THS. ĐẶNG THANH HOA - Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh
Hòa giải trong tố tụng dân sự, nguyên tắc đặc trưng của ngành luật Tố tụng dân sự, đã được tiếp tục ghi nhận và hoàn thiện tại Bộ luật Tố tụng dân sự 2005 (BLTTDS). Việc quán triệt, củng cố và phát triển nguyên tắc hòa giải trong tố tụng dân sự đã góp phần đưa Tòa án về đúng vị trí và vai trò của mình khi giải quyết các tranh chấp dân sự (tranh chấp “tư”), đó chính là vai trò trung gian, trọng tài, giải quyết các tranh chấp dân sự trên nền tảng sự chủ động thỏa thuận của đôi bên đương sự. Chúng tôi hoàn toàn thống nhất với quan điểm và ghi nhận của BLTTDS về vấn đề này. Bởi lẽ, các tranh chấp về dân sự phần lớn được hình thành trên cơ sở bình đẳng, thỏa thuận của chính các chủ thể trong quan hệ đó (khái niệm tranh chấp dân sự được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm: các tranh chấp phát sinh từ quan hệ pháp luật dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại, lao động). Vì vậy, một khi có xảy ra tranh chấp thì không ai khác mà chính các chủ thể này phải tiến hành thương lượng để đi đến thống nhất nhằm hóa giải các mâu thuẫn, tranh chấp và Toa án chỉ phải ra quyết định giải quyết các tranh chấp một khi các bên không thể thỏa thuận được với nhau. Cũng chính vì vậy, quyền hòa giải - thỏa thuận của các đương sự được thực hiện xuyên suốt trong quá trình tố tụng dân sự từ lúc Tòa án thụ lý vụ án dân sự, trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, cho đến khi mở phiên tòa sơ thẩm và cả trong thủ tục phúc thẩm... Song song đó, nhiệm vụ và quyền hạn của Tòa án cũng đã được BLTTDS quy định cụ thể đối với hoạt động hòa giải: nguyên tắc tiến hành hòa giải (Điều 180); thông báo về phiên hòa giải (Điều 183); nội dung hòa giải, biên bản hòa giải và việc ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự (Điều 185, 186, 187),...
Hoạt động hòa giải theo quy định của BLTTDS hiện nay có thể khái quát bằng 3 hoạt động chính: Hoạt động chuẩn bị phiên hòa giải; hoạt động tiến hành phiên hòa giải và hoạt động ra quyết định công nhận sư thỏa thuận của các đương sự (sơ thẩm) hoặc ra bản án phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm công nhận sự thỏa thuận của đương sự (phúc thẩm). Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi chỉ đề cập quy định của BLTTDS về thủ tục hòa giải trước khi mở phiên tòa sơ thẩm bao gồm các hoạt động tiến hành phiên hòa giải và hoạt động ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự. Trên cơ sở giới thiệu và phân tích các quy định của pháp luật có liên quan, chúng tôi nêu lên một số ý kiến như những gợi ý cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc soạn thảo và ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành BLTTDS:
1. Hoạt động tiến hành hòa giải: Được quy định cụ thể tại các Điều 184, 185 và 186 BLTTDS.
Điều 184 BLTTDS xác định cụ thể thành phần phiên hòa giải, bao gồm: “1. Thẩm phán chủ trì phiên hòa giải.
2. Thư ký Tòa án ghi biên bản hòa giải.
3. Các đương sự hoặc người đại diện hợp pháp của các đương sự...”
Việc xác định cụ thể Thẩm phán phải tham gia hoạt động hòa giải với vai trò là “người chủ trì” phiên hòa giải đã chấm dứt một thực tế thường thấy trước đây: các Tòa án đã để cho thư ký tiến hành hoạt động hòa giải giữa các đương sự. Giải thích vì sao lại có thực trạng này? Có thể xuất phát từ nhiều lý do khách quan và chủ quan khác nhau nhưng nguyên nhân quan trọng nhất chính là pháp luật về tố tụng dân sự, tố tung kinh tế và tố tụng lao động trước đây đều không có quy định về vấn đề này. BLTTDS đã kịp thời bổ sung và khắc phục được sai sót trên. Về mặt lý luận, đây là một quy định phù hợp với bản chất của hoạt động hòa giải - một hoạt động đòi hỏi người tiến hành phải có kinh nghiệm giải quyết các tranh chấp cũng như những am hiểu nhất định về lĩnh vực cần hòa giải - hơn ai hết Thẩm phán chính là người thỏa mãn các điều kiện đó. Ngoài ra, kết quả của hoạt động hòa giải thành sẽ làm chấm dứt hoạt động tố tụng đối với một vụ án bằng quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự. Cùng với các loại quyết định khác được ra trước khi mở phiên tòa như quyêt định đình chỉ, tạm đình chỉ giải quyết vụ án, quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự, theo quy định của BLTTDS chỉ có Thẩm phán mới có thẩm quyền ra các loại quyết định này. Bên cạnh đó, việc BLTTDS xác định Thư ký Tòa án là “người ghi biên bản hòa giải” cũng đã cho thấy nhà làm luật xác định bắt buộc phải có sự tham gia đầy đủ và hỗ trợ lẫn nhau trong công việc của những người tiến hành tố tụng quan trọng trong việc giải quyêt vụ án nói chung và trong hoạt động hòa giải nói riêng đó là Thẩm phán và Thư ký Tòa án. Quy định này một mặt vừa đảm bảo nâng cao trình độ, nghiệp vụ cho các thư ký qua việc học hỏi kinh nghiệm giải quyết vụ án dân sư từ Thẩm phán mặt khác góp phần nâng cao hiệu quả thành công của các phiên hòa giải do có sự phân công, hỗ trợ công việc hợp lý. Tuy nhiên, thực tế tại các Tòa án việc thực hiện triệt để quy định này còn gặp nhiều khó khăn khi mà lực lượng Thẩm phán, Thư ký Tòa án còn quá mỏng so với lượng án dân sự quá lớn cùng với áp lực công việc về giải quyết vụ án dân sự đúng thời hạn do luật định là những vấn đề nhất thiết phải được quan tâm và tháo gỡ. Thực trạng hiện nay đã có Tòa án trong hoạt động hòa giải vụ án dân sự chỉ cho một Thẩm phán tiến hành chủ trì đồng thời cũng là người ghi biên bản hòa giải hoặc chỉ cho Thư ký tòa án tiến hành và sau đó Thẩm phán bổ sung chữ ký của mình vào biên bản hòa giải. Chúng tôi cho rằng đó là những giải pháp tình thế vì nhiều lý do áp lực công việc, thói quen áp dụng quy định theo các pháp lệnh trước đây,... nhưng chắc chắn các Thẩm phán hoặc Thư ký tòa án đều nhận thức đây là những hoạt động trái với quy định của pháp luật. Theo chúng tôi không thể chấp nhận được một khi đã có sự quy định hết sức cụ thể tại BLTTDS nhưng làm thế nào để xóa bỏ tình trạng nói trên, đây là một câu hỏi đồng thời cũng là một thách thức đối với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền làm sao mau chóng xây dựng lực lượng cán bộ Tòa án dày về lượng và mạnh về chất để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của công việc hết sức đặc thù này: giải quyết vụ án dân sự vì quyền lợi của các đương sự.
Ngoài chủ thể là người tiến hành tố tụng trong thành phần của phiên hòa giải, Điều 184 còn đề cập đến các chủ thể thuộc nhóm những người tham gia tố tụng, đặc biệt là đương sự - chủ thể chính của quan hệ pháp luật có tranh chấp. Tiếp đến, người đại diện của đương sự trong trường hợp họ là đại diện hợp pháp theo pháp luật tố tụng dân sự và người phiên dịch nếu đương sự không biết tiếng Việt. Tuy nhiên, tại điều luật này đã không thấy đề cập đến “người bảo vệ quyền lợi cho đương sự” - một chủ thể cũng được quyền và có nghĩa vụ tham gia vào phiên hòa giải. Nội dung này được ghi nhận tại khoản 3 Điều 64 BLTTDS quy định về quyền và nghĩa vụ của người bảo vệ quyền lợi cho đương sự. Cần có văn bản hướng dẫn xác nhận lại sự tham gia của họ trong thành phần phiên hòa giải nhằm tránh việc áp dụng pháp luật một cách máy móc khi thực tế có Tòa án không cho phép người bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự tham gia vào phiên hòa giải chỉ vì Điều 184 BLTTDS không quy định. Ít nhiều việc áp dụng pháp luật như trên đã làm hạn chế việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chính các đương sự trong vụ án.
Điều 186 quy định về biên bản hòa giải:
“1. Việc hòa giải được Thư ký tòa án ghi vào biên bản. Biên bản hòa giải phai có nội dung sau đây:
a/ Ngày, tháng, năm tiến hành phiên hòa giải;
b/ Địa điểm tiến hành phiên hòa giải;
c/ Thành phần tham gia phiên hòa giải;
d/ Ý kiến của các đương sự hoặc người đại diện hợp pháp của các đương sự;
đ/ Những nội dung đã được đương sự thỏa thuận, không thỏa thuận.
2. Biên bản hòa giải phải có đầy đủ chữ ký hoặc điểm chỉ của các đương sự có mặt trong phiên hòa giải, chữ ký của Thư ký tòa án ghi biên bản và của Thẩm phán chủ trì phiên hòa giải.
Khi các đương sự thỏa thuận được với nhau về vấn đề phải giải quyết trong vụ án dân sự thì Tòa án lập biên bản hòa giải thành. Biên bản này được gửi cho các đương sự tham gia hòa giải.
Liên quan đến quy định về biên bản hòa giải chúng tôi có một số ý kiến sau:
- Có tất cả bao nhiêu biên bản hòa giải đối với một vụ án dân sự?
Ý kiến thứ nhất cho rằng chỉ cần lập một biên bản hòa giải ghi nhận tất cả các nội dung theo quy định là phù hợp và giản tiện. Nếu các đương sự thỏa thuận được với nhau thì phần kết của biên bản sẽ xác định nội dung: “Biên bản hòa giải này có giá trị như một biên bản hòa giải thành là căn cứ để Tòa án ra quyết định công nhận sự thỏa thuận cho các đương sự theo quy định của BLTTDS”. Ngược lại, nếu các đương sự không thỏa thuận được thì đây là biên bản hòa giải không thành và làm cơ sở cho Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử theo quy định của pháp luật. Như vậy, Tòa án chỉ cần ghi nhận tất cả những nội dung theo quy định tại khoản 1 Điều 186 và trên cơ sở đó xác định biên bản hòa giải không thành này làm căn cứ cho việc ra quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Ý kiến thứ hai xác định cần thiết phải lập hai loại biên bản hòa giải là biên bản hòa giải ghi nhận tất cả các diễn tiến của phiên hòa giải và biên bản thứ hai là biên bản hòa giải thành, nếu trong trường hợp các đương sự thỏa thuận được với nhau. Nội dung của loại biên bản thứ hai chỉ ghi nhận những gì đương sự thỏa thuận được với nhau và biên bản này Tòa án sẽ gửi cho các đương sự.
Căn cứ đoạn cuối khoản 2 Điều 186, theo chúng tôi phải hiểu quy định này theo hướng: lập hai loại biên bản hòa giải chỉ xảy ra khi các đương sự thỏa thuận được với nhau vì việc ghi nhận bằng một biên bản hòa giải trong trường hợp này mặc dù rất giản tiện và gọn nhẹ nhưng sẽ không đáp ứng các diễn tiến của những phiên hòa giải - là cơ sở để xác định việc hòa giải tiến hành có đúng với nguyên tắc mà pháp luật quy định hay không. Mặt khác, biên bản hòa giải thành phải được gửi cho các đương sự để họ có thời gian suy nghĩ và thay đổi ý kiến (nếu có); trên cơ sở các đương sự không có sự thay đổi ý kiến Tòa án mới ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự.
Với trường hợp hòa giải không thành, Thẩm phán chỉ lập một loại biên bản làm cơ sở để Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Riêng những vụ án dân sự không tiến hành hòa giải được theo quy định của pháp luật (Điều 182), Thẩm phán cũng chỉ lập một loại biên bản làm cơ sở để ra một trong các quyết định tố tụng khác nhau theo quy định của BLTTDS (nội dung này được phân tích ở phần sau của bài viết).
- Biên bản hòa giải đối với vụ án ly hôn có gì khác biệt đối với biên bản hòa giải trong các vụ án dân sự khác?
Hiện vấn đề này cũng chưa được hướng dẫn cụ thể. Xuất phát từ tính đặc thù của vụ án ly hôn, cũng như thực tiễn các Tòa án tại Thành phố Hồ Chí Minh đã áp dụng, chúng tôi kiến nghị hướng dẫn việc lập biên bản hòa giải đối với các vụ án ly hôn sẽ có những đặc thù nhất định về tên gọi và nội dung ghi nhận. Dựa vào mục đích của hoạt động hòa giải trong vụ án ly hôn là để “vợ chồng đoàn tụ”, từ đo có thể xảy ra các trường hợp cụ thể sau đây:
+ Một là, sau khi được tòa án tiến hành hòa giải hai vợ chồng đã đồng ý đoàn tụ. Tòa án cần lập 2 loại biên bản hòa giải trong trường hợp này là: Biên bản hòa giải chung ghi lại diễn tiến của các phiên hòa giải và biên bản hòa giải đoàn tụ thành. Từ đây Tòa án mới có cơ sở cho việc ra quyết định hòa giải đoàn tụ thành.
+ Hai là, nếu hai bên vợ chồng đều đồng ý ly hôn cũng như thỏa thuận được tất cả các vấn đề còn lại trong quan hệ hôn nhân đó theo quy định của LHNGĐ 2000 Tòa án ngoài việc lập biên bản hòa giải chung ghi phần diễn tiến và tại phần kết luận phải ghi nhận việc hòa giải đoàn tụ không thành thì cần lập tiếp loại biên bản thứ hai là biên bản công nhận sự thuận tình ly hôn. Đây là cơ sở để Tòa án ra quyết định công nhận sự thuận tình ly hôn tương tự trường hợp ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sư theo quy định của pháp luật.
+ Ba là, trường hợp các bên không thỏa thuận được một trong các nội dung của quan hệ HNGĐ mặc dù đã chấp nhận ly hôn hoặc chỉ một bên vợ hoặc chồng đồng ý ly hôn thì Tòa án lập duy nhất biên bản hòa giải và ghi nhận tại cuối biên bản việc không thỏa thuận được hoặc hòa giải đoàn tụ không thành. Biên bản này làm cơ sở cho tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Tóm lại, biên bản hòa giải là một loại văn bản hết sức quan trọng của Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án dân sự. Trên cơ sở về hình thức và nội dung biên bản hòa giải Tòa án mới tiếp tục hoàn tất các thủ thục cần thiết cho việc ra một trong các quyết định tố tung khác: Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự hoặc quyết định đưa vụ án ra xét xử. Nhất thiết Tòa án tối cao cần quy định cụ thể có bao nhiêu loại biên bản cũng như mẫu biên bản thống nhất cho hoạt động này. Ngoài ra, một chi tiết nhỏ cần thiết bổ sung đó là quy định về việc ký tên của người đai diện cho đương sự (nếu có) vào biên bản hòa giải vì đây là chủ thể đã được xác định tại thành phần phiên hòa giải (Điều 184).
2. Hoạt động ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự: Được quy định tại các Điều 187 và 188 BLTTDS.
Khoản 1 và 2 Điều 187 quy định:
“1. Hết thời hạn bảy ngày kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành mà không có đương sự nào thay đổi ý kiến về sự thỏa thuận đó thì Thẩm phán chủ trì phiên hòa giải hoặc một thẩm phán được Tòa án phân công ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự...
2. Thẩm phán chỉ ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự nếu các đương
sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án...” (Điều 187).
Việc không ghi nhận hậu quả pháp lý nếu các đương sự thay đổi ý kiến về sự thỏa thuận trước đó tại khoản 1 Điều 184 là hợp lý vì điều khoản này chỉ quy định việc “ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự”. Nhưng trong tất cả các điều khoản còn lại của BLTTDS đều không ghi nhận hậu quả trên là thiếu sot cần thiết phải bổ sung hướng dẫn thực hiện. Trước đây trong quy định của PLTTGQCVADS có quy định rất rõ tại khoản 2 Điều 44 “... Nếu trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành mà có đương sự thay đổi ý kiến... thì Tòa án đưa vụ án ra xét xử”. Tại các Tòa án hiện nay cũng đang áp dụng như quy định của PLTTGQCVADS, chúng tôi cho rằng việc áp dụng như vậy là phù hợp tuy nhiên cần thiết nội dung trên phải được hợp pháp hóa bởi một văn bản hướng dẫn cụ thể BLTTDS có giá trị pháp lý. Nội dung văn bản này cần ghi nhận cách giải quyết các biên bản đã lập trước đó khi đương sự thay đổi ý kiến để lưu vào hồ sơ vụ án (biên bản hòa giải, biên bản hòa giải thành...).
Quy định tại khoản 2 Điều 187 về việc thẩm phán chỉ ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự nếu họ thỏa thuận được với nhau về toàn bộ vụ án. Nhưng thế nào là thỏa thuận toàn bộ vụ án? Có quan điểm nêu: chỉ ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự nếu họ thỏa thuận được mọi vấn đề trong vụ án kể cả việc thỏa thuận mức án phí mà mỗi bên phải đóng. Quan điểm khác thì cho rằng chỉ cần đương sự thỏa thuận được với nhau về các quan hệ pháp luật đang tranh chấp, không cần thiết phải thỏa thuận về mức án phí của mỗi bên vì chuyện đó sẽ do Tòa án quyết định. Theo chúng tôi dù chấp nhận quan điểm nào cũng cần có hướng dẫn cụ thể, bởi lẽ không phải tất cả các đương sự đều am hiểu pháp luật mà nhất là quy định của pháp luật về án phí. Nên quy định thống nhất: trong mọi trường hợp tại phiên hòa giải Thẩm phán cần giới thiệu và giải thích cho đương sự biết về khoản tiền án phí mà họ nộp nếu hòa giải thành hoặc phải đưa vụ án ra xét xử. Từ đó Thẩm phán hướng dẫn cho các đương sự thương lượng về phần án phí các bên nhận nộp. Nếu như các đương sự vẫn không thỏa thuận được mà yêu cầu Tòa án quyết định mức án phí cho mỗi bên theo quy định của pháp luật thì cần hướng dẫn cho phép Tòa án ghi nhận ngay nội dung này tại biên bản hòa giải thành và trong quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự sau đó. Tránh trường hợp chỉ vì các đương sự không thỏa thuận được mà Tòa án phải mở phiên tòa xét xử chỉ để quyết định về vấn đề án phí.
Thủ tục hòa giải khi trong một vụ án co nhiều đương sự:
Khoản 3 Điều 184 quy định: “Trong một vụ án có nhiều đương sự, mà có đương sự vắng mặt trong phiên hòa giải nhưng các đương sự có mặt vẫn đồng ý tiến hành hòa giải và việc hòa giải đó không ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt thì Thẩm phán tiến hành hòa giải giữa các đương sự có mặt; nếu các đương sự đề nghị hoãn phiên hòa giải để có mặt tất cả các đương sự trong vụ án thì Thẩm phán phải hoãn phiên hoa giải”.
Khoản 3 Điều 187 quy định: “Trong trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 184 của Bộ luật này mà các đương sự có mặt thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án thì thỏa thuận đó chỉ có giá trị đối với những người có mặt và được Thẩm phán ra quyết định nếu không ảnh hưởng đến quyền lợi của đương sự vắng mặt. Trong trường hợp thỏa thuận của họ ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt thì thỏa thuận này chỉ có giá trị và được Thẩm phán ra quyết định công nhận nếu được đương sự vắng mặt tại phiên hòa giải đồng ý bằng văn bản”.
Khoản 3 Điều 184 đã xác định Thẩm phán chỉ tiến hành hòa giải khi thỏa mãn cả hai điều kiện: một là các đương sự có mặt vẫn đồng ý tiến hành hòa giải và hai là việc hòa giải đó không ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự. Chúng tôi cho rằng việc quy định điều kiện thứ hai là không cần thiết. Bởi lẽ làm thế nào để xác định có hay không việc hòa giải ảnh hưởng quyền và nghĩa vụ của đương sự vì lúc này việc thỏa thuận giữa các đương sự chưa xảy ra. Ngoài ra, nếu ghi nhận điều kiện này tất yếu sẽ loại trừ việc các đương sự có mặt thỏa thuận với nhau ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt – nội dung quy định tại khoản 3 Điều 187. Cũng tại khoản 3 Điều 187 cho thấy pháp luật không cấm các đương sự có mặt thỏa thuận các nội dung ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ của đương sự vì nếu có ảnh hưởng đến quyền lợi của các đương sự vắng mặt thì Thẩm phán sau khi tiến hành hòa giải phải gửi biên bản hòa giải cho đương sự vắng mặt để lấy ý kiến của họ về vấn đề đa hòa giải.
Tiếp theo, tại đoạn cuối khoản 2 Điều 184 quy định nếu các đương sự đề nghị hoãn phiên hòa giải để có mặt tất cả các đương sự trong vụ án thì Thẩm phán phải hoãn phiên hòa giải. Theo chúng tôi, trường hợp này nên giải thích rõ chỉ cần một trong các đương sự yêu cầu hoãn hay phải tất cả các đương sự có mặt yêu cầu thì Thẩm phán mới hoãn phiên hòa giải? Việc hoãn này được diễn ra bao nhiêu lần, có khống chế số lần hay không? Liên quan việc hoãn phiên hòa giải chúng tôi muốn đề cập đến quy định tại Điều 182 về những trường hợp không hòa giải được và hậu quả pháp lý cho từng trường hợp. Cụ thể sẽ hoãn phiên hòa giải hay đưa vụ án ra xét xử? Nhiều y kiến cho rằng nếu không tiến hành hòa giải được thì Thẩm phán phải ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Theo chúng tôi mặc dù Điều 182 không quy định hậu quả pháp lý cụ thể cho từng trường hợp hòa giải không được nhưng điều này đã được ghi nhận tại các điều luật khác của BLTTDS. Cụ thể: Nếu rơi vào trường hợp quy định tại khoản 1 thì áp dụng quy định của khoản 2 Điều 60 và khoản 2 Điều 200, Thẩm phán ra quyết định đưa vụ án ra xét xử; đối vơi trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 182: Thẩm phán hoãn phiên hòa giải một lần sau đó nếu đương sự vẫn vắng mặt có lý do chính đáng thì tùy thuộc đương sự đó là ai mà Thẩm phán ra quyết định cho phù hợp (Ví dụ: nếu đương sự là bị đơn triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì khi đó đã rơi vào khoản 1 Điều 182 và thẩm phán sẽ đưa vụ án ra xét xử; còn nếu người vắng mặt là nguyên đơn thì đây là căn cứ để Thẩm phán ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án dân dự theo quy định tại khoản e Điều 192...). Riêng với trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 182 theo chúng tôi Thẩm phán sẽ ra quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Trở lại với quy định tại khoản 2 Điều 187, với vụ án có nhiều đương sự mà mỗi đương sự có yêu cầu độc lập với các đương sự khác trong vụ án, khả năng xảy ra trường hợp vừa có quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự có mặt hòa giải thành, vưa có quyết định đưa vụ án ra xét xử với những đương sự vắng mặt. Quy định trên có mâu thuẫn với quy định của BLTTDS tại khoản 2 Điều 179? Khi mà Tòa án chỉ được “...ra một trong các quyết định...”, có nghĩa là chỉ có thể có một trong hai quyết định nêu trên đối với một vụ án. Vấn đề này, theo chúng tôi, cần cân nhắc khi hướng dẫn áp dụng...
SOURCE: TẠP CHÍ KHOA HỌC PHÁP LÝ SỐ 4/2005
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét