Thứ Bảy, 23 tháng 2, 2008

VÍ DỤ VỀ TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ CỦA PHÁP NHÂN VỀ HÀNH VI XÂM PHẠM QUYỀN NHÂN THÂN CỦA CHỦ THỂ DÂN SỰ KHÁC

QUYẾT ĐỊNH SỐ 20/2003/HĐTP-DS NGÀY 23-06-2003 VỀ VỤ ÁN YÊU CẦU CHẤM DỨT HÀNH VI QUẢNG CÁO, TRÁI PHÁP LUẬT VÀ BUỘC XIN LỖI CÔNG KHAI


HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

.........................

Tại phiên toà ngày 23-06-2003 xét xử giám đốc thẩm vụ án yêu cầu chấm dứt hành vi quảng cáo trái pháp luật và buộc xin lỗi công khai giữa các đương sự:

- Nguyên đơn:

1. Công ty TNHH sản xuất và thương mại Vạn Thành do ông Trần Trí Lương, chức vụ Phó Giám đốc đại diện theo uỷ quyền; địa chỉ: số 213/10 C Hoà Bình, phường 19, quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh

2. Công ty TNHH sản xuất Mousse Ưu Việt do bà Lưu Thuý Châu, chức vụ Giám đốc đại diện; địa chỉ: C5/6D quốc lộ 1, Tân Kiên, Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh

3. Công ty TNHH sản xuất đồ nhựa Anh Dũng do ông Nguyễn Văn Dang, chức vụ Giám đốc đại diện; địa chỉ số 60-62 Ngô Gia Tự, phường 9, quận 10, thành phố Hồ Chí Minh

-Bị đơn: Công ty Cổ phần cao su Sài Gòn Kymdan do bà Phạm Thị Dã, chức vụ Phó Tổng giám đốc đại diện theo uỷ quyền; địa chỉ: số 28 Bình Thới, phường 14, quận 11, thành phố Hồ Chí Minh.

NHẬN THẤY :

Ngày 23-07-2001, Công ty TNHH sản xuất và thương mại Vạn Thành do ông Trần Chí Lương, chức vụ Phó giám đốc đại diện; Công ty TNHH sản xuất Mousse Ưu Việt do bà Lưu Thuý Châu, chức vụ Giám đốc đại diện và Công ty TNHH sản xuất đồ nhựa Anh Dũng do ông Nguyễn Văn Dang, chức vụ Giám đốc đại diện cùng khởi kiện yêu cầu Công ty cổ phần cao su Sài Gòn Kymdan (gọi tắt là Công ty Kymdan) phải chấm dứt hành vi quảng cáo trái pháp luật gây ảnh hưởng đến uy tín, chất lượng sản phẩm của các Công ty, phải đăng cải chính và xin lỗi công khai các nguyên đơn trên các báo mà Công ty Kymdan đã đăng trong tháng 07-2001. Các nguyên đơn không yêu cầu bồi thường thiệt hại về vật chất tinh thần vì thiệt hại thực tế không tính được.

Đại diện Công ty cổ phần cao su Sài Gòn Kymdan cho rằng: những năm gần đây, theo phản ánh của người tiêu dùng Công ty Kymdan phát hiện nhiều loại nệm giả nhãn hiệu Kymdan. Sự việc vi phạm đã được cơ quan quản lý thị trường lập biên bản xử lý. Để tránh sự nhầm lẫn gây thiệt hại cho khách hàng, Công ty Kymdan có đăng báo thông báo quảng cáo với nội dung phân tích tính đàn hồi không ưu việt của các sản phẩm nệm lò xo, nệm nhựa tổng hợp. Từ sau giải phóng đến nay, Công ty Kymdan chỉ sản xuất một loại nệm 100% cao su thiên nhiên, các sản phẩm khác không phải do Kymdan sản xuất. Công ty Kymdan không đề cập hay chỉ trích sản phẩm của đơn vị hoặc cá nhân nào. Mẫu quảng cáo của Công ty Kymdan luôn thay đổi, nên ngày 20-07-2001, Công ty Kymdan có đăng trên báo Người lao động khẳng định việc quảng cáo của Kymdan không nhằm so sánh sản phẩm nào, rất tiếc, việc Kymdan quảng cáo gây sự hiểu lầm của các công ty, Công ty Kymdan đã sử dụng nội dung quảng cáo khác. Công ty Kymdan nhận thấy quảng cáo của mình không vi phạm những điều cấm của pháp luật nên không đồng ý với yêu cầu của các nguyên đơn.

Trong quá trình giải quyết tại Toà án, đại diện Công ty TNHH sản xuất đồ nhựa Anh Dũng cho rằng quảng cáo của Công ty Kymdan không gây hiểu lầm đến sản phẩm của Công ty, Công ty xin rút yêu cầu khởi kiện.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 59/DSST ngày 25-09-2001, Toà án nhân dân quận 11 quyết định:

- Bác yêu cầu của Công ty TNHH thương mại Vạn Thành và Công ty TNHH Thương mại Ưu Việt về việc buộc Công ty cổ phần cao su Sài Gòn Kymdan phải xin lỗi công khai, đính chính trên các báo đã đăng ngày 07-07, 11-07, 14-07 năm 2001, do Công ty Kymdan không vi phạm Điều 192 Luật Thương mại của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Ghi nhận sự tự nguyện của ông Nguyễn Văn Dang đại diện cho Công ty TNHH Thương mại Anh Dũng rút yêu cầu khởi kiện.

- Án phí dân sự sơ thẩm: Ông Trần Trí Lương, đại diện cho Công ty TNHH thương mại Vạn Thành phải chịu 50.000đ, chuyển tạm ứng án phí sơ thẩm theo biên lai số 028515 thành án phí. Bà Lưu Thuý Châu đại diện Công ty TNHH thương mại Ưu Việt phải chịu 50.000đ, chuyển tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm theo biên lai số 028513 ngày 30-07-2001 thành án phí. Ông Nguyễn Văn Dang phải chịu 25.000đ án phí dân sự sơ thẩm, hoàn tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm 50.000đ theo biên lai thu số 028514 ngày 30-07-2001 cho ông Dang.

Ngày 04-10-2001, Công ty TNHH sản xuất và thương mại Vạn Thành và Công ty TNHH sản xuất Mousse Ưu Việt có đơn kháng cáo.

Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 392/DSPT ngày 22-03-2002, Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh quyết định:

Sửa một phần Bản án sơ thẩm:

- Công ty cổ phần cao su Sài Gòn Kymdan có trách nhiệm xin lỗi Công ty TNHH sản xuất thương mại Vạn Thành, Công ty TNHH sản xuất Mousse Ưu Việt về việc quảng cáo có nội dung gây hiểu lầm.

- Công ty cổ phần cao su Sài Gòn Kymdan có trách nhiệm đính chính nội dung quảng cáo đã đăng từ ngày 05-07-2001 đến ngày 14-07-2001 trên các báo Sài Gòn giải phóng, Tuổi trẻ, Phụ nữ, Người lao động, Sài Gòn tiếp thị.

Việc xin lỗi và đính chính có nội dung cụ thể như sau:

"Trong quảng cáo của Công ty cổ phần cao su Kymdan đăng trên các báo Sài Gòn giải phóng, Phụ nữ, Tuổi trẻ, Sài Gòn tiếp thị và Người lao động từ ngày 05-07-2001 đến ngày 14-07-2001 có đoạn nói về tính năng của hai sản phẩm nệm mút xốp và nệm lò xo, có chỗ chưa đầy đủ, không phù hợp, gây hiểu lầm cho người tiêu dùng đối với hai sản phẩm nệm mút xốp và nệm lò xo, ảnh hưởng đến lợi ích các doanh nghiệp sản xuất nệm mút xốp và nệm lò xo, do vậy Công ty Kymdan xin nói lại cho rõ: nệm lò xo, nệm mút xốp sản xuất đúng chất lượng tiêu chuẩn đã đăng ký và được công nhận, đều có những đặc điểm ưu việt riêng của từng sản phẩm. Công ty cổ phần cao su Sài Gòn Kymdan xin lỗi Công ty TNHH sản xuất và thương mại Vạn Thành, Công ty TNHH sản xuất Mousse Ưu Việt, do quảng cáo thông báo có nội dung hiểu lầm nói trên".

Nội dung đính chính và xin lỗi được đăng trên các trang quảng cáo của các báo Sài Gòn giải phóng 2 kỳ, Tuổi trẻ 2 kỳ, Phụ nữ 2 kỳ, Người lao động 2 kỳ, Sài Gòn tiếp thị 1 kỳ. Thời hạn đăng cải chính và xin lỗi là 1 tháng tính từ khi án có hiệu lực.

Ghi nhận sự tự nguyện của ông Nguyễn Văn Dang đại diện cho Công ty TNHH sản xuất thương mại Anh Dũng rút yêu cầu kiện, sung công 1/2 tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm của Công ty Anh Dũng là 25.000 đ, hoàn trả lại cho Công ty Anh Dũng 25.000đ tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm do đã nộp 50.000 đồng tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm theo phiếu thu số 28514 (30-07-2001) của Đội Thi hành án quận 11.

Án phí dân sự sơ thẩm 50.000đ Công ty cổ phần cao su Sài Gòn Kymdan chịu.

Hoàn trả tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm và tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm cho Công ty TNHH sản xuất thương mại Vạn Thành 1à 100.000đ do đã nộp theo các biên lai thu số 28515 ngày 30-07-2001, 28659 ngày 05-10-2001 của Đội Thi hành án quận 11. Công ty TNHH sản xuất Mousse Ưu Việt là 100.000đ do đã đóng theo các biên lai thu số 28513 ngày 30-07-2001, 28658 ngày 05-10-2001 của Đội Thi hành án quận 11.

Sau khi xét xử phúc thẩm, Công ty cổ phần cao su Sài Gòn Kymdan có đơn khiếu nại. Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh có Công văn số 352/CV-KSXXDS ngày 08-04-2002 đề nghị xem xét lại Bản án phúc thẩm dân sự theo thủ tục giám đốc thẩm.

Tại Quyết định số 44/KL-VKSTC-KSXXDS ngày 27-06-2002, Phó Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao đã kháng nghị Bản án dân sự phúc thẩm nêu trên; đề nghị Toà Dân sự Toà án nhân dân tối cao đưa vụ án ra xét xử giám đốc thẩm theo hướng: huỷ Bản án dân sự phúc thẩm số 392/DSPT ngày 22-03-2002 của Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, giữ nguyên quyết định của Bản án dân sự sơ thẩm số 59/DSST ngày 25-09-2001 của Toà án nhân dân quận 11, thành phố Hồ Chí Minh

Tại Quyết định giám đốc thẩm số 240/GĐT-DS ngày 01-11-2002, Toà Dân sự Toà án nhân dân tối cao đã quyết định:

- Sửa Bản án phúc thẩm số 392/DSPT ngày 22-03-2002 của Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xử việc yêu cầu chấm dứt hành vi quảng cáo và xin lỗi công khai.

- Buộc Công ty cổ phần cao su Sài Gòn Kymdan có trách nhiệm xin lỗi Công ty TNHH thương mại Vạn Thành và Công ty TNHH thương mại Ưu Việt về việc quảng cáo có nội dung gây hiểu lầm.

- Công ty Cổ phần cao su Sài Gòn Kymdan có trách nhiệm đính chính nội dung quảng cáo đã đăng từ ngày 05-07-2001 đến ngày 14-07-2001 trên các báo Sài Gòn giải phóng, Phụ nữ, Tuổi trẻ, Người lao động, Sài Gòn tiếp thị. Nội dung cụ thể như sau:

''Trong quảng cáo của Công ty cổ phần cao su Sài Gòn Kymdan đăng trên các báo Sài Gòn giải phóng, Tuổi trẻ, Phụ nữ, Người lao động, Sài Gòn tiếp thị từ ngày 05-07-2001 đến ngày 14-07-2001 có đoạn nói về tính năng của hai sản phẩm nệm mút xốp và nệm lò xo, có chỗ chưa đầy đủ, không phù hợp, gây hiểu lầm cho người tiêu dùng. Công ty cổ phần cao su Sài Gòn Kymdan xin lỗi Công ty TNHH sản xuất và thương mại Vạn Thành, Công ty TNHH sản xuất Mousse Ưu Việt”.

- Nội dung đính chính và xin lỗi được đăng trên các trang quảng cáo của các báo Sài Gòn giải phóng 2 kỳ, Tuổi trẻ 2 kỳ, Phụ nữ 2 kỳ, Người Lao động 2 kỳ, Sài Gòn tiếp thị 1 kỳ.

- Ghi nhận sự tự nguyện của ông Nguyễn Văn Dang đại diện cho Công ty TNHH sản xuất thương mại Anh Dũng rút yêu cầu khởi kiện.

Về án phí:

- Công ty cổ phần cao su Sài Gòn Kymdan phải nộp 50.000đ án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm và phúc thẩm cho: Công ty TNHH sản xuất và thương mại Vạn Thành là 100.000đ do đã nộp theo các biên lai thu số 28515 ngày 30-07-2001, 28659 ngày 05-10-2001 của Đội Thi hành án quận 11. Công ty TNHH sản xuất Mousse Ưu Việt là 100.000đ do đã nộp theo các biên lai thu số 28513 ngày 30-07-200l, 28658 ngày 05-10-2001 của Đội Thi hành án quận 11. Sung công 1/2 tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm của Công ty TNHH TM Anh Dũng là 25.000 đ. Hoàn trả cho Công ty TNHH TM Anh Dũng là 25.000đ tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm do đã nộp 50.000đ tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm theo biên lai số 28514 (30-07-2001) của Đội Thi hành án quận 11.

Sau khi có Quyết định giám đốc thẩm, Công ty cổ phần cao su Sài Gòn Kymdan có đơn đề nghị xem xét lại Quyết định giám đốc thẩm nêu trên.

Tại Quyết định số 44/VKSTC-V5 ngày 14-05-2003, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao đã kháng nghị Quyết định giám đốc thẩm dân sự nêu trên. Đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm theo hướng : huỷ Quyết định giám đốc thẩm 240/GĐT-DS ngày 01-11-2002 của Toà Dân sự Toà án nhân dân tối cao và Bản án dân sự phúc thẩm số 392/DSPT ngày 22-03-2002 của Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh. Giữ nguyên hiệu lực của Bản án dân sự sơ thẩm số 59/DSST ngày 25-09-2001 của Toà án nhân dân quận 11.

XÉT THẤY:

Nội dung quảng cáo của Công ty cổ phần cao su Sài Gòn Kymdan đăng trên các báo Sài Gòn giải phóng, Phụ nữ, Tuổi trẻ, Người lao động, Sài Gòn tiếp thị trong tháng 07-2001 đã sử dụng phương pháp so sánh hàng hoá của mình (nệm Kymdan được làm từ 100% cao su thiên nhiên), với hàng hoá cùng loại của thương nhân khác (trong đó có Công ty TNHH Vạn Thành và Công ty TNHH Ưu Việt) đang sản xuất nệm lò xo, nệm nhựa poly-urethane (nệm mút xốp nhẹ). Trong quảng cáo so sánh hàng hoá Công ty Kymdan đã phân tích các nhược điểm của hai loại nệm trên như sau: ''Đối với nệm lò xo: ngoài việc lực phân bố để nâng đỡ cơ thể người nằm không đều khắp bề mặt, do tính chất không ưu việt của nguyên liệu sản xuất nên chất lượng nệm sẽ giảm dần theo thời gian. Nếu độ đàn hồi của lò xo thấp (tính dẻo cao): nệm sẽ bị xẹp sau một thời gian sử dụng. Nếu độ đàn hồi của lò xo cao: lò xo có thể bị gãy, gây nguy hiểm cho người sử dụng''. “Đối với nệm nhựa tổng hợp poly- urethane (nệm mút xốp nhẹ): tính dẻo ưu việt nên không có độ đàn hồi, mau bị xẹp” và Công ty Kymdan đã khẳng định “Chính vì những lý do đó mà Kymdan hoàn toàn không sản xuất nệm lò xo cũng như nệm nhựa poly- urethane. Tất cả các sản phẩm của Kymdan được làm từ 100% cao su thiên nhiên, có độ bền cao và không xẹp lún theo thời gian”.

Như vậy, Công ty Kymdan không sản xuất hai loại nệm trên nhưng đã quảng cáo so sánh chất lượng nệm của Kymdan sản xuất với chất lượng nệm lò xo và nệm mút xốp nhẹ của các thương nhân khác sản xuất, trong đó có Công ty TNHH Vạn Thành và Công ty TNHH Ưu Việt là vi phạm các quy định của pháp luật về quảng cáo thương mại tại khoản 3 và khoản 5 Điều 192; khoản 9 Điều 257, khoản 2 Điều 258 Luật Thương mại; Điều 615, Điều 633 Bộ luật Dân sự. Vì vậy, Quyết định giám đốc thẩm số 240/GĐT-DS ngày 01-11-2002 của Toà Dân sự Toà án nhân dân tối cao buộc Công ty Kymdan phải xin lỗi các nguyên đơn và đăng cải chính công khai trên những số báo mà Công ty Kymdan đã đăng quảng cáo là có căn cứ. Tuy nhiên, Quyết định giám đốc thẩm của Toà Dân sự Toà án nhân dân tối cao chưa viện dẫn đầy đủ các điều luật cần áp dụng và một số tình tiết cần sửa lại cho chính xác và đúng pháp luật.

Bởi các lẽ trên và căn cứ vào khoản 3 Điều 77 Pháp 1ệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự; khoản 3 và 5 Điều 192, khoản 9 Điều 257, khoản 2 Điều 258 Luật Thương mại; Điều 615, Điều 633 Bộ luật Dân sự,

QUYẾT ĐỊNH :

1- Sửa Quyết định giám đốc thẩm số 240/GĐT-DS ngày 01-11-2002 của Toà Dân sự Toà án nhân dân tối cao đối với vụ án dân sự yêu cầu chấm dứt hành vi quảng cáo, xin lỗi công khai giữa Công ty TNHH sản xuất và thương mại Vạn Thành do ông Trần Chí Lương, chức vụ Phó Giám đốc đại diện; Công ty TNHH sản xuất Mousse Ưu Việt do bà Lưu Thuý Châu, chức vụ Giám đốc đại diện và Công ty TNHH sản xuất đồ nhựa Anh Dũng do ông Nguyễn Văn Dang, chức vụ Giám đốc đại điện với Công ty cổ phần cao su Sài Gòn Kymdan do bà Phạm Thị Dã, chức vụ Phó tổng giám đốc đại diện, tuyên xử:

Buộc Công ty cổ phần cao su Sài Gòn Kymdan có trách nhiệm xin lỗi Công ty TNHH sản xuất và thương mại Vạn Thành và Công ty TNHH sản xuất Mousse Ưu Việt về quảng cáo có nội dung gây hiểu lầm và phải cải chính nội dung quảng cáo đã đăng trong tháng 07 năm 2001 trên các báo Sài Gòn giải phóng, Phụ nữ, Tuổi trẻ, Người lao động, Sài Gòn tiếp thị. Nội dung cụ thể như sau:

“Trong quảng cáo của Công ty cổ phần cao su Sài Gòn Kymdan đăng trên các báo Sài Gòn giải phóng, Phụ nữ, Tuổi trẻ, Người lao động, Sài Gòn tiếp thị trong tháng 7 năm 2001 có đoạn nói về tính năng của hai sản phẩm nệm lò xo và nệm mút xốp, có chỗ chưa đầy đủ, gây hiểu lầm cho người tiêu dùng. Công ty cổ phần cao su Sài Gòn Kymdan xin lỗi Công ty TNHH sản xuất và thương mại Vạn Thành và Công ty TNHH sản xuất Mousse Ưu Việt”.

Nội dung cải chính và xin lỗi được đăng trên các trang quảng cáo của các báo Sài Gòn giải phóng 2 kỳ, Tuổi trẻ 2 kỳ, Phụ nữ 2 kỳ, Người lao động 2 kỳ, Sài Gòn tiếp thị 1 kỳ. Trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao ra Quyết định số 20/HĐTP-DS ngày 23-06-2003, Công ty cổ phần cao su Sài Gòn Kymdan phải đăng cải chính và xin lỗi Công ty TNHH sản xuất và thương mại Vạn Thành và Công ty TNHH sản xuất Mousse Ưu Việt.

Ghi nhận sự tự nguyện của ông Nguyễn Văn Dang đại diện cho Công ty TNHH sản xuất đồ nhựa Anh Dũng rút yêu cầu khởi kiện.

Về án phí:

- Công ty cổ phần cao su Sài Gòn Kymdan phải nộp 50.000đ án phí dân sự sơ thẩm.

- Hoàn trả tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm và phúc thẩm cho: Công ty TNHH sản xuất và thương mại Vạn Thành là 100.000đ do đã nộp theo các biên lai thu số 28515 ngày 30-07-2001, 28659 ngày 05- l0-2001 của Đội Thi hành án quận 11. Công ty TNHH sản xuất Mousse Ưu Việt là 100.000đ do đã nộp theo các biên lai thu số 28513 ngày 30-07-2001, 28658 ngày 05-10-2001 của Đội Thi hành án quận 11. Sung công 1/2 tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm của Công ty TNHH sản xuất đồ nhựa Anh Dũng là 25.000 đ. Hoàn trả cho Công ty TNHH Anh Dũng 25.000đ tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm do đã nộp 50.000 đ tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm theo biên lai thu số 28514 (30-07-2001) của Đội Thi hành án quận 11, thành phố Hồ Chí Minh.

Lý do sửa Quyết định giám đốc thẩm của Toà Dân sự - Toà án nhân dân tối cao.

Vì chưa viện dẫn đầy đủ các điều luật cần áp dụng.

MỘT SỐ VẤN ĐỀ XUNG QUANH VIỆC GIA HẠN NỢ

Khắc Luyện - NHCT Phú Yên

Trong quan hệ vay vốn, việc khách hàng chậm trả nợ là điều khó tránh khỏi. Vẫn biết, chậm trả nợ dẫn đến gia hạn nợ phải xuất phát từ yếu tố khách quan, song cũng có trường hợp xin gia hạn nợ lại xuất phát từ yếu tố chủ quan của chính người vay vốn. Vậy làm cách nào để nhận biết và hạn chế được tình trạng gia hạn nợ không đúng hiện nay?
Thông thường, khi người vay vốn chưa có khả năng trả được nợ đúng hạn theo cam kết đối với các tổ chức tín dụng (TCTD) trong các hợp đồng tín dụng thì họ phải làm đơn xin gia hạn nợ để có thời gian thu hồi vốn từ người mua hàng (gọi là thu hồi công nợ), hoặc tiếp tục đẩy mạnh bán hàng hoá tồn kho để có tiền trả nợ cho các TCTD. Trước đây, các TCTD quy định thời gian cho gia hạn trả nợ đối với khách hàng vay vốn tối đa bằng một chu kỳ sản xuất, kinh doanh nhưng không quá 12 tháng đối với cho vay ngắn hạn và bằng 1/2 thời gian vay vốn đối với cho vay trung hạn và dài hạn (Quyết định 284/2000/QĐ-NHNN1 ngày 25/8/2000 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam). Hiện nay, theo Quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước thì các TCTD được phép cho khách hàng gia hạn thêm thời gian trả nợ. Đối với vay ngắn hạn thời gian tối đa là 12 tháng, đối với cho vay trung hạn và dài hạn tối đa bằng 1/2 thời gian cho vay đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng. Trường hợp khách hàng đề nghị gia hạn nợ quá các thời gian này do nguyên nhân khách quan và tạo điều kiện cho khách hàng có khả năng trả nợ thì Chủ tịch Hội đồng quản trị hoặc Tổng Giám đốc (giám đốc) TCTD xem xét quyết định và báo cáo ngay NHNN Việt Nam sau khi thực hiện. Như vậy, việc các TCTD cho khách hàng vay vốn được gia hạn thêm thời gian trả nợ là để tạo điều kiện cho khách hàng có khả năng trả nợ cho các TCTD. Và thực tế đã có không ít khách hàng sau khi được các TCTD cho gia hạn trả nợ không những đã trả được hết nợ mà còn tiếp tục sản xuất, kinh doanh có lãi. Như vậy, chủ trương cho gia hạn trả nợ của các TCTD là hoàn toàn đúng đắn. Tuy nhiên, hiện nay, việc áp dụng, vận dụng gia hạn trả nợ tại một số ít TCTD còn chưa thống nhất, cần phải xem xét lại từ cả hai phía (khách hàng và ngân hàng). Đối với khách hàng, ngoài trừ những người chưa trả được nợ phải xin gia hạn, vẫn còn không ít những khách hàng chỉ vì không muốn phải đi lại để làm thủ tục vay tiền, mặc dù tiền vay họ đã thu đủ nhưng không muốn trả nợ vay đúng hạn nên đã làm đơn xin gia hạn. Còn đối với các TCTD, có một số ít cán bộ làm công tác tín dụng đã không thực hiện tốt vai trò trách nhiệm trước công việc được giao. Họ nhận đơn và đề xuất gia hạn nợ không chính xác. Vì đúng ra họ chỉ được phép đề xuất giải quyết cho gia hạn nợ sau khi đã đi kiểm tra thực tế đối với khách hàng chưa trả được nợ, có đơn xin gia hạn, đúng là do yếu tố khách quan và chỉ nên cho gia hạn với khoảng thời gian vừa đủ không nhất thiết cứ phải cho gia hạn đủ 12 tháng đối với cho vay ngắn hạn. Thực tế thời gian cho vay chỉ là 6 tháng nhưng đến khi gia hạn lại là 12 tháng.
Từ thực tế trên, thiết nghĩ các TCTD cần phải chấn chỉnh lại cách giải quyết cho gia hạn nợ đối với khách hàng hiện nay. Được biết đã có một số ít TCTD rất cương quyết trong vấn đề gia hạn nợ vay, như buộc khách hàng phải trả hết nợ rồi mới cho vay lại mà không giải quyết cho gia hạn nợ. Đây có thể cũng là một phương pháp hay, bởi không những chỉ thể hiện tình hình tài chính tốt trên cân đối của TCTD mà còn tạo được tính sòng phẳng trong quan hệ vay vốn đối với khách hàng. Nhưng đằng sau việc trả được nợ đúng hạn ấy là gì, hậu quả của nó ra sao? Đối với nhóm khách hàng chỉ vì ngại đi lại để làm thủ tục vay tiền thì không sao. Nhưng đối với nhóm khách hàng thực sự chưa thể trả được nợ vì lý do khách quan, nếu TCTD buộc họ phải trả hết nợ rồi cho vay lại nợ mới thì họ phải đi vay nóng từ những người cho vay nặng lãi hay đi vay của TCTD khác để trả nợ cho TCTD đã cho vay, việc làm này không những chỉ gây khó khăn cho chính khách hàng vay vốn mà ngay cả các TCTD cũng khó tránh khỏi. Để thực hiện cho vay, gia hạn và thu hồi nợ vay đạt hiệu quả. Các TCTD nên thường xuyên chỉ đạo cán bộ làm công tác tín dụng thực hiện một cách nghiêm túc các quy định đã được Thống đốc NHNN ban hành./.

SOURCE: http://www.icb.com.vn/?id=075279&page=8&sheet=1&c=94&m=94

Thứ Sáu, 22 tháng 2, 2008

MỘT SỐ KHÍA CẠNH PHÁP LÝ VỀ CHỦ THỂ THÀNH LẬP CÔNG TY TNHH MỘT THÀNH VIÊN

THS. NGUYỄN VĂN HÙNG -  ĐH Luật TP.Hồ Chí Minh

Công ty TNHH một thành viên là loại hình doanh nghiệp mới ở nước ta. Địa vị pháp lý của nó được quy định từ Điều 46 đến Điều 50 chương IV của Luật Doanh nghiệp (Luật DN). Kể từ thời điểm Luật DN có hiệu lực đến nay, loại hình doanh nghiệp này đã thực sự đi vào các lĩnh vực hoạt động của nền kinh tế, thỏa mãn phần nào nhu cầu của một số chủ thể trong việc lựa chọn hình thức đầu tư, góp phần vào việc đa dạng hóa các quan hệ kinh tế trong điều kiện từng bước hoàn thiện cơ chế thị trường theo thông lệ quốc tế cho nền kinh tế nước ta. Tuy nhiên, qua thực tiễn áp dụng chế định pháp luật này, một số quy định liên quan đến việc thành lập doanh nghiệp cũng như một số vấn đề về quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp đã thể hiện một số điểm bất hợp lý. Bên cạnh đó còn có một số quan điểm cho rằng việc công nhận sự tồn tại của loại hình doanh nghiệp này, đặc biệt là trong trường hợp luật cho phép một cá nhân cũng có quyền thành lập doanh nghiệp sẽ triệt tiêu loại hình doanh nghiệp tư nhân (DNTN). Nói cách khác, quy định này có thể làm thay đổi tính chất pháp lý đặc thù của DNTN từ tính chất “chịu trách nhiệm vô hạn” thành tính chất “chịu trách nhiệm hữu hạn”. Vì vậy, chế định pháp luật này có thể phá vỡ đặc điểm truyền thống của DNTN cũng như làm thay đổi tính chất riêng của loại hình công ty TNHH.

Những điều trên đã đặt ra yêu cầu cần phải có sự nghiên cứu một cách có hệ thống, nhằm xác định các cơ sở về lý luận cũng như thực tiễn cho sự tồn tại lâu dài của hình thức doanh nghiệp này; đồng thời nêu lên những điểm bất cập trong các quy của pháp luật về địa vị pháp của nó; từ đó có phương hướng hoàn thiện. Hiện nay, khi các cơ quan hữu quan đang tích cực soạn thảo Dự thảo Luật DN (thống nhất) và Luật Đầu tư (chung) thì việc hoàn thiện chế định pháp luật về công ty TNHH một thành viên càng có ý nghĩa quan trọng trong nỗ lực chung nhằm hoàn thiện môi trường pháp luật kinh doanh ở Việt Nam.1

1. Cơ sở lý luận và thực tiễn cho sự hiện diện của loại hình công ty TNHH một thành viên

Khi bàn về tính chất pháp lý của loại hình công ty này, nhiều ý kiến cho rằng việc cho phép một cá nhân cũng có quyền thành lập công ty TNHH một thành viên là một sự bất hợp lý. Đó là việc một số cá nhân có quyền sở hữu riêng một công ty nhưng lại chỉ chịu TNHH về các hoạt động của mình, trong khi đó một số cá nhân khác lại phải chịu trách nhiệm vô hạn cho các hoạt động của cùng một hình thức sở hữu2. Một số ý kiến khác lại cho rằng: mặc dù về mặt hình thức, DNTN và công ty TNHH một thành viên (trong trường hợp một cá nhân có quyền thành lập) đều do một người làm chủ sở hữu nhưng đây là hai loại hình doanh nghiệp khác nhau với những ưu điểm và hạn chế riêng, do vậy chúng vẫn có thể cùng tồn tại trong một nền kinh tế. Bên cạnh đó hai loại hình doanh nghiệp này vẫn tồn tại những khác biệt về bản chất: DNTN là một đơn vị kinh doanh do một cá nhân bỏ vốn ra thành lập và làm chủ, cá nhân này vừa là chủ sở hữu, vừa là người sử dụng tài sản, đồng thời cũng là người quản lý hoạt động của doanh nghiệp, còn công ty TNHH một thành viên là một doanh nghiệp do một tổ chức làm chủ sở hữu và chủ sở hữu chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn điều lệ của mình 3.

Việc thừa nhận một cá nhân có quyền thành lập công ty TNHH một thành viên sẽ tạo điều kiện cho các DNTN có thể chuyển thành công ty TNHH, hoặc các nhà đầu tư có thể lựa chọn hình thức công ty TNHH một thành viên để kinh doanh ngay từ khi thành lập doanh nghiệp.

Có thể nói đây là một quy định phù hợp với thực tế, thể chế hóa kịp thời các mối quan hệ mới phát sinh trong lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh của một nền kinh tế, tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động của công ty, phát huy được thế mạnh của loại hình doanh nghiệp này đồng thời vẫn bảo đảm được sự quản lý của các cơ quan quản lý nhà nước. Quy định này có thể được xem là sự thể chế hóa “quyền tự do kinh doanh” đã được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1992, vì quyền tự do lựa chọn hình thức kinh doanh là một yếu tố quan trọng của quyền tự do kinh doanh. Ngoài ra, quy định này còn có ý nghĩa góp phần làm đa dạng hóa các hoạt động kinh doanh, làm phong phú thêm các nhân tố với tư cách là các chủ thể độc lập trong một nền kinh tế.

Trên thực tế, trong tổng số các doanh nghiệp được thành lập với mô hình công ty TNHH có từ hai thành viên trở lên có không ít doanh nghiệp về thực chất là sự biến hóa của hình thức công ty TNHH một thành viên. Điều này có nghĩa là ngay từ khi thành lập, công ty chỉ có một thành viên đích thực, còn các thành viên khác và số vốn góp của họ hoàn toàn chỉ mang tính hình thức. Để lý giải cho nguyên nhân của hành vi này có thể có nhiều ý kiến khác nhau, tuy nhiên các quan điểm đều thống nhất rằng hiện tượng “ lách luật” này xuất phát từ tâm lý chung của các nhà đầu tư. Đó là tâm lý muốn tự mình điều hành hoạt động kinh doanh của công ty, không muốn phân chia lợi nhuận nhưng lại muốn chỉ chịu trách nhiệm về hoạt động của công ty trong phạm vi phần vốn góp vào công ty, tức là chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn bằng số vốn họ đem vào hoạt động kinh doanh. Trong nền kinh tế thị trường với nhiều cơ hội kinh doanh phát triển nhưng cũng có không ít những rủi ro, phức tạp, việc quy định hình thức công ty TNHH một thành viên với những lợi thế của nó đã đáp ứng được nguyện vọng của nhiều nhà đầu tư. Điều này sẽ tạo nên động lực giúp cho những người có tiềm năng về vốn, có khả năng về kinh doanh mạnh dạn bỏ vốn, bỏ công sức đầu tư vào nhiều lĩnh vực khác nhau từ đó góp phần tạo nên một môi trường kinh doanh sống động, giải phóng lực lượng sản xuất, tạo đà phát triển cho một nền kinh tế. Chính yếu tố chỉ “chịu trách nhiệm hữu hạn” đối với các hoạt động sản xuất kinh doanh đã làm cho các nhà đầu tư cảm thấy an tâm hơn trên thương trường khi mà họ biết các yếu tố rủi ro sẽ được phân tán, điều kiện này giúp các nhà đầu tư vẫn có khả năng giữ lại một số vốn để làm lại từ đầu khi hoạt động kinh doanh của họ gặp thất bại.

Ngược lại nếu không quy định hình thức công ty TNHH một thành viên do một cá nhân thành lập vì lo ngại hiện tượng lợi dụng kẽ hở của pháp luật, tiến hành xin thành lập công ty, thực hiện các giao dịch như: ký hợp đồng, vay vốn và hậu quả cuối cùng là thua lỗ mà chỉ chịu TNHH về các hoạt động này thì việc đó sẽ làm ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế. Trên thực tế, như đã phân tích, vẫn tồn tại rất nhiều chủ thể về hình thức là công ty TNHH có từ hai thành viên trở lên nhưng bản chất lại do một cá nhân làm chủ, hiện tượng này hiện nay trở nên khá phổ biến và nó nằm ngoài tầm kiểm soát của các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế. Hơn nữa các cơ quan quản lý nhà nước sẽ gặp rất nhiều khó khăn khi giải quyết các hậu quả phát sinh từ hoạt động của loại hình doanh nghiệp này, bởi vì bản thân nó không có sự thống nhất về hình thức và nội dung pháp lý. Do vậy, việc cho phép một cá nhân được thành lập công ty TNHH một thành viên là giải pháp tốt nhất cho vấn đề này. Thực tế phát triển nền kinh tế thị trường hàng trăm năm qua đã chứng minh rằng: một hoạt động kinh doanh đã tồn tại trên thực tế đáp ứng được nhu cầu của xã hội, được xã hội thừa nhận thì phải được pháp luật ghi nhận và điều chỉnh, tức là nó phải được luật định4, ngược lại nếu như các cơ quan quản lý nhà nước áp dụng các biện pháp ngăn cấm hoặc hạn chế thì các hoạt động này dễ có khuynh hướng đi vào hoạt động ngầm và nằm ngoài tầm kiểm soát của nhà nước. Như vậy chúng ta có thể thấy rằng những yếu tố tích cực từ việc quy định hình thức công ty TNHH một thành viên đã vượt xa những yếu tố tiêu cực có thể có phát sinh từ hoạt động của loại hình doanh nghiệp này.

2. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện chế định công ty TNHH một thành viên

Quyền kinh doanh là một trong những quyền cơ bản về kinh tế của con người. Một xã hội được coi là tiến bộ nếu nó thừa nhận quyền của tất cả mọi người có cơ hội kiếm sống bằng công việc do họ tự do lựa chọn, nhà nước có nghĩa vụ thi hành các biện pháp để bảo vệ quyền này, trong đó bao gồm việc thực hiện các chính sách và các biện pháp kinh tế, nhằm phát triển vững chắc nền kinh tế xã hội, bảo đảm các quyền tự do cơ bản về kinh tế của từng cá nhân công dân5. Xuất phát từ những cơ sở đó, việc hoàn thiện những quy định pháp luật về công ty TNHH một thành viên là một vấn đề có ý nghĩa quan trọng trong quá trình hoàn thiện pháp luật về luật công ty ở nước ta. Đó chính là sự triệt để tôn trọng và bảo đảm quyền tự do kinh doanh của công dân, tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi và hỗ trợ cho khu vực kinh tế tư nhân phát triển.

Việc pháp luật bổ sung thêm loại hình công ty TNHH một thành viên vào hệ thống các loại hình doanh nghiệp đã có ở Việt Nam là một bước phát triển mới trong quá trình từng bước hoàn thiện pháp luật về luật công ty. Để loại hình doanh nghiệp này ngày càng phát triển, phát huy được những ưu điểm của nó trong việc thu hút ngày càng nhiều các nhà đầu tư vào các hoạtđộng kinh doanh, chế định này cần phải được hoàn thiện.

Thứ nhất: Nên cho phép một cá nhân có quyền thành lập công ty TNHH một thành viên. Trong quá trình soạn thảo dự thảo Luật DN (thống nhất) một vấn pháp lý được đặt ra cho hình thức công ty TNHH một thành viên là: Có nên cho phép một cá nhân thành lập loại hình công ty này hay không? Đây là một vấn đề còn có nhiều ý kiến khác nhau, trong đó có ý kiến cho rằng việc cho phép một cá nhân thành lập công ty TNHH một thành viên sẽ triệt tiêu loại hình DNTN. Tuy nhiên, như đã phân tích, ngoài sự khác biệt cơ bản về bản chất việc thừa nhận này còn có ý nghĩa xa hơn là nó đảm bảo được quyền lựa chọn hình thức kinh doanh của các nhà đầu tư, góp phần đa dạng hóa các hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế. Hơn nữa khi nói về một chủ thể kinh doanh là nói về trách nhiệm đối với hành vi mà nó thực hiện và người thành lập công ty phải gánh chịu nó đến mức độ nào. Yêu cầu chịu trách nhiệm của người thành lập công ty giống nhau về tính chất, khác nhau về mức độ (trách nhiệm hữu hạn hay vô hạn). Do vậy vấn đề chính của việc cho phép hay không cho phép cá nhân thành lập loại hình công ty này hoàn toàn không nằm ở tính chất chịu trách nhiệm vô hạn hay hữu hạn của công ty mà vấn đề chính là khả năng quản lý nhà nước đối với loại hình doanh nghiệp này6, vì trên thực tế đây là một loại hình doanh nghiệp tiềm ẩn nhiều khả năng lừa đảo trong các hoạt động kinh doanh. Vì vậy việc cho phép thành lập công ty TNHH một thành viên phải kèm theo một số thủ tục như khai báo định kỳ hoặc là chứng nhận lý lịch; nói cách khác, cần phải nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước đối các họat động sản xuất kinh doanh, đặc biệt là đối với loại hình công ty TNHH một thành viên.

Thứ hai: Bảo đảm quyền tự do lựa chọn hình thức kinh doanh trong trường hợp chủ sở hữu công ty chuyển toàn bộ vốn điều lệ cho một cá nhân.

Theo khoản 2 Điều 110 của Luật DN thì chủ sở hữu công ty TNHH một thành viên được chuyển nhượng toàn bộ vốn điều lệ cho một cá nhân khác; trong trường hợp này Luật quy định công ty TNHH một thành viên phải chuyển sang hoạt động theo hình thức DNTN. Đây là một quy định chưa hợp lý của Luật DN về công ty TNHH một thành viên. Trên thực tế các cá nhân khi nhận chuyển nhượng toàn bộ vốn điều lệ thì đều mong muốn được kinh doanh dưới hình thức TNHH như bản thân doanh nghiệp này đang hoạt động, vì vậy việc Luật quy định họ phải chuyển sang loại hình DNTN với tính chất chịu trách nhiệm vô hạn khi họ mua lại vốn góp đã không phản ánh được quyền lựa chọn hình thức kinh doanh của nhà đầu tư và quan trọng hơn là nó đã không phản ánh được mục đích, ý nghĩa mà Luật DN đã đề ra là: “Góp phần phát huy nội lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đẩy mạnh công cuộc đổi mới kinh tế, bảo đảm quyền tự do bình đẳng trước pháp luật trong kinh doanh của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư, tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước đối với các hoạt động kinh doanh”7.

Mặt khác, nếu một cá nhân được phép thành lập công ty TNHH một thành viên thì việc đó cũng sẽ giúp cho việc chuyển đổi hình thức sở hữu của các chủ thể kinh doanh được linh hoạt hơn, đặc biệt là trong trường hợp khi toàn bộ vốn của một công ty TNHH vì nhiều lý do khác nhau được tập trung vào một thành viên duy nhất hoặc khi một công ty TNHH có hai thành viên trở lên trong quá trình hoạt động chỉ còn lại một thành viên cũng không phải giải thể hay đăng ký kinh doanh lại dưới một hình thức khác.

Luật về công ty của các nước trên thế giới - trong đó có một số nước ban hành luật công ty TNHH, Luật công ty cổ phần riêng hoặc một số nước ban hành Luật công ty chung - đều không có sự phân biệt nhà đầu tư trong hay ngoài nước, không phân biệt tư nhân hay nhà nước và cũng không phân biệt thể nhân hay pháp nhân. Tất cả đều có quyền lựa chọn hình thức kinh doanh để đầu tư, nếu công ty TNHH được lựa chọn thì họ áp dụng luật công ty TNHH, còn nếu công ty cổ phần được lựa chọn thì họ áp dụng theo luật công ty cổ phần. Các hệ thống pháp luật này không áp đặt luật áp dụng đối với nhà đầu tư mà ngược lại các nhà đầu tư tự nguyện lựa chọn hình thức kinh doanh mà pháp luật quy định để áp dụng. Đối với những nước có quy định về loại hình công ty TNHH một thành viên thì cả hai loại  chủ thể là cá nhân và tổ chức đều có quyền đứng ra thành lập loại hình công ty này8.

Tóm lại, việc quy định một cá nhân có quyền thành lập và làm chủ một công ty TNHH một thành viên là một yêu cầu khách quan và cần thiết trong việc xây dựng các chế định về Luật kinh doanh hiện nay. Đây là một quy định không những có ý nghĩa trong việc bảo vệ quyền lợi của các nhà đầu tư mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho công tác quản lý nhà nước trong họat động kinh doanh. Khi cả cá nhân và tổ chức đều có quyền thành lập công ty TNHH một thành viên thì các ưu điểm của loại hình doanh nghiệp này sẽ được các nhà đầu tư tận dụng một cách công khai hợp pháp, đồng thời các điểm tiêu cực của nó cũng sẽ dễ dàng được nhận biết; từ đó góp phần tạo ra một môi trường kinh doanh lành mạnh, minh bạch, tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế. Đây là một nhân tố góp phần phát triển nền kinh tế nước ta theo cơ chế kinh tế thị trường phù hợp với thông lệ quốc tế; trong đó điều mấu chốt là thúc đẩy khu vực kinh tế tư nhân phát triển, thực hiện quyền bình đẳng kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế, xóa bỏ các đặc quyền (phi lý) của các doanh nghiệp nhà nước9, khuyến khích các doanh nghiệp kinh doanh trong các lĩnh vực đòi hỏi công nghệ cao và tri thức, hoàn chỉnh hệ thống pháp luật về kinh tế theo chuẩn mực của kinh tế thị trường.

Chú thích:

1 Xem: Ban pháp chế Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI), Nghiên cứu rà soát các văn bản pháp luật về tổ chức, thành lập và hoạt động của Doanh nghiệp, TP.HCM tháng 02 năm 2005, mục II, 2.1.

2 Xem: Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương, Đánh giá tổng kết Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân, Hà Nội năm 2000.

3 Xem: Nguyễn Văn Thông, Tìm hiểu Luật Doanh nghiệp và các văn bản hướng dẫn thi hành, Nxb Thống kê năm 2001,tr. 57.

4 Xem: Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Kinh tế, Nxb Công an nhân dân , tr.9

5 Xem: Vũ Quốc Tuấn, Doanh nghiệp và doanh nhân trong nền kinh tế thị trường, Nxb chính trị Quốc gia, năm 2001.tr.344.

6 Xem: Nguyễn Ngọc Bích, Bản góp ý dự thảo Luật Doanh nghiệp (thống nhất), Hội thảo tại TP.HCM ngày 11/4/2005.

7 Xem: Lời nói đầu, Luật Doanh nghiệp ngày 12/06/1999.

8 Legal information institute – corporation: an overview – http/www.law.cornell.edu/topics/corporation.

9 Xem: Phan Đình Diệu, Một số suy nghĩ về con đường tiếp tục đổi mới của đất nước ta, Viện Đại học Quốc gia Hà Nội, tháng 12/2000. (www.vnn.vn).

Thứ Năm, 21 tháng 2, 2008

MỘT SỐ Ý KIẾN VỀ HOẠT ĐỘNG HÒA GIẢI VỤ ÁN DÂN SỰ Ở THỦ TỤC SƠ THẨM

THS. ĐẶNG THANH HOA  - Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh

Hòa giải trong tố tụng dân sự, nguyên tắc đặc trưng của ngành luật Tố tụng dân sự, đã được tiếp tục ghi nhận và hoàn thiện tại Bộ luật Tố tụng dân sự 2005 (BLTTDS). Việc quán triệt, củng cố và phát triển nguyên tắc hòa giải trong tố tụng dân sự đã góp phần đưa Tòa án về đúng vị trí và vai trò của mình khi giải quyết các tranh chấp dân sự (tranh chấp “tư”), đó chính là vai trò trung gian, trọng tài, giải quyết các tranh chấp dân sự trên nền tảng sự chủ động thỏa thuận của đôi bên đương sự. Chúng tôi hoàn toàn thống nhất với quan điểm và ghi nhận của BLTTDS về vấn đề này. Bởi lẽ, các tranh chấp về dân sự phần lớn được hình thành trên cơ sở bình đẳng, thỏa thuận của chính các chủ thể trong quan hệ đó (khái niệm tranh chấp dân sự được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm: các tranh chấp phát sinh từ quan hệ pháp luật dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại, lao động). Vì vậy, một khi có xảy ra tranh chấp thì không ai khác mà chính các chủ thể này phải tiến hành thương lượng để đi đến thống nhất nhằm hóa giải các mâu thuẫn, tranh chấp và Toa án chỉ phải ra quyết định giải quyết các tranh chấp một khi các bên không thể thỏa thuận được với nhau. Cũng chính vì vậy, quyền hòa giải - thỏa thuận của các đương sự được thực hiện xuyên suốt trong quá trình tố tụng dân sự từ lúc Tòa án thụ lý vụ án dân sự, trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, cho đến khi mở phiên tòa sơ thẩm và cả trong thủ tục phúc thẩm... Song song đó, nhiệm vụ và quyền hạn của Tòa án cũng đã được BLTTDS quy định cụ thể đối với hoạt động hòa giải: nguyên tắc tiến hành hòa giải (Điều 180); thông báo về phiên hòa giải (Điều 183); nội dung hòa giải, biên bản hòa giải và việc ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự (Điều 185, 186, 187),...

Hoạt động hòa giải theo quy định của BLTTDS hiện nay có thể khái quát bằng 3 hoạt động chính: Hoạt động chuẩn bị phiên hòa giải; hoạt động tiến hành phiên hòa giải và hoạt động ra quyết định công nhận sư thỏa thuận của các đương sự (sơ thẩm) hoặc ra bản án phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm công nhận sự thỏa thuận của đương sự (phúc thẩm). Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi chỉ đề cập quy định của BLTTDS về thủ tục hòa giải trước khi mở phiên tòa sơ thẩm bao gồm các hoạt động tiến hành phiên hòa giải và hoạt động ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự. Trên cơ sở giới thiệu và phân tích các quy định của pháp luật có liên quan, chúng tôi nêu lên một số ý kiến như những gợi ý cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc soạn thảo và ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành BLTTDS:

1. Hoạt động tiến hành hòa giải: Được quy định cụ thể tại các Điều 184, 185 và 186 BLTTDS.

Điều 184 BLTTDS xác định cụ thể thành phần phiên hòa giải, bao gồm: “1. Thẩm phán chủ trì phiên hòa giải.

2. Thư ký Tòa án ghi biên bản hòa giải.

3. Các đương sự hoặc người đại diện hợp pháp của các đương sự...”

Việc xác định cụ thể Thẩm phán phải tham gia hoạt động hòa giải với vai trò là “người chủ trì” phiên hòa giải đã chấm dứt một thực tế thường thấy trước đây: các Tòa án đã để cho thư ký tiến hành hoạt động hòa giải giữa các đương sự. Giải thích vì sao lại có thực trạng này? Có thể xuất phát từ nhiều lý do khách quan và chủ quan khác nhau nhưng nguyên nhân quan trọng nhất chính là pháp luật về tố tụng dân sự, tố tung kinh tế và tố tụng lao động trước đây đều không có quy định về vấn đề này. BLTTDS đã kịp thời bổ sung và khắc phục được sai sót trên. Về mặt lý luận, đây là một quy định phù hợp với bản chất của hoạt động hòa giải - một hoạt động đòi hỏi người tiến hành phải có kinh nghiệm giải quyết các tranh chấp cũng như những am hiểu nhất định về lĩnh vực cần hòa giải - hơn ai hết Thẩm phán chính là người thỏa mãn các điều kiện đó. Ngoài ra, kết quả của hoạt động hòa giải thành sẽ làm chấm dứt hoạt động tố tụng đối với một vụ án bằng quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự. Cùng với các loại quyết định khác được ra trước khi mở phiên tòa như quyêt định đình chỉ, tạm đình chỉ giải quyết vụ án, quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự, theo quy định của BLTTDS chỉ có Thẩm phán mới có thẩm quyền ra các loại quyết định này. Bên cạnh đó, việc BLTTDS xác định Thư ký Tòa án là “người ghi biên bản hòa giải” cũng đã cho thấy nhà làm luật xác định bắt buộc phải có sự tham gia đầy đủ và hỗ trợ lẫn nhau trong công việc của những người tiến hành tố tụng quan trọng trong việc giải quyêt vụ án nói chung và trong hoạt động hòa giải nói riêng đó là Thẩm phán và Thư ký Tòa án. Quy định này một mặt vừa đảm bảo nâng cao trình độ, nghiệp vụ cho các thư ký qua việc học hỏi kinh nghiệm giải quyết vụ án dân sư từ Thẩm phán mặt khác góp phần nâng cao hiệu quả thành công của các phiên hòa giải do có sự phân công, hỗ trợ công việc hợp lý. Tuy nhiên, thực tế tại các Tòa án việc thực hiện triệt để quy định này còn gặp nhiều khó khăn khi mà lực lượng Thẩm phán, Thư ký Tòa án còn quá mỏng so với lượng án dân sự quá lớn cùng với áp lực công việc về giải quyết vụ án dân sự đúng thời hạn do luật định là những vấn đề nhất thiết phải được quan tâm và tháo gỡ. Thực trạng hiện nay đã có Tòa án trong hoạt động hòa giải vụ án dân sự chỉ cho một Thẩm phán tiến hành chủ trì đồng thời cũng là người ghi biên bản hòa giải hoặc chỉ cho Thư ký tòa án tiến hành và sau đó Thẩm phán bổ sung chữ ký của mình vào biên bản hòa giải. Chúng tôi cho rằng đó là những giải pháp tình thế vì nhiều lý do áp lực công việc, thói quen áp dụng quy định theo các pháp lệnh trước đây,... nhưng chắc chắn các Thẩm phán hoặc Thư ký tòa án đều nhận thức đây là những hoạt động trái với quy định của pháp luật. Theo chúng tôi không thể chấp nhận được một khi đã có sự quy định hết sức cụ thể tại BLTTDS nhưng làm thế nào để xóa bỏ tình trạng nói trên, đây là một câu hỏi đồng thời cũng là một thách thức đối với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền làm sao mau chóng xây dựng lực lượng cán bộ Tòa án dày về lượng và mạnh về chất để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của công việc hết sức đặc thù này: giải quyết vụ án dân sự vì quyền lợi của các đương sự.

Ngoài chủ thể là người tiến hành tố tụng trong thành phần của phiên hòa giải, Điều 184 còn đề cập đến các chủ thể thuộc nhóm những người tham gia tố tụng, đặc biệt là đương sự - chủ thể chính của quan hệ pháp luật có tranh chấp. Tiếp đến, người đại diện của đương sự trong trường hợp họ là đại diện hợp pháp theo pháp luật tố tụng dân sự và người phiên dịch nếu đương sự không biết tiếng Việt. Tuy nhiên, tại điều luật này đã không thấy đề cập đến “người bảo vệ quyền lợi cho đương sự” - một chủ thể cũng được quyền và có nghĩa vụ tham gia vào phiên hòa giải. Nội dung này được ghi nhận tại khoản 3 Điều 64 BLTTDS quy định về quyền và nghĩa vụ của người bảo vệ quyền lợi cho đương sự. Cần có văn bản hướng dẫn xác nhận lại sự tham gia của họ trong thành phần phiên hòa giải nhằm tránh việc áp dụng pháp luật một cách máy móc khi thực tế có Tòa án không cho phép người bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự tham gia vào phiên hòa giải chỉ vì Điều 184 BLTTDS không quy định. Ít nhiều việc áp dụng pháp luật như trên đã làm hạn chế việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chính các đương sự trong vụ án.

Điều 186 quy định về biên bản hòa giải:

“1. Việc hòa giải được Thư ký tòa án ghi vào biên bản. Biên bản hòa giải phai có nội dung sau đây:

a/ Ngày, tháng, năm tiến hành phiên hòa giải;

b/ Địa điểm tiến hành phiên hòa giải;

c/ Thành phần tham gia phiên hòa giải;

d/ Ý kiến của các đương sự hoặc người đại diện hợp pháp của các đương sự;

đ/ Những nội dung đã được đương sự thỏa thuận, không thỏa thuận.

2. Biên bản hòa giải phải có đầy đủ chữ ký hoặc điểm chỉ của các đương sự có mặt trong phiên hòa giải, chữ ký của Thư ký tòa án ghi biên bản và của Thẩm phán chủ trì phiên hòa giải.

Khi các đương sự thỏa thuận được với nhau về vấn đề phải giải quyết trong vụ án dân sự thì Tòa án lập biên bản hòa giải thành. Biên bản này được gửi cho các đương sự tham gia hòa giải.

Liên quan đến quy định về biên bản hòa giải chúng tôi có một số ý kiến sau:

- Có tất cả bao nhiêu biên bản hòa giải đối với một vụ án dân sự?

Ý kiến thứ nhất cho rằng chỉ cần lập một biên bản hòa giải ghi nhận tất cả các nội dung theo quy định là phù hợp và giản tiện. Nếu các đương sự thỏa thuận được với nhau thì phần kết của biên bản sẽ xác định nội dung: “Biên bản hòa giải này có giá trị như một biên bản hòa giải thành là căn cứ để Tòa án ra quyết định công nhận sự thỏa thuận cho các đương sự theo quy định của BLTTDS”. Ngược lại, nếu các đương sự không thỏa thuận được thì đây là biên bản hòa giải không thành và làm cơ sở cho Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử theo quy định của pháp luật. Như vậy, Tòa án chỉ cần ghi nhận tất cả những nội dung theo quy định tại khoản 1 Điều 186 và trên cơ sở đó xác định biên bản hòa giải không thành này làm căn cứ cho việc ra quyết định đưa vụ án ra xét xử.

Ý kiến thứ hai xác định cần thiết phải lập hai loại biên bản hòa giải là biên bản hòa giải ghi nhận tất cả các diễn tiến của phiên hòa giải và biên bản thứ hai là biên bản hòa giải thành, nếu trong trường hợp các đương sự thỏa thuận được với nhau. Nội dung của loại biên bản thứ hai chỉ ghi nhận những gì đương sự thỏa thuận được với nhau và biên bản này Tòa án sẽ gửi cho các đương sự.

Căn cứ đoạn cuối khoản 2 Điều 186, theo chúng tôi phải hiểu quy định này theo hướng: lập hai loại biên bản hòa giải chỉ xảy ra khi các đương sự thỏa thuận được với nhau vì việc ghi nhận bằng một biên bản hòa giải trong trường hợp này mặc dù rất giản tiện và gọn nhẹ nhưng sẽ không đáp ứng các diễn tiến của những phiên hòa giải - là cơ sở để xác định việc hòa giải tiến hành có đúng với nguyên tắc mà pháp luật quy định hay không. Mặt khác, biên bản hòa giải thành phải được gửi cho các đương sự để họ có thời gian suy nghĩ và thay đổi ý kiến (nếu có); trên cơ sở các đương sự không có sự thay đổi ý kiến Tòa án mới ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự.

Với trường hợp hòa giải không thành, Thẩm phán chỉ lập một loại biên bản làm cơ sở để Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Riêng những vụ án dân sự không tiến hành hòa giải được theo quy định của pháp luật (Điều 182), Thẩm phán cũng chỉ lập một loại biên bản làm cơ sở để ra một trong các quyết định tố tụng khác nhau theo quy định của BLTTDS (nội dung này được phân tích ở phần sau của bài viết).

- Biên bản hòa giải đối với vụ án ly hôn có gì khác biệt đối với biên bản hòa giải trong các vụ án dân sự khác?

Hiện vấn đề này cũng chưa được hướng dẫn cụ thể. Xuất phát từ tính đặc thù của vụ án ly hôn, cũng như thực tiễn các Tòa án tại Thành phố Hồ Chí Minh đã áp dụng, chúng tôi kiến nghị hướng dẫn việc lập biên bản hòa giải đối với các vụ án ly hôn sẽ có những đặc thù nhất định về tên gọi và nội dung ghi nhận. Dựa vào mục đích của hoạt động hòa giải trong vụ án ly hôn là để “vợ chồng đoàn tụ”, từ đo có thể xảy ra các trường hợp cụ thể sau đây:

+ Một là, sau khi được tòa án tiến hành hòa giải hai vợ chồng đã đồng ý đoàn tụ. Tòa án cần lập 2 loại biên bản hòa giải trong trường hợp này là: Biên bản hòa giải chung ghi lại diễn tiến của các phiên hòa giải và biên bản hòa giải đoàn tụ thành. Từ đây Tòa án mới có cơ sở cho việc ra quyết định hòa giải đoàn tụ thành.

+ Hai là, nếu hai bên vợ chồng đều đồng ý ly hôn cũng như thỏa thuận được tất cả các vấn đề còn lại trong quan hệ hôn nhân đó theo quy định của LHNGĐ 2000 Tòa án ngoài việc lập biên bản hòa giải chung ghi phần diễn tiến và tại phần kết luận phải ghi nhận việc hòa giải đoàn tụ không thành thì cần lập tiếp loại biên bản thứ hai là biên bản công nhận sự thuận tình ly hôn. Đây là cơ sở để Tòa án ra quyết định công nhận sự thuận tình ly hôn tương tự trường hợp ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sư theo quy định của pháp luật.

+ Ba là, trường hợp các bên không thỏa thuận được một trong các nội dung của quan hệ HNGĐ mặc dù đã chấp nhận ly hôn hoặc chỉ một bên vợ hoặc chồng đồng ý ly hôn thì Tòa án lập duy nhất biên bản hòa giải và ghi nhận tại cuối biên bản việc không thỏa thuận được hoặc hòa giải đoàn tụ không thành. Biên bản này làm cơ sở cho tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử.

Tóm lại, biên bản hòa giải là một loại văn bản hết sức quan trọng của Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án dân sự. Trên cơ sở về hình thức và nội dung biên bản hòa giải Tòa án mới tiếp tục hoàn tất các thủ thục cần thiết cho việc ra một trong các quyết định tố tung khác: Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự hoặc quyết định đưa vụ án ra xét xử. Nhất thiết Tòa án tối cao cần quy định cụ thể có bao nhiêu loại biên bản cũng như mẫu biên bản thống nhất cho hoạt động này. Ngoài ra, một chi tiết nhỏ cần thiết bổ sung đó là quy định về việc ký tên của người đai diện cho đương sự (nếu có) vào biên bản hòa giải vì đây là chủ thể đã được xác định tại thành phần phiên hòa giải (Điều 184).

2. Hoạt động ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự: Được quy định tại các Điều 187 và 188 BLTTDS.

Khoản 1 và 2 Điều 187 quy định:

“1. Hết thời hạn bảy ngày kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành mà không có đương sự nào thay đổi ý kiến về sự thỏa thuận đó thì Thẩm phán chủ trì phiên hòa giải hoặc một thẩm phán được Tòa án phân công ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự...

2. Thẩm phán chỉ ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự nếu các đương

sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án...” (Điều 187).

Việc không ghi nhận hậu quả pháp lý nếu các đương sự thay đổi ý kiến về sự thỏa thuận trước đó tại khoản 1 Điều 184 là hợp lý vì điều khoản này chỉ quy định việc “ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự”. Nhưng trong tất cả các điều khoản còn lại của BLTTDS đều không ghi nhận hậu quả trên là thiếu sot cần thiết phải bổ sung hướng dẫn thực hiện. Trước đây trong quy định của PLTTGQCVADS có quy định rất rõ tại khoản 2 Điều 44 “... Nếu trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành mà có đương sự thay đổi ý kiến... thì Tòa án đưa vụ án ra xét xử”. Tại các Tòa án hiện nay cũng đang áp dụng như quy định của PLTTGQCVADS, chúng tôi cho rằng việc áp dụng như vậy là phù hợp tuy nhiên cần thiết nội dung trên phải được hợp pháp hóa bởi một văn bản hướng dẫn cụ thể BLTTDS có giá trị pháp lý. Nội dung văn bản này cần ghi nhận cách giải quyết các biên bản đã lập trước đó khi đương sự thay đổi ý kiến để lưu vào hồ sơ vụ án (biên bản hòa giải, biên bản hòa giải thành...).

Quy định tại khoản 2 Điều 187 về việc thẩm phán chỉ ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự nếu họ thỏa thuận được với nhau về toàn bộ vụ án. Nhưng thế nào là thỏa thuận toàn bộ vụ án? Có quan điểm nêu: chỉ ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự nếu họ thỏa thuận được mọi vấn đề trong vụ án kể cả việc thỏa thuận mức án phí mà mỗi bên phải đóng. Quan điểm khác thì cho rằng chỉ cần đương sự thỏa thuận được với nhau về các quan hệ pháp luật đang tranh chấp, không cần thiết phải thỏa thuận về mức án phí của mỗi bên vì chuyện đó sẽ do Tòa án quyết định. Theo chúng tôi dù chấp nhận quan điểm nào cũng cần có hướng dẫn cụ thể, bởi lẽ không phải tất cả các đương sự đều am hiểu pháp luật mà nhất là quy định của pháp luật về án phí. Nên quy định thống nhất: trong mọi trường hợp tại phiên hòa giải Thẩm phán cần giới thiệu và giải thích cho đương sự biết về khoản tiền án phí mà họ nộp nếu hòa giải thành hoặc phải đưa vụ án ra xét xử. Từ đó Thẩm phán hướng dẫn cho các đương sự thương lượng về phần án phí các bên nhận nộp. Nếu như các đương sự vẫn không thỏa thuận được mà yêu cầu Tòa án quyết định mức án phí cho mỗi bên theo quy định của pháp luật thì cần hướng dẫn cho phép Tòa án ghi nhận ngay nội dung này tại biên bản hòa giải thành và trong quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự sau đó. Tránh trường hợp chỉ vì các đương sự không thỏa thuận được mà Tòa án phải mở phiên tòa xét xử chỉ để quyết định về vấn đề án phí.

Thủ tục hòa giải khi trong một vụ án co nhiều đương sự:

Khoản 3 Điều 184 quy định: “Trong một vụ án có nhiều đương sự, mà có đương sự vắng mặt trong phiên hòa giải nhưng các đương sự có mặt vẫn đồng ý tiến hành hòa giải và việc hòa giải đó không ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt thì Thẩm phán tiến hành hòa giải giữa các đương sự có mặt; nếu các đương sự đề nghị hoãn phiên hòa giải để có mặt tất cả các đương sự trong vụ án thì Thẩm phán phải hoãn phiên hoa giải”.

Khoản 3 Điều 187 quy định: “Trong trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 184 của Bộ luật này mà các đương sự có mặt thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án thì thỏa thuận đó chỉ có giá trị đối với những người có mặt và được Thẩm phán ra quyết định nếu không ảnh hưởng đến quyền lợi của đương sự vắng mặt. Trong trường hợp thỏa thuận của họ ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt thì thỏa thuận này chỉ có giá trị và được Thẩm phán ra quyết định công nhận nếu được đương sự vắng mặt tại phiên hòa giải đồng ý bằng văn bản”.

Khoản 3 Điều 184 đã xác định Thẩm phán chỉ tiến hành hòa giải khi thỏa mãn cả hai điều kiện: một là các đương sự có mặt vẫn đồng ý tiến hành hòa giải và hai là việc hòa giải đó không ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự. Chúng tôi cho rằng việc quy định điều kiện thứ hai là không cần thiết. Bởi lẽ làm thế nào để xác định có hay không việc hòa giải ảnh hưởng quyền và nghĩa vụ của đương sự vì lúc này việc thỏa thuận giữa các đương sự chưa xảy ra. Ngoài ra, nếu ghi nhận điều kiện này tất yếu sẽ loại trừ việc các đương sự có mặt thỏa thuận với nhau ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt – nội dung quy định tại khoản 3 Điều 187. Cũng tại khoản 3 Điều 187 cho thấy pháp luật không cấm các đương sự có mặt thỏa thuận các nội dung ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ của đương sự vì nếu có ảnh hưởng đến quyền lợi của các đương sự vắng mặt thì Thẩm phán sau khi tiến hành hòa giải phải gửi biên bản hòa giải cho đương sự vắng mặt để lấy ý kiến của họ về vấn đề đa hòa giải.

Tiếp theo, tại đoạn cuối khoản 2 Điều 184 quy định nếu các đương sự đề nghị hoãn phiên hòa giải để có mặt tất cả các đương sự trong vụ án thì Thẩm phán phải hoãn phiên hòa giải. Theo chúng tôi, trường hợp này nên giải thích rõ chỉ cần một trong các đương sự yêu cầu hoãn hay phải tất cả các đương sự có mặt yêu cầu thì Thẩm phán mới hoãn phiên hòa giải? Việc hoãn này được diễn ra bao nhiêu lần, có khống chế số lần hay không? Liên quan việc hoãn phiên hòa giải chúng tôi muốn đề cập đến quy định tại Điều 182 về những trường hợp không hòa giải được và hậu quả pháp lý cho từng trường hợp. Cụ thể sẽ hoãn phiên hòa giải hay đưa vụ án ra xét xử? Nhiều y kiến cho rằng nếu không tiến hành hòa giải được thì Thẩm phán phải ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Theo chúng tôi mặc dù Điều 182 không quy định hậu quả pháp lý cụ thể cho từng trường hợp hòa giải không được nhưng điều này đã được ghi nhận tại các điều luật khác của BLTTDS. Cụ thể: Nếu rơi vào trường hợp quy định tại khoản 1 thì áp dụng quy định của khoản 2 Điều 60 và khoản 2 Điều 200, Thẩm phán ra quyết định đưa vụ án ra xét xử; đối vơi trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 182: Thẩm phán hoãn phiên hòa giải một lần sau đó nếu đương sự vẫn vắng mặt có lý do chính đáng thì tùy thuộc đương sự đó là ai mà Thẩm phán ra quyết định cho phù hợp (Ví dụ: nếu đương sự là bị đơn triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì khi đó đã rơi vào khoản 1 Điều 182 và thẩm phán sẽ đưa vụ án ra xét xử; còn nếu người vắng mặt là nguyên đơn thì đây là căn cứ để Thẩm phán ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án dân dự theo quy định tại khoản e Điều 192...). Riêng với trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 182 theo chúng tôi Thẩm phán sẽ ra quyết định đưa vụ án ra xét xử.

Trở lại với quy định tại khoản 2 Điều 187, với vụ án có nhiều đương sự mà mỗi đương sự có yêu cầu độc lập với các đương sự khác trong vụ án, khả năng xảy ra trường hợp vừa có quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự có mặt hòa giải thành, vưa có quyết định đưa vụ án ra xét xử với những đương sự vắng mặt. Quy định trên có mâu thuẫn với quy định của BLTTDS tại khoản 2 Điều 179? Khi mà Tòa án chỉ được “...ra một trong các quyết định...”, có nghĩa là chỉ có thể có một trong hai quyết định nêu trên đối với một vụ án. Vấn đề này, theo chúng tôi, cần cân nhắc khi hướng dẫn áp dụng...

SOURCE: TẠP CHÍ KHOA HỌC PHÁP LÝ SỐ 4/2005

VẤN ĐỀ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT HỢP ĐỒNG KINH TẾ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

TS. BÙI NGỌC CƯỜNG - Chủ nhiệm Khoa Luật Kinh tế, Trường Đại học Luật Hà Nội

Ở nước ta Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế ra đời từ những năm đầu của thời kỳ quá độ sang kinh tế thị trường tạo cơ sở pháp lý cho việc ký kết hợp đồng kinh tế, đã có tác dụng thúc đẩy các hoạt động kinh tế phát triển. Tuy nhiên, pháp lệnh này cho tới nay vẫn chưa một lần được sửa đổi, bổ sung đã bộc lộ nhiều bất cập. Những bất cập đó ngày càng gia tăng cùng việc Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật quan trọng nhằm tạo dựng môi trường pháp lý thuận lợi cho các hoạt động sản xuất, kinh doanh như: Bộ luật Dân sự, Luật Thương mại, Luật Doanh nghiệp… Những quy định bất hợp lý trong pháp luật về hợp đồng kinh tế đã “đóng khung” các hoạt động kinh doanh vốn dĩ hết sức mềm dẻo, linh hoạt, năng động và nhiều tính sáng tạo. Trong điều kiện mới, pháp luật về hợp đồng kinh tế không những không tạo được sự điều chỉnh pháp lý thuận lợi hơn cho việc giao kết và thực hiện hợp đồng mà còn gây những trở ngại, thậm chí là thiệt hại về kinh tế cho các chủ thể. Chính vì vậy mà vấn đề hoàn thiện pháp luật về hợp đồng phục vụ cho hoạt động kinh doanh đang được đặt ra hết sức bức xúc.

Hoàn thiện chế định này, theo chúng tôi phải giải quyết được hai vấn đề: Một là, mô hình pháp luật về hợp đồng phải được thiết kế như thế nào? Hai là, hệ thống các văn bản pháp luật hiện hành về hợp đồng phải được hoàn thiện như thế nào cho phù hợp với mô hình đó?

1. MÔ HÌNH PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG

Trong nền kinh tế thị trường có cần tiếp tục duy trì khái niệm hợp đồng kinh tế và hệ thống văn bản pháp luật quy định riêng về nó hay không?

Đây là một vấn đề hết sức phức tạp, được tranh luận gay gắt và là nguyên nhân chính làm chậm tiến trình hoàn thiện pháp luật về hợp đồng kinh tế.

Xung quanh vấn đề này có nhiều quan điểm trái ngược. Có quan điểm cho rằng không cần thiết phải phân biệt hợp đồng kinh tế với hợp đồng dân sự bởi hai loại hợp đồng này hoàn toàn giống nhau về bản chất pháp lý. Mọi hợp đồng, dù được ký kết nhằm phục vụ cho nhu cầu kinh doanh hay sinh hoạt, tiêu dùng đều là hợp đồng dân sự và chịu sự điều chỉnh chung của Bộ luật Dân sự. Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế đã hoàn thành sứ mạng lịch sử của mình. Ưu điểm lớn nhất của quan điểm này là tính đơn giản trong việc áp dụng pháp luật, khắc phục tình trạng “sự bất cập về luật nội dung đã dẫn đến sự xung đột trong pháp luật tố tụng”(1).

Ngược lại, có quan điểm cho rằng cần tiếp tục phân biệt rõ hợp đồng kinh tế với hợp đồng dân sự bởi hai loại hợp đồng này tuy thống nhất với nhau ở bản chất của hợp đồng, ở tính chất hàng hóa – tiền tệ nhưng nghĩ cho cùng, “chúng không đồng nhất với nhau mà có những đặc điểm khác nhau”(2 ). Hai loại hợp đồng này khác nhau ở hai điểm cơ bản là mục đích và chủ thể của hợp đồng: mục đích phục vụ của hợp đồng kinh tế là kinh doanh tìm kiếm lợi nhuận, chủ thể của hợp đồng kinh tế phải là người kinh doanh. Những người theo quan điểm duy trì khái niệm hợp đồng kinh tế cho rằng việc phân biệt hợp đồng kinh tế với hợp đồng dân sự có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc. Theo Tiến sĩ Hoàng Thế Liên thì “hợp đồng sản xuất – kinh doanh đặt ra nhiều yêu cầu đặc thù mà Bộ luật Dân sự chưa thể đáp ứng một cách đầy đủ”(3). Còn Tiến sĩ Dương Đăng Huệ cho rằng “nên duy trì khái niệm hợp đồng kinh tế bên cạnh khái niệm hợp đồng dân sự nhằm tạo điều kiện cho việc điều chỉnh chúng một cách tốt hơn, có hiệu quả hơn”(4). Hơn nữa, ở Việt Nam đang tồn tại hệ thống cơ quan tài phán trong kinh doanh gồm Tòa án kinh tế và Trọng tài (phi Chính phủ) và việc duy trì khái niệm hợp đồng kinh tế tạo nhiều thuận lợi cho việc phân định rành mạch thẩm quyền của các cơ quan tài phán trong việc giải quyết tranh chấp hợp đồng. Tuy nhiên, để đáp ứng những yêu cầu mới của nền kinh tế thị trường, cần thay đổi một số quan niệm về hợp đồng kinh tế liên quan đến chủ thể, mục đích và hình thức của hợp đồng; xây dựng các tiêu chí cụ thể, đơn giản và minh bạch để phân biệt hợp đồng kinh tế với hợp đồng dân sự; xác định rõ mối quan hệ giữa hợp đồng kinh tế với hợp đồng dân sự để áp dụng phối hợp các văn bản pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng.

Việc tiếp tục duy trì khái niệm hợp đồng kinh tế dẫn tới nhu cầu phải hoàn thiện pháp luật về hợp đồng kinh tế. Về hình thức văn bản của pháp luật hợp đồng kinh tế lại có nhiều ý kiến khác nhau. Có ý kiến cho rằng chỉ cần sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh hợp đồng kinh tế năm 1989 cho phù hợp với các yêu cầu mới. Lại có ý kiến cho rằng phải xây dựng và ban hành Luật về hợp đồng kinh tế. Tuy nhiên, các ý kiến đều thống nhất với nhau trong việc xác định phạm vi điều chỉnh của pháp luật về hợp đồng kinh tế (đã được hoàn thiện) ở chỗ: trong văn bản này chỉ nên quy định những vấn đề mang tính đặc thù của hợp đồng kinh tế mà thôi, còn những vấn đề chung về hợp đồng có thể áp dụng các quy định trong Bộ luật Dân sự.

Chúng tôi cho rằng mặc dù quan hệ hợp đồng kinh tế (loại quan hệ hợp đồng mang yếu tố tài sản được xác lập giữa các chủ thể kinh doanh với nhau hoặc với người liên quan để phục vụ cho hoạt động của các bên) tồn tại khách quan trong thực tiễn kinh doanh nhưng không nhất thiết phải duy trì khái niệm hợp đồng kinh tế trong pháp luật thực định và bởi vậy không cần duy trì hệ thống văn bản pháp luật riêng quy định về hợp đồng kinh tế, dù dưới hình thức này hay hình thức khác. Quan điểm này được xây dựng trên cơ sở lý luận và thực tiễn sau:

Thứ nhất: Khái niệm hợp đồng kinh tế và pháp luật về hợp đồng kinh tế ra đời trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung từ nhu cầu điều chỉnh pháp luật đối với những quan hệ hợp đồng đặc thù được xác lập giữa các đơn vị kinh tế XHCN với nhau nhằm thực hiện những chỉ tiêu, pháp lệnh của Nhà nước. Quan hệ hợp đồng này khác hẳn quan hệ hợp đồng dân sự truyền thống bởi nó hàm chứa yếu tố tổ chức – kế hoạch rất sâu sắc; còn yếu tố thỏa thuận như một thuộc tính cơ bản của hợp đồng lại hết sức mờ nhạt. Cơ chế kinh tế thị trường với sự đề cao quyền tự do kinh doanh, tự do khế ước đã trả lại cho hợp đồng kinh tế ý nghĩa đích thực của nó là sự thỏa thuận giữa các chủ thể trên cơ sở tự nguyện. Nhà nước không can thiệp trực tiếp vào quan hệ hợp đồng kinh tế mà bằng chính sách, pháp luật tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi, lành mạnh, trong đó mọi đơn vị, cá nhân làm kinh doanh được tự do thể hiện ý chí của mình khi tham gia quan hệ hợp đồng. Việc ký kết và thực hiện hợp đồng hoàn toàn xuất phát từ lợi ích riêng biệt của các chủ thể.

Trong điều kiện như vậy, hợp đồng kinh tế và hợp đồng dân sự thống nhất với nhau ở bản chất, đều là sự thỏa thuận trên cơ sở tự nguyện của các chủ thể nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ dân sự và ở tính chất hàng hóa – tiền tệ. Các tiêu chí về chủ thể, mục đích và hình thức của hợp đồng để phân biệt hợp đồng kinh tế với hợp đồng dân sự không còn mang nhiều ý nghĩa và nhiều trường hợp là gượng ép. Chủ thể của hợp đồng kinh tế (pháp nhân, cá nhân có đăng ký kinh doanh) cũng chính là chủ thể của hợp đồng dân sự; hình thức của hợp đồng kinh tế (bằng văn bản) cũng chính là một trong các hình thức của hợp đồng dân sự; mục đích của hợp đồng kinh tế (kinh doanh thu lợi nhuận) nghĩ cho cùng cũng trùng với mục đích của hợp đồng dân sự, bởi vì các tổ chức, cá nhân khi tham gia quan hệ hợp đồng đều nhằm thỏa mãn nhu cầu nào đó của mình và do các bên trong hợp đồng kinh tế thường là các chủ thể kinh doanh với hoạt động chính là kinh doanh bởi vậy hợp đồng kinh tế có mục đích kinh doanh, còn các bên trong hợp đồng dân sự thường không phải là các chủ thể kinh doanh nên hợp đồng dân sự không có mục đích này. Mặt khác, Bộ luật Dân sự khi định nghĩa về hợp đồng dân sự hoàn toàn không đề cập gì đến mục đích của hợp đồng dân sự.

Thứ hai: Xu thế hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới đặt ra yêu cầu phải dần xóa bỏ sự khác biệt không cần thiết trong pháp luật quốc gia so với luật pháp và tập quán thương mại quốc tế, nhất là trong lĩnh vực pháp luật về hợp đồng.

Ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, nhìn chung không có khái niệm hợp đồng thương mại, hợp đồng kinh doanh hay gọi như chúng ta là hợp đồng kinh tế. Pháp luật của các nước Anh, Mỹ, các nước chịu ảnh hưởng của truyền thống luật Anh – Mỹ, Ý, Hà Lan, Thụy Sĩ… không biết đến khái niệm thương nhân (thương gia) và giao dịch thương mại và không có sự phân biệt giữa hợp đồng thương mại với hợp đồng dân sự. Mọi hợp đồng, bất luận được ký kết để phục vụ cho hoạt động kinh doanh hay chỉ để phục vụ cho mục đích sinh hoạt, tiêu dùng của công dân đều chịu sự điều chỉnh pháp luật thống nhất. Tuy vậy, không có nghĩa là trong pháp luật của các quốc gia này hoàn toàn không có những quy định riêng về các chủ thể kinh doanh và những giao dịch họ thực hiện trong khuôn khổ hoạt động kinh doanh của mình. Ví dụ: Hoa Kỳ có Bộ luật Thương mại thống nhất Hoa Kỳ (Uniform Commercial Code – UCC) năm 1958, trong đó có nhiều quy định về nhà kinh doanh và những giao dịch do người này xác lập, thực hiện như các quy định về điều kiện bán hàng, nghĩa vụ bảo hành hàng hóa của người bán, việc chuyển giao quyền sở hữu đối với hàng hóa mua bán; Anh có Luật về bán hàng (Sale of Goods Act) năm 1893 và được sửa đổi căn bản vào năm 1980 quy định về một số nghĩa vụ riêng của người bán; Thụy Sĩ có Luật nghĩa vụ năm 1883 được sửa đổi, bổ sung căn bản vào năm 1911 và được coi là cuốn thứ V của Bộ luật Dân sự, trong đó có nhiều quy định về mua bán thương mại; Bộ luật Dân sự Ý năm 1942 cũng có nhiều quy định về các giao dịch mang tính chất thương mại như về hợp đồng vay mượn và các giao dịch trong lĩnh vực tín dụng, ngân hàng.

Các nước theo truyền thống luật Đức – La Mã như Đức, Pháp, Tây Ban Nha, Bỉ, các nước châu Mỹ – Latinh… thừa nhận sự tồn tại độc lập của luật thương mại bên cạnh luật dân sự. Pháp luật của các nước này có khái niệm thương nhân (thương gia) và có sự phân biệt hoạt động thương mại và hoạt động dân sự. Bộ luật thương mại Đức phân biệt hành vi thương mại (Handelgeschaft) với hành vi dân sự. Bộ luật thương mại Nhật Bản cũng đưa ra khái niệm giao dịch thương mại (commercial transactions) và liệt kê những giao dịch được coi là giao dịch thương mại. Bộ luật thương mại Pháp cũng phân biệt hành vi thương mại (Actes de commerce) với hành vi dân sự và liệt kê các hành vi được coi là hành vi thương mại. Sự phân biệt hành vi thương mại với hành vi dân sự dẫn đến hệ quả là: 1/ Đối với hành vi thương mại sẽ ưu tiên áp dụng luật thương mại, những gì luật thương mại không quy định thì áp dụng luật dân sự và 2/ những tranh chấp phát sinh từ hành vi thương mại có thể được giải quyết bằng Tòa án chuyên trách – Tòa án thương mại. Tuy có sự phân biệt như vậy nhưng các quốc gia này cũng chỉ quan niệm giao dịch thương mại là một dạng riêng của giao dịch dân sự mà thôi và trong pháp luật thực định của các quốc gia đó hoàn toàn không có khái niệm hợp đồng thương mại hay hợp đồng kinh doanh dạng “commercial contract”. Các quy định của Bộ luật Dân sự được áp dụng chung cho việc ký kết và thực hiện mọi loại hợp đồng.

Các quốc gia có nền kinh tế chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường như Liên bang Nga và Cộng hòa nhân dân Trung Hoa cũng có những biến chuyển to lớn trong tư duy pháp lý về hợp đồng kinh tế. Khi Liên bang Nga ban hành Bộ luật Dân sự mới vào năm 1994 thì cuộc tranh luận kéo dài nhiều năm xung quanh sự tồn tại độc lập của ngành kinh tế bên cạnh ngành luật dân sự cũng chấm dứt với thất bại của những người theo trường phái Luật kinh tế. Thuật ngữ Luật kinh doanh được coi là sự thay thế chính thức cho thuật ngữ Luật kinh tế cũng chỉ được hiểu là tập hợp những văn bản pháp luật thuộc nhiều ngành luật khác nhau, điều chỉnh hoạt động kinh doanh(5 ).

Trong bối cảnh như vậy, thuật ngữ hợp đồng kinh tế không còn tồn tại. Mọi hợp đồng, dù được ký kết để phục vụ cho nhu cầu kinh doanh hay sinh hoạt, tiêu dùng đều được gọi chung là hợp đồng và chịu sự điều chỉnh chung của Bộ luật Dân sự(6 ).

Ở Trung Quốc trước đây cũng có khái niệm hợp đồng kinh tế. Thậm chí có tới ba đạo luật khác nhau quy định về loại hợp đồng này: Luật hợp đồng kinh tế (ban hành năm 1981 và được sửa đổi về cơ bản năm 1993), Luật hợp đồng kinh tế đối ngoại (năm 1985) và Luật hợp đồng kỹ thuật (năm 1987). Ngoài ra trong Luật dân sự cơ bản (năm 1986) cũng có nhiều quy định về hợp đồng. Với những văn bản pháp luật chồng chéo như vậy, việc ký kết và thực hiện hợp đồng gặp rất nhiều khó khăn. Trước tình hình đó, cuối năm 1993, Trung Quốc chủ trương xây dựng Luật hợp đồng thống nhất. Qua nhiều lần dự thảo, ngày 15/3/1999 Luật Hợp đồng nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa được thông qua. Luật này có hiệu lực áp dụng cho mọi quan hệ hợp đồng, dù phát sinh từ hoạt động kinh doanh hay sinh hoạt, tiêu dùng.

Qua việc nghiên cứu pháp luật về hợp đồng của một số quốc gia tiêu biểu cho các truyền thống pháp luật có tầm ảnh hưởng rộng lớn trên thế giới và các quốc gia có điều kiện kinh tế – xã hội gần gũi với Việt Nam có thể rút ra kết luận sơ bộ như sau: 1/ Trong pháp luật thực định của các nước trên thế giới không có khái niệm hợp đồng thương mại, hợp đồng kinh doanh với nội hàm độc lập như khái niệm hợp đồng kinh tế ở nước ta; 2/ Mọi hợp đồng được ký kết dù với mục đích gì cũng đều chịu sự điều chỉnh pháp luật thống nhất; 3/ Những vấn đề đặc thù đối với hợp đồng trong từng lĩnh vực cụ thể có thể được quy định riêng trong các đạo luật đơn hành hoặc được áp dụng theo án lệ. Như vậy, nếu trong tương lai khi pháp luật Việt Nam không phân biệt hợp đồng kinh tế với hợp đồng dân sự thì cũng không phải là ngoại lệ.

Thứ ba: Với thực trạng pháp luật về hợp đồng như hiện nay thì việc duy trì khái niệm hợp đồng kinh tế và hệ thống các văn bản pháp luật quy định riêng về nó là không cần thiết trong khi có nguy cơ nảy sinh những vấn đề phức tạp trong việc xây dựng pháp luật và áp dụng pháp luật.

Ở nước ta hiện nay, những quy định về hợp đồng tản mát ở rất nhiều văn bản. Ngoài những văn bản quy định chung như Bộ luật Dân sự, Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế thì trong từng lĩnh vực cụ thể, việc ký kết và thực hiện hợp đồng còn chịu sự chi phối của các văn bản mang tính chuyên ngành dưới những hình thức khác nhau như: Bộ luật hàng hải Việt Nam, Luật Thương mại, Luật Hàng không dân dụng Việt Nam, Luật về các tổ chức tín dụng, Luật kinh doanh bảo hiểm; các Nghị định và Thể lệ như: Nghị định số 52/1999/NĐ-Chính phủ ngày 8-7-1999 về Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng, các Thể lệ vận chuyển hàng hóa và Thể lệ vận chuyển hành khách bằng đường sắt Việt Nam, đường ô tô, đường thủy nội địa… Do đó, việc lựa chọn nguồn luật điều chỉnh một quan hệ hợp đồng cụ thể là vô cùng phức tạp và hay nhầm lẫn. Tiến sĩ Nguyễn Am Hiểu đã nhận xét: “Trong lĩnh vực hợp đồng, sự tồn tại của Bộ luật Dân sự, Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế, Luật Thương mại dẫn tới nhiều cách giải thích khác nhau về áp dụng luật và điều đó đã gây ra không ít rủi ro cho các nhà kinh doanh”(7 ).

Việc ban hành văn bản pháp luật về hợp đồng kinh tế cũng có nhiều phức tạp: hình thức của văn bản này là gì, phạm vi điều chỉnh của nó ra sao? Nếu chỉ ban hành dưới hình thức Pháp lệnh (bằng cách sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế năm 1989) thì không thể hệ thống hóa, pháp điển hóa các quy định về hợp đồng đang tản mát ở các bộ luật, đạo luật khác và khi Pháp lệnh này ra đời thì những khó khăn, vướng mắc gặp phải trong hơn 10 năm qua vẫn không được giải quyết triệt để. Trường hợp ban hành Luật về hợp đồng kinh tế thì phạm vi điều chỉnh của Luật này như thế nào? Nếu quan niệm Luật về hợp đồng kinh tế là một văn bản tổng hợp về hợp đồng kinh tế, tức là mọi vấn đề liên quan đến việc ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế đều có thể tìm thấy ở văn bản này, thì rất nhiều nội dung sẽ trùng lặp với các quy định trong Bộ luật Dân sự, Luật Thương mại và các văn bản pháp luật khác. Còn nếu Luật về hợp đồng kinh tế chỉ quy định những nguyên tắc của hợp đồng kinh tế và những vấn đề mang tính đặc thù của nó, còn những nội dung cụ thể khác thì do các văn bản pháp luật chuyên ngành điều chỉnh thì vai trò của đạo luật này sẽ hạn chế. Bởi những vấn đề đặc thù của hợp đồng kinh tế cần phải quy định riêng cũng không nhiều, có lẽ chỉ là khái niệm hợp đồng kinh tế, những loại hợp đồng được coi là hợp đồng kinh tế, thủ tục giao kết hợp đồng, một số trường hợp hợp đồng kinh tế bị coi là vô hiệu, trách nhiệm tài sản do vi phạm hợp đồng kinh tế. Và vì vậy việc xây dựng đạo luật này là không cần thiết.

Thứ tư: Các quy định hiện hành trong Bộ luật Dân sự về hợp đồng là khá đầy đủ và tương đối phù hợp để điều chỉnh quan hệ hợp đồng trong hoạt động kinh doanh. Hơn nữa vấn đề sửa đổi, bổ sung Bộ luật Dân sự đang được đặt ra và không loại trừ khả năng bổ sung những quy phạm mang tính thương mại trong bộ luật này.

Bộ luật Dân sự của Việt Nam được xây dựng và ban hành trong điều kiện nước ta đang có những chuyển biến mạnh mẽ. Bộ luật Dân sự vừa kế thừa được những tinh hoa của truyền thống Luật dân sự, vừa đáp ứng được những yêu cầu mới nảy sinh trong thực tiễn giao lưu dân sự, kinh tế ở nước ta hiện nay. Chế định hợp đồng trong Bộ luật Dân sự được hình thành trên cơ sở pháp điển hóa các quy định về hợp đồng trong các văn bản pháp luật thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau và dưới hình thức khác nhau, từ bộ luật như Bộ luật Hàng hải Việt Nam (30-6-1990), các đạo luật như Luật Hàng không dân dụng Việt Nam (4-1-1992) đến các pháp lệnh như Pháp lệnh Hợp đồng dân sự (24-9-1991), Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế (25-9-1989), Pháp lệnh về nhà ở (26-3-1991), Pháp lệnh Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp (28-1-1989), Pháp lệnh Bảo hộ quyền tác giả (2-12-1994), Pháp lệnh Chuyển giao công nghệ nước ngoài vào Việt Nam (5-12-1988) đến các Nghị định, Điều lệ, Thể lệ, Quy chế…

Với hơn 200 điều quy định trực tiếp về hợp đồng và một số lượng lớn điều khoản quy định về đại diện, giao dịch dân sự và nghĩa vụ dân sự, Bộ luật Dân sự đã đề cập một cách toàn diện các nội dung của chế định hợp đồng, từ những vấn đề chung liên quan đến giao kết, thực hiện, sửa đổi, chấm dứt hợp đồng đến những nội dung riêng của từng loại hợp đồng cụ thể. Phần lớn các quy định trong Bộ luật Dân sự là phù hợp để điều chỉnh quan hệ hợp đồng trong kinh doanh.

Thứ năm: Tuy khái niệm hợp đồng kinh tế sau này sẽ không tồn tại trong pháp luật thực định nhưng tranh chấp phát sinh từ quan hệ hợp đồng này vẫn có thể được giải quyết bằng những phương thức riêng nhằm đáp ứng những yêu cầu mà thực tiễn kinh doanh đặt ra.

Kinh nghiệm về vấn đề này trên thế giới cũng hết sức đa dạng. Có những nước phân biệt hành vi thương mại với hành vi dân sự để rồi những tranh chấp nào phát sinh từ hành vi thương mại được giải quyết sơ thẩm theo thủ tục tố tụng riêng tại Tòa án thương mại hoặc Ban thương mại trong Tòa án dân sự thẩm quyền chung (Pháp, Đức, Bỉ, Áo). Trong khi đó có những nước hoàn toàn không phân biệt giao dịch thương mại với giao dịch dân sự, nhưng các tranh chấp phát sinh từ hoạt động kinh doanh vẫn được giải quyết bằng Tòa án riêng và theo thủ tục riêng (Liên bang Nga, Hà Lan, Thụy Sĩ, Thụy Điển), đặc biệt ngay cả Anh cũng có Tòa án giải quyết những khiếu nại về hạn chế quyền tự do kinh doanh; Mỹ có Tòa án về thương mại quốc tế. Lại có những nước phân biệt giao dịch thương mại với giao dịch dân sự nhưng những tranh chấp phát sinh từ hành vi này cũng chỉ được giải quyết tại Tòa án dân sự thẩm quyền chung như Nhật Bản. Như vậy, việc phân biệt hay không phân biệt hợp đồng kinh tế với hợp đồng không ảnh hưởng đến việc trao thẩm quyền giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng kinh tế cho các cơ quan tài phán riêng là Tòa án kinh tế và Trọng tài kinh tế (phi chính phủ). Chúng tôi xin đưa ra một giải pháp rất đơn giản là trong các văn bản pháp luật về tố tụng kinh tế hoặc trọng tài chỉ cần liệt kê những tranh chấp phát sinh từ một số quan hệ hợp đồng thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa kinh tế hoặc Trọng tài. Vấn đề này chúng tôi xin được trình bày chi tiết ở phần sau.

Nói tóm lại, trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần không cần thiết duy trì khái niệm hợp đồng kinh tế. Mọi hợp đồng, dù được giao kết giữa các chủ thể nào và nhằm mục đích nào đi chăng nữa cũng được coi là hợp đồng và chịu sự điều chỉnh chung của Bộ luật Dân sự. Căn cứ vào những đặc thù của hợp đồng trong từng lĩnh vực cụ thể, khi cần thiết có thể có những quy định riêng trong các văn bản pháp luật đơn hành trên cơ sở tiếp tục phát triển những quy định mang tính nguyên tắc chung về hợp đồng trong Bộ luật Dân sự. Có như vậy pháp luật về hợp đồng mới tạo thành một chỉnh thể thống nhất để trở thành một công cụ hữu hiệu bảo vệ quyền tự do kinh doanh.

2. VẤN ĐỀ SỬA ĐỔI, BỔ SUNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH ĐỂ PHÙ HỢP VỚI MÔ HÌNH MỚI CỦA PHÁP LUẬT HỢP ĐỒNG

Với mô hình pháp luật hợp đồng như chúng tôi đã trình bày ở phần trên thì các quy định pháp luật hiện hành phải được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp, tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể kinh doanh giao kết và thực hiện hợp đồng một cách mau chóng, đơn giản mà vẫn đảm bảo sự an toàn pháp lý cao.

2.1. Hoàn thiện chế định hợp đồng trong Bộ luật Dân sự

Vào thời điểm được ban hành, các quy định về hợp đồng trong Bộ luật Dân sự hết sức tiến bộ và giữ vai trò quan trọng trong việc tạo khung pháp luật cho các giao lưu dân sự, kinh tế. Nhiều nội dung trong chế định này tới thời điểm hiện nay vẫn giữ nguyên giá trị và hoàn toàn phù hợp để điều chỉnh các quan hệ hợp đồng trong kinh doanh như các quy định về nguyên tắc giao kết hợp đồng, điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự và các trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu, xử lý hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu; các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự; đại diện và ủy quyền giao kết hợp đồng… Nhưng để chế định hợp đồng trong Bộ luật Dân sự tiếp tục phát huy vai trò tích cực của nó trong việc điều chỉnh quan hệ hợp đồng trong kinh doanh cần phải được hoàn thiện ở các vấn đề sau:

Thứ nhất: Bộ luật Dân sự nên dùng khái niệm hợp đồng để thay thế cho khái niệm hợp đồng dân sự (như cách dùng hiện nay) để mở rộng phạm vi điều chỉnh của chế định hợp đồng sang cả quan hệ hợp đồng trong kinh doanh và quan hệ hợp đồng lao động.

Trên phương diện lý thuyết, do Điều 394 Bộ luật Dân sự đưa ra khái niệm hợp đồng dân sự không đề cập gì đến mục đích của hợp đồng mà những quy định về hợp đồng trong Bộ luật Dân sự phải được áp dụng cho mọi quan hệ hợp đồng. Nhưng trên thực tế vẫn phổ biến quan niệm cho rằng các quy định trong Bộ luật Dân sự chỉ áp dụng cho quan hệ hợp đồng dân sự, nghĩa là những hợp đồng được ký kết để phục vụ cho mục đích sinh hoạt tiêu dùng mà thôi. Các Thẩm phán khi giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh tế thường không áp dụng các quy định trong Bộ luật Dân sự. Để tránh sự hiểu lầm trên chúng tôi cho rằng trong Bộ luật Dân sự (sửa đổi) nên sử dụng thuật ngữ hợp đồng thay cho thuật ngữ hợp đồng dân sự.

Thứ hai: Thủ tục giao kết hợp đồng trong Bộ luật Dân sự cũng phải được quy định hết sức cụ thể và minh bạch để các quan hệ hợp đồng, đặc biệt là các quan hệ hợp đồng phục vụ cho hoạt động kinh doanh của các chủ thể được thiết lập một cách mau chóng, đơn giản mà vẫn bảo đảm sự an toàn về mặt pháp lý. Muốn vậy, Bộ luật Dân sự phải quy định chi tiết về các vấn đề sau:

- Các điều kiện (về nội dung, hình thức) của đề nghị giao kết hợp đồng và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng; trách nhiệm pháp lý của người đề nghị giao kết hợp đồng và thời điểm phát sinh trách nhiệm này; những trường hợp sửa đổi, bổ sung, rút lại hay chấm dứt đề nghị giao kết hợp đồng và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng.

- Người có thẩm quyền ký kết hợp đồng. Vấn đề đại diện và ủy quyền để thiết lập và thực hiện các giao dịch tuy đã được quy định tại chương VI phần thứ nhất và mục 12, chương II phần thứ ba Bộ luật Dân sự nhưng cần được cụ thể hóa trong phần quy định về hợp đồng. Bởi đây là vấn đề hết sức phức tạp trong thực tế ký kết hợp đồng, đặc biệt là các hợp đồng trong kinh doanh. Chúng tôi cho rằng việc ủy quyền và ủy quyền lại phải được áp dụng rộng rãi trong việc giao kết và thực hiện hợp đồng mà không phụ thuộc vào hợp đồng đó được ký kết bằng phương thức trực tiếp hay gián tiếp; hợp đồng đó có phải đăng ký hoặc chứng nhận của công chứng hay không.

- Bộ luật Dân sự, một mặt cần quy định rõ thế nào là văn bản hợp đồng theo hướng thừa nhận các thông tin được các bên gửi cho nhau qua đường điện tín (telex, fax) và các hình thức thông tin kỹ thuật số (thư điện tử và các hình thức thông tin điện tử khác) là văn bản hợp đồng, mặt khác hạn chế quy định cứng nhắc những loại hợp đồng bắt buộc phải ký kết dưới hình thức văn bản mà nên đề cao quyền tự thỏa thuận của các bên để lựa chọn hình thức hợp đồng phù hợp.

- Bộ luật Dân sự phải có những quy định mang tính nguyên tắc về việc giao kết hợp đồng thông qua thủ tục đấu thầu, đấu giá để tạo sự thống nhất trong các quy định pháp luật về đấu thầu và đấu giá hiện đang tản mát ở nhiều văn bản pháp luật khác nhau.

Thứ ba: Bộ luật Dân sự cần bổ sung những quy định riêng về giao kết và thực hiện hợp đồng thông qua các phương tiện thông tin kỹ thuật số để tạo cơ sở pháp lý cho sự phát triển thương mại điện tử (E-commerce) ở nước ta.

Sự bùng nổ của thông tin liên lạc đã tác động mạnh đến mọi mặt đời sống con người. Việc các bên trực tiếp gặp gỡ, đàm phán và cùng ký vào văn bản hợp đồng đã trở nên không tiện dụng và nhiều khi chỉ phù hợp với những hợp đồng đòi hỏi hình thức trang trọng. Tham gia các giao dịch với sự trợ giúp của các phương tiện thông tin điện tử đang ngày càng phổ biến và trở nên một yếu tố không thể thiếu của kinh doanh hiện đại. Các khái niệm “nền kinh tế số”, “thương mại điện tử”, “siêu thị ảo”, “văn phòng ảo” đã được bổ sung vào hệ ngôn ngữ phổ thông của rất nhiều quốc gia. Lợi thế to lớn của thương mại điện tử là không thể phủ nhận. Để phát triển thương mại điện tử, Bộ luật Dân sự phải giải quyết được các vấn đề pháp lý sau:

- Hình thức của hợp đồng ký qua mạng Internet phải như thế nào? Liệu các hình thức thông tin kỹ thuật số, như thư điện tử (E-mail) chẳng hạn, có được coi là văn bản hợp đồng không? Hiện nay, trong các văn bản pháp luật của Việt Nam chỉ duy nhất có Luật Thương mại thừa nhận thư điện tử và các hình thức thông tin điện tử khác là văn bản hợp đồng. Rất tiếc quy định này được cơ cấu riêng trong mục 2 – Mua bán hàng hóa làm chúng ta không rõ quy định đó có được áp dụng cho các quan hệ hợp đồng khác hay không?

- Những thông tin kỹ thuật số nào được coi là đề nghị giao kết hợp đồng và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng; trách nhiệm và thời điểm phát sinh trách nhiệm của người đề nghị và người được đề nghị giao kết hợp đồng được xác định như thế nào?

- Thời điểm và địa điểm giao kết hợp đồng được xác định ra sao?

- Chữ ký điện tử của các bên nhằm xác nhận nội dung giao dịch được thực hiện như thế nào?

- Vấn đề năng lực chủ thể của các bên giao kết hợp đồng và thẩm quyền của người đại diện cho các bên ký kết hợp đồng được xác định ra sao? Giá trị pháp lý của những

“hợp đồng điện tử” được ký kết bởi những người không có năng lực hành vi dân sự đầy

đủ hoặc những người không có thẩm quyền đại diện ký kết sẽ như thế nào? Xử lý hậu quả ra sao?

- Giá trị chứng cứ của văn bản điện tử ra sao khi có tranh chấp phát sinh từ “hợp đồng điện tử” này?

Hàng loạt các vấn đề như vậy phải được Bộ luật Dân sự quy định về nguyên tắc để tạo cơ sở cho việc quy định cụ thể trong các văn bản pháp luật chuyên ngành sau này.

Thứ tư: Trong Bộ luật Dân sự (sửa đổi) phải quy định bổ sung một số loại hợp đồng thông dụng, bên cạnh những loại hợp đồng đã được quy định hiện nay. Bộ luật Dân sự hiện hành đã quy định riêng về 13 loại hợp đồng. Trong điều kiện kinh tế thị trường, nhiều quan hệ hợp đồng mới đã hình thành, nhiều biến thể của các hợp đồng thông dụng đã xuất hiện mà chưa được Bộ luật Dân sự quy định như: hợp đồng cung cấp điện năng, nước, điện thoại; hợp đồng mua bán hoặc cho thuê doanh nghiệp hoặc cơ sở kinh doanh; hợp đồng cho thuê tài chính (leasing); hợp đồng xây dựng; hợp đồng kỹ thuật; các hợp đồng liên quan đến hoạt động ngân hàng; hợp đồng đại lý, ủy thác, môi giới; hợp đồng liên doanh, liên kết kinh tế; hợp đồng tín thác…

Tuy nhiên, Bộ luật Dân sự (sửa đổi) không thể quy định hết về những quan hệ hợp đồng nói trên mà chỉ nên quy định về những quan hệ hợp đồng nào đã phổ biến trong thực tế mang tính ổn định lâu dài và “ưu tiên” cho những quan hệ hợp đồng chưa được quy định trong những văn bản pháp luật đơn hành.

2.2. Hoàn thiện các quy định của Luật Thương mại

Khi Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế hết hiệu lực thì Luật Thương mại trở thành nguồn quan trọng điều chỉnh quan hệ hợp đồng giữa các nhà kinh doanh với nhau và với các bên có liên quan nhằm triển khai hoạt động kinh doanh của mình. Luật Thương mại hiện hành chứa đựng một số lượng lớn các điều khoản quy định về hợp đồng. Tuy có hiệu lực từ 1-1-1998 nhưng vì nhiều lý do khác nhau mà Luật Thương mại chưa phát huy được vai trò trong thực tiễn. Việc hoàn thiện Luật Thương mại được đặt ra như một tất yếu khách quan. Luật Thương mại phải được hoàn thiện trên cơ sở tiếp tục phát triển các quy định mang tính nguyên tắc của Bộ luật Dân sự, cụ thể hóa các nguyên tắc này và làm cho nó thích dụng để điều chỉnh quan hệ hợp đồng trong kinh doanh. Như vậy, phải xác định được vấn đề nào đã được quy định trong Bộ luật Dân sự và không cần quy định lại trong Luật Thương mại, vấn đề nào phải được quy định riêng trong Luật Thương mại để phù hợp với yêu cầu điều chỉnh pháp luật đối với hoạt động kinh doanh. Hoàn thiện Luật Thương mại, theo chúng tôi cần lưu ý tới những điểm sau đây:

Thứ nhất: Khái niệm thương mại trong Luật Thương mại phải được hiểu theo nghĩa rộng, gồm toàn bộ các hoạt động từ đầu tư vốn, sản xuất, mua bán đến việc cung ứng mọi loại dịch vụ nhằm mục đích sinh lợi. Hiểu thương mại theo nghĩa này sẽ tạo điều kiện mở rộng phạm vi điều chỉnh của Luật Thương mại tới mọi hành vi kinh doanh của các chủ thể và khi đó Luật Thương mại trở thành nguồn bổ sung quan trọng cho Bộ luật Dân sự trong việc điều chỉnh những quan hệ hợp đồng trong kinh doanh. Những vấn đề riêng về hợp đồng trong kinh doanh nếu chưa được quy định trong Bộ luật Dân sự thì có thể quy định trong Luật Thương mại. Mặt khác hiểu thương mại theo nghĩa rộng là phù hợp với thông lệ và luật pháp quốc tế. Luật Thương mại (sửa đổi) cần đưa ra khái niệm khái quát nhất về hành vi thương mại theo hướng: hành vi thương mại là mọi hành vi được thực hiện với mục đích lợi nhuận. Đồng thời, Luật Thương mại có thể liệt kê và quy định chi tiết về một số hành vi thương mại điển hình.

Thứ hai: Một số nội dung trong Luật Thương mại hiện hành phải được cơ cấu lại để có thể áp dụng chung cho mọi hành vi thương mại chứ không chỉ áp dụng riêng cho quan hệ mua bán hàng hóa như hiện nay. Ví dụ, các quy định về thủ tục giao kết hợp đồng, hình thức văn bản của hợp đồng, các trường hợp miễn trách nhiệm do vi phạm hợp đồng. Hiện nay, các vấn đề này được quy định trong mục 2 về mua bán hàng hóa. Trong Luật Thương mại (sửa đổi) những nội dung này phải được bố trí thành những phần riêng, độc lập để áp dụng cho mọi hợp đồng trong hoạt động thương mại.

Thứ ba: Luật Thương mại không nên quy định cứng nhắc những nội dung chủ yếu của hợp đồng như hiện nay mà nên dành quyền thỏa thuận về điều khoản chủ yếu cho các bên tham gia quan hệ hợp đồng.

Luật Thương mại quy định quá cụ thể những nội dung chủ yếu của hợp đồng trong hoạt động thương mại. Theo tinh thần của Bộ luật Dân sự thì nội dung chủ yếu của hợp đồng là những điều khoản mà thiếu những điều khoản đó thì hợp đồng không thể giao kết được. Việc Luật Thương mại quy định quá cụ thể như vậy sẽ ảnh hưởng đến quyền tự do thỏa thuận, tự do quyết định nội dung hợp đồng của các bên và làm hạn chế tính linh hoạt của hoạt động kinh doanh. Hơn nữa quy định này có thể làm ảnh hưởng tới sự an toàn pháp lý cho các bên trong quan hệ hợp đồng, khi một bên muốn rũ bỏ nghĩa vụ thực hiện hợp đồng bằng cách viện lý do hợp đồng chưa được xác lập do thiếu một trong các điều khoản chủ yếu. Từ sự phân tích trên, theo chúng tôi, Luật Thương mại (sửa đổi) nên quy định: “Nội dung của hợp đồng do các bên thỏa thuận và có thể gồm các điều khoản dưới đây…”. Sau đó có thể liệt kê một số điều khoản đặc trưng của chủng loại hợp đồng đó để định hướng cho các bên thỏa thuận về những nội dung chi tiết của hợp đồng.

Chú thích:

(1) TS. Lê Hồng Hạnh, Khái niệm thương mại trong pháp luật Việt Nam và những bất cập dưới góc độ thực tiễn áp dụng và chính sách hội nhập, Tạp chí Luật học số 4 năm 2000.

(2), (3) TS. Hoàng Thế Liên, Xác định đối tượng và phạm vi điều chỉnh của Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế (sửa đổi), Thông tin Khoa học Pháp lý số 4 năm 1999.

(4) TS. Dương Đăng Huệ, Sự cần thiết ban hành Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế sửa đổi, Tạp chí Tòa án nhân dân số 1 năm 1998.

(5) A.IA. Xukharep - V.E. Krutxkich (chủ biên), Đại từ điển pháp luật (Bản tiếng Nga), Nxb Inphra-M. Matxcơva, 2000, tr. 472.

(6) Bộ luật Dân sự Liên bang Nga (Bản tiếng Nga), Nxb Inphra-M., Matxcơva, 1996.

(7) TS. Nguyễn Am Hiểu, Mấy vấn đề về pháp luật kinh tế Việt Nam hiện nay, Tạp chí Luật học số 3 năm 1999.

SOURCE: TẠP CHÍ KHOA HỌC PHÁP LÝ SỐ 4/2001

Bài đăng phổ biến