, biển đóng một vai trò lớn như thế nào trong việc xây dựng một nền văn minh năng động và hiện đại.
Một nhà văn hài hước đã bình luận câu hát rất phổ biến “Biển một bên và em một bên” như sau: Đó là tấn bi kịch của anh nằm giữa, quay sang Đông thì bên Tây hứ, quay sang Tây thì bên Đông hừ. Bao giờ thì chúng ta thực sự ra biển?
Mong ước đau đáu suốt đời và sau đời của Chủ Tịch Hồ Chí Minh là xây dựng một nước Việt Nam to đẹp, đàng hoàng phát  triển cả về mặt GDP lẫn nhân phẩm.
Khi nghiên cứu những tính cách của dân tộc, chúng ta nhất thiết không được đãng trí mục tiêu trên.
Cần phải thẳng thắn nhận thức rằng, muốn xây dựng một quốc gia tiên tiến chỉ có sự thông minh, tháo vát, nhiệt tình thôi không đủ. Mà cần, rất cần một cái nhìn bao quát, có hệ thống và tầm xa của tri thức.
Việc nâng cao dân trí cũng như quan trí đã trở thành một đòi hỏi sống còn, bức bách đối với sự phát triển của đất nước Việt Nam.
-----------------

Lê Đạt

SOURCE: TẠP CHÍ TIA SÁNG

Bài đăng phổ biến