TS. BÙI NGỌC CƯỜNG - Chủ nhiệm Khoa Luật Kinh tế, Trường Đại học Luật Hà Nội
Ở nước ta Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế ra đời từ những năm đầu của thời kỳ quá độ sang kinh tế thị trường tạo cơ sở pháp lý cho việc ký kết hợp đồng kinh tế, đã có tác dụng thúc đẩy các hoạt động kinh tế phát triển. Tuy nhiên, pháp lệnh này cho tới nay vẫn chưa một lần được sửa đổi, bổ sung đã bộc lộ nhiều bất cập. Những bất cập đó ngày càng gia tăng cùng việc Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật quan trọng nhằm tạo dựng môi trường pháp lý thuận lợi cho các hoạt động sản xuất, kinh doanh như: Bộ luật Dân sự, Luật Thương mại, Luật Doanh nghiệp… Những quy định bất hợp lý trong pháp luật về hợp đồng kinh tế đã “đóng khung” các hoạt động kinh doanh vốn dĩ hết sức mềm dẻo, linh hoạt, năng động và nhiều tính sáng tạo. Trong điều kiện mới, pháp luật về hợp đồng kinh tế không những không tạo được sự điều chỉnh pháp lý thuận lợi hơn cho việc giao kết và thực hiện hợp đồng mà còn gây những trở ngại, thậm chí là thiệt hại về kinh tế cho các chủ thể. Chính vì vậy mà vấn đề hoàn thiện pháp luật về hợp đồng phục vụ cho hoạt động kinh doanh đang được đặt ra hết sức bức xúc.
Hoàn thiện chế định này, theo chúng tôi phải giải quyết được hai vấn đề: Một là, mô hình pháp luật về hợp đồng phải được thiết kế như thế nào? Hai là, hệ thống các văn bản pháp luật hiện hành về hợp đồng phải được hoàn thiện như thế nào cho phù hợp với mô hình đó?
1. MÔ HÌNH PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG
Trong nền kinh tế thị trường có cần tiếp tục duy trì khái niệm hợp đồng kinh tế và hệ thống văn bản pháp luật quy định riêng về nó hay không?
Đây là một vấn đề hết sức phức tạp, được tranh luận gay gắt và là nguyên nhân chính làm chậm tiến trình hoàn thiện pháp luật về hợp đồng kinh tế.
Xung quanh vấn đề này có nhiều quan điểm trái ngược. Có quan điểm cho rằng không cần thiết phải phân biệt hợp đồng kinh tế với hợp đồng dân sự bởi hai loại hợp đồng này hoàn toàn giống nhau về bản chất pháp lý. Mọi hợp đồng, dù được ký kết nhằm phục vụ cho nhu cầu kinh doanh hay sinh hoạt, tiêu dùng đều là hợp đồng dân sự và chịu sự điều chỉnh chung của Bộ luật Dân sự. Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế đã hoàn thành sứ mạng lịch sử của mình. Ưu điểm lớn nhất của quan điểm này là tính đơn giản trong việc áp dụng pháp luật, khắc phục tình trạng “sự bất cập về luật nội dung đã dẫn đến sự xung đột trong pháp luật tố tụng”(1).
Ngược lại, có quan điểm cho rằng cần tiếp tục phân biệt rõ hợp đồng kinh tế với hợp đồng dân sự bởi hai loại hợp đồng này tuy thống nhất với nhau ở bản chất của hợp đồng, ở tính chất hàng hóa – tiền tệ nhưng nghĩ cho cùng, “chúng không đồng nhất với nhau mà có những đặc điểm khác nhau”(2 ). Hai loại hợp đồng này khác nhau ở hai điểm cơ bản là mục đích và chủ thể của hợp đồng: mục đích phục vụ của hợp đồng kinh tế là kinh doanh tìm kiếm lợi nhuận, chủ thể của hợp đồng kinh tế phải là người kinh doanh. Những người theo quan điểm duy trì khái niệm hợp đồng kinh tế cho rằng việc phân biệt hợp đồng kinh tế với hợp đồng dân sự có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc. Theo Tiến sĩ Hoàng Thế Liên thì “hợp đồng sản xuất – kinh doanh đặt ra nhiều yêu cầu đặc thù mà Bộ luật Dân sự chưa thể đáp ứng một cách đầy đủ”(3). Còn Tiến sĩ Dương Đăng Huệ cho rằng “nên duy trì khái niệm hợp đồng kinh tế bên cạnh khái niệm hợp đồng dân sự nhằm tạo điều kiện cho việc điều chỉnh chúng một cách tốt hơn, có hiệu quả hơn”(4). Hơn nữa, ở Việt Nam đang tồn tại hệ thống cơ quan tài phán trong kinh doanh gồm Tòa án kinh tế và Trọng tài (phi Chính phủ) và việc duy trì khái niệm hợp đồng kinh tế tạo nhiều thuận lợi cho việc phân định rành mạch thẩm quyền của các cơ quan tài phán trong việc giải quyết tranh chấp hợp đồng. Tuy nhiên, để đáp ứng những yêu cầu mới của nền kinh tế thị trường, cần thay đổi một số quan niệm về hợp đồng kinh tế liên quan đến chủ thể, mục đích và hình thức của hợp đồng; xây dựng các tiêu chí cụ thể, đơn giản và minh bạch để phân biệt hợp đồng kinh tế với hợp đồng dân sự; xác định rõ mối quan hệ giữa hợp đồng kinh tế với hợp đồng dân sự để áp dụng phối hợp các văn bản pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng.
Việc tiếp tục duy trì khái niệm hợp đồng kinh tế dẫn tới nhu cầu phải hoàn thiện pháp luật về hợp đồng kinh tế. Về hình thức văn bản của pháp luật hợp đồng kinh tế lại có nhiều ý kiến khác nhau. Có ý kiến cho rằng chỉ cần sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh hợp đồng kinh tế năm 1989 cho phù hợp với các yêu cầu mới. Lại có ý kiến cho rằng phải xây dựng và ban hành Luật về hợp đồng kinh tế. Tuy nhiên, các ý kiến đều thống nhất với nhau trong việc xác định phạm vi điều chỉnh của pháp luật về hợp đồng kinh tế (đã được hoàn thiện) ở chỗ: trong văn bản này chỉ nên quy định những vấn đề mang tính đặc thù của hợp đồng kinh tế mà thôi, còn những vấn đề chung về hợp đồng có thể áp dụng các quy định trong Bộ luật Dân sự.
Chúng tôi cho rằng mặc dù quan hệ hợp đồng kinh tế (loại quan hệ hợp đồng mang yếu tố tài sản được xác lập giữa các chủ thể kinh doanh với nhau hoặc với người liên quan để phục vụ cho hoạt động của các bên) tồn tại khách quan trong thực tiễn kinh doanh nhưng không nhất thiết phải duy trì khái niệm hợp đồng kinh tế trong pháp luật thực định và bởi vậy không cần duy trì hệ thống văn bản pháp luật riêng quy định về hợp đồng kinh tế, dù dưới hình thức này hay hình thức khác. Quan điểm này được xây dựng trên cơ sở lý luận và thực tiễn sau:
Thứ nhất: Khái niệm hợp đồng kinh tế và pháp luật về hợp đồng kinh tế ra đời trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung từ nhu cầu điều chỉnh pháp luật đối với những quan hệ hợp đồng đặc thù được xác lập giữa các đơn vị kinh tế XHCN với nhau nhằm thực hiện những chỉ tiêu, pháp lệnh của Nhà nước. Quan hệ hợp đồng này khác hẳn quan hệ hợp đồng dân sự truyền thống bởi nó hàm chứa yếu tố tổ chức – kế hoạch rất sâu sắc; còn yếu tố thỏa thuận như một thuộc tính cơ bản của hợp đồng lại hết sức mờ nhạt. Cơ chế kinh tế thị trường với sự đề cao quyền tự do kinh doanh, tự do khế ước đã trả lại cho hợp đồng kinh tế ý nghĩa đích thực của nó là sự thỏa thuận giữa các chủ thể trên cơ sở tự nguyện. Nhà nước không can thiệp trực tiếp vào quan hệ hợp đồng kinh tế mà bằng chính sách, pháp luật tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi, lành mạnh, trong đó mọi đơn vị, cá nhân làm kinh doanh được tự do thể hiện ý chí của mình khi tham gia quan hệ hợp đồng. Việc ký kết và thực hiện hợp đồng hoàn toàn xuất phát từ lợi ích riêng biệt của các chủ thể.
Trong điều kiện như vậy, hợp đồng kinh tế và hợp đồng dân sự thống nhất với nhau ở bản chất, đều là sự thỏa thuận trên cơ sở tự nguyện của các chủ thể nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ dân sự và ở tính chất hàng hóa – tiền tệ. Các tiêu chí về chủ thể, mục đích và hình thức của hợp đồng để phân biệt hợp đồng kinh tế với hợp đồng dân sự không còn mang nhiều ý nghĩa và nhiều trường hợp là gượng ép. Chủ thể của hợp đồng kinh tế (pháp nhân, cá nhân có đăng ký kinh doanh) cũng chính là chủ thể của hợp đồng dân sự; hình thức của hợp đồng kinh tế (bằng văn bản) cũng chính là một trong các hình thức của hợp đồng dân sự; mục đích của hợp đồng kinh tế (kinh doanh thu lợi nhuận) nghĩ cho cùng cũng trùng với mục đích của hợp đồng dân sự, bởi vì các tổ chức, cá nhân khi tham gia quan hệ hợp đồng đều nhằm thỏa mãn nhu cầu nào đó của mình và do các bên trong hợp đồng kinh tế thường là các chủ thể kinh doanh với hoạt động chính là kinh doanh bởi vậy hợp đồng kinh tế có mục đích kinh doanh, còn các bên trong hợp đồng dân sự thường không phải là các chủ thể kinh doanh nên hợp đồng dân sự không có mục đích này. Mặt khác, Bộ luật Dân sự khi định nghĩa về hợp đồng dân sự hoàn toàn không đề cập gì đến mục đích của hợp đồng dân sự.
Thứ hai: Xu thế hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới đặt ra yêu cầu phải dần xóa bỏ sự khác biệt không cần thiết trong pháp luật quốc gia so với luật pháp và tập quán thương mại quốc tế, nhất là trong lĩnh vực pháp luật về hợp đồng.
Ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, nhìn chung không có khái niệm hợp đồng thương mại, hợp đồng kinh doanh hay gọi như chúng ta là hợp đồng kinh tế. Pháp luật của các nước Anh, Mỹ, các nước chịu ảnh hưởng của truyền thống luật Anh – Mỹ, Ý, Hà Lan, Thụy Sĩ… không biết đến khái niệm thương nhân (thương gia) và giao dịch thương mại và không có sự phân biệt giữa hợp đồng thương mại với hợp đồng dân sự. Mọi hợp đồng, bất luận được ký kết để phục vụ cho hoạt động kinh doanh hay chỉ để phục vụ cho mục đích sinh hoạt, tiêu dùng của công dân đều chịu sự điều chỉnh pháp luật thống nhất. Tuy vậy, không có nghĩa là trong pháp luật của các quốc gia này hoàn toàn không có những quy định riêng về các chủ thể kinh doanh và những giao dịch họ thực hiện trong khuôn khổ hoạt động kinh doanh của mình. Ví dụ: Hoa Kỳ có Bộ luật Thương mại thống nhất Hoa Kỳ (Uniform Commercial Code – UCC) năm 1958, trong đó có nhiều quy định về nhà kinh doanh và những giao dịch do người này xác lập, thực hiện như các quy định về điều kiện bán hàng, nghĩa vụ bảo hành hàng hóa của người bán, việc chuyển giao quyền sở hữu đối với hàng hóa mua bán; Anh có Luật về bán hàng (Sale of Goods Act) năm 1893 và được sửa đổi căn bản vào năm 1980 quy định về một số nghĩa vụ riêng của người bán; Thụy Sĩ có Luật nghĩa vụ năm 1883 được sửa đổi, bổ sung căn bản vào năm 1911 và được coi là cuốn thứ V của Bộ luật Dân sự, trong đó có nhiều quy định về mua bán thương mại; Bộ luật Dân sự Ý năm 1942 cũng có nhiều quy định về các giao dịch mang tính chất thương mại như về hợp đồng vay mượn và các giao dịch trong lĩnh vực tín dụng, ngân hàng.
Các nước theo truyền thống luật Đức – La Mã như Đức, Pháp, Tây Ban Nha, Bỉ, các nước châu Mỹ – Latinh… thừa nhận sự tồn tại độc lập của luật thương mại bên cạnh luật dân sự. Pháp luật của các nước này có khái niệm thương nhân (thương gia) và có sự phân biệt hoạt động thương mại và hoạt động dân sự. Bộ luật thương mại Đức phân biệt hành vi thương mại (Handelgeschaft) với hành vi dân sự. Bộ luật thương mại Nhật Bản cũng đưa ra khái niệm giao dịch thương mại (commercial transactions) và liệt kê những giao dịch được coi là giao dịch thương mại. Bộ luật thương mại Pháp cũng phân biệt hành vi thương mại (Actes de commerce) với hành vi dân sự và liệt kê các hành vi được coi là hành vi thương mại. Sự phân biệt hành vi thương mại với hành vi dân sự dẫn đến hệ quả là: 1/ Đối với hành vi thương mại sẽ ưu tiên áp dụng luật thương mại, những gì luật thương mại không quy định thì áp dụng luật dân sự và 2/ những tranh chấp phát sinh từ hành vi thương mại có thể được giải quyết bằng Tòa án chuyên trách – Tòa án thương mại. Tuy có sự phân biệt như vậy nhưng các quốc gia này cũng chỉ quan niệm giao dịch thương mại là một dạng riêng của giao dịch dân sự mà thôi và trong pháp luật thực định của các quốc gia đó hoàn toàn không có khái niệm hợp đồng thương mại hay hợp đồng kinh doanh dạng “commercial contract”. Các quy định của Bộ luật Dân sự được áp dụng chung cho việc ký kết và thực hiện mọi loại hợp đồng.
Các quốc gia có nền kinh tế chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường như Liên bang Nga và Cộng hòa nhân dân Trung Hoa cũng có những biến chuyển to lớn trong tư duy pháp lý về hợp đồng kinh tế. Khi Liên bang Nga ban hành Bộ luật Dân sự mới vào năm 1994 thì cuộc tranh luận kéo dài nhiều năm xung quanh sự tồn tại độc lập của ngành kinh tế bên cạnh ngành luật dân sự cũng chấm dứt với thất bại của những người theo trường phái Luật kinh tế. Thuật ngữ Luật kinh doanh được coi là sự thay thế chính thức cho thuật ngữ Luật kinh tế cũng chỉ được hiểu là tập hợp những văn bản pháp luật thuộc nhiều ngành luật khác nhau, điều chỉnh hoạt động kinh doanh(5 ).
Trong bối cảnh như vậy, thuật ngữ hợp đồng kinh tế không còn tồn tại. Mọi hợp đồng, dù được ký kết để phục vụ cho nhu cầu kinh doanh hay sinh hoạt, tiêu dùng đều được gọi chung là hợp đồng và chịu sự điều chỉnh chung của Bộ luật Dân sự(6 ).
Ở Trung Quốc trước đây cũng có khái niệm hợp đồng kinh tế. Thậm chí có tới ba đạo luật khác nhau quy định về loại hợp đồng này: Luật hợp đồng kinh tế (ban hành năm 1981 và được sửa đổi về cơ bản năm 1993), Luật hợp đồng kinh tế đối ngoại (năm 1985) và Luật hợp đồng kỹ thuật (năm 1987). Ngoài ra trong Luật dân sự cơ bản (năm 1986) cũng có nhiều quy định về hợp đồng. Với những văn bản pháp luật chồng chéo như vậy, việc ký kết và thực hiện hợp đồng gặp rất nhiều khó khăn. Trước tình hình đó, cuối năm 1993, Trung Quốc chủ trương xây dựng Luật hợp đồng thống nhất. Qua nhiều lần dự thảo, ngày 15/3/1999 Luật Hợp đồng nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa được thông qua. Luật này có hiệu lực áp dụng cho mọi quan hệ hợp đồng, dù phát sinh từ hoạt động kinh doanh hay sinh hoạt, tiêu dùng.
Qua việc nghiên cứu pháp luật về hợp đồng của một số quốc gia tiêu biểu cho các truyền thống pháp luật có tầm ảnh hưởng rộng lớn trên thế giới và các quốc gia có điều kiện kinh tế – xã hội gần gũi với Việt Nam có thể rút ra kết luận sơ bộ như sau: 1/ Trong pháp luật thực định của các nước trên thế giới không có khái niệm hợp đồng thương mại, hợp đồng kinh doanh với nội hàm độc lập như khái niệm hợp đồng kinh tế ở nước ta; 2/ Mọi hợp đồng được ký kết dù với mục đích gì cũng đều chịu sự điều chỉnh pháp luật thống nhất; 3/ Những vấn đề đặc thù đối với hợp đồng trong từng lĩnh vực cụ thể có thể được quy định riêng trong các đạo luật đơn hành hoặc được áp dụng theo án lệ. Như vậy, nếu trong tương lai khi pháp luật Việt Nam không phân biệt hợp đồng kinh tế với hợp đồng dân sự thì cũng không phải là ngoại lệ.
Thứ ba: Với thực trạng pháp luật về hợp đồng như hiện nay thì việc duy trì khái niệm hợp đồng kinh tế và hệ thống các văn bản pháp luật quy định riêng về nó là không cần thiết trong khi có nguy cơ nảy sinh những vấn đề phức tạp trong việc xây dựng pháp luật và áp dụng pháp luật.
Ở nước ta hiện nay, những quy định về hợp đồng tản mát ở rất nhiều văn bản. Ngoài những văn bản quy định chung như Bộ luật Dân sự, Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế thì trong từng lĩnh vực cụ thể, việc ký kết và thực hiện hợp đồng còn chịu sự chi phối của các văn bản mang tính chuyên ngành dưới những hình thức khác nhau như: Bộ luật hàng hải Việt Nam, Luật Thương mại, Luật Hàng không dân dụng Việt Nam, Luật về các tổ chức tín dụng, Luật kinh doanh bảo hiểm; các Nghị định và Thể lệ như: Nghị định số 52/1999/NĐ-Chính phủ ngày 8-7-1999 về Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng, các Thể lệ vận chuyển hàng hóa và Thể lệ vận chuyển hành khách bằng đường sắt Việt Nam, đường ô tô, đường thủy nội địa… Do đó, việc lựa chọn nguồn luật điều chỉnh một quan hệ hợp đồng cụ thể là vô cùng phức tạp và hay nhầm lẫn. Tiến sĩ Nguyễn Am Hiểu đã nhận xét: “Trong lĩnh vực hợp đồng, sự tồn tại của Bộ luật Dân sự, Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế, Luật Thương mại dẫn tới nhiều cách giải thích khác nhau về áp dụng luật và điều đó đã gây ra không ít rủi ro cho các nhà kinh doanh”(7 ).
Việc ban hành văn bản pháp luật về hợp đồng kinh tế cũng có nhiều phức tạp: hình thức của văn bản này là gì, phạm vi điều chỉnh của nó ra sao? Nếu chỉ ban hành dưới hình thức Pháp lệnh (bằng cách sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế năm 1989) thì không thể hệ thống hóa, pháp điển hóa các quy định về hợp đồng đang tản mát ở các bộ luật, đạo luật khác và khi Pháp lệnh này ra đời thì những khó khăn, vướng mắc gặp phải trong hơn 10 năm qua vẫn không được giải quyết triệt để. Trường hợp ban hành Luật về hợp đồng kinh tế thì phạm vi điều chỉnh của Luật này như thế nào? Nếu quan niệm Luật về hợp đồng kinh tế là một văn bản tổng hợp về hợp đồng kinh tế, tức là mọi vấn đề liên quan đến việc ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế đều có thể tìm thấy ở văn bản này, thì rất nhiều nội dung sẽ trùng lặp với các quy định trong Bộ luật Dân sự, Luật Thương mại và các văn bản pháp luật khác. Còn nếu Luật về hợp đồng kinh tế chỉ quy định những nguyên tắc của hợp đồng kinh tế và những vấn đề mang tính đặc thù của nó, còn những nội dung cụ thể khác thì do các văn bản pháp luật chuyên ngành điều chỉnh thì vai trò của đạo luật này sẽ hạn chế. Bởi những vấn đề đặc thù của hợp đồng kinh tế cần phải quy định riêng cũng không nhiều, có lẽ chỉ là khái niệm hợp đồng kinh tế, những loại hợp đồng được coi là hợp đồng kinh tế, thủ tục giao kết hợp đồng, một số trường hợp hợp đồng kinh tế bị coi là vô hiệu, trách nhiệm tài sản do vi phạm hợp đồng kinh tế. Và vì vậy việc xây dựng đạo luật này là không cần thiết.
Thứ tư: Các quy định hiện hành trong Bộ luật Dân sự về hợp đồng là khá đầy đủ và tương đối phù hợp để điều chỉnh quan hệ hợp đồng trong hoạt động kinh doanh. Hơn nữa vấn đề sửa đổi, bổ sung Bộ luật Dân sự đang được đặt ra và không loại trừ khả năng bổ sung những quy phạm mang tính thương mại trong bộ luật này.
Bộ luật Dân sự của Việt Nam được xây dựng và ban hành trong điều kiện nước ta đang có những chuyển biến mạnh mẽ. Bộ luật Dân sự vừa kế thừa được những tinh hoa của truyền thống Luật dân sự, vừa đáp ứng được những yêu cầu mới nảy sinh trong thực tiễn giao lưu dân sự, kinh tế ở nước ta hiện nay. Chế định hợp đồng trong Bộ luật Dân sự được hình thành trên cơ sở pháp điển hóa các quy định về hợp đồng trong các văn bản pháp luật thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau và dưới hình thức khác nhau, từ bộ luật như Bộ luật Hàng hải Việt Nam (30-6-1990), các đạo luật như Luật Hàng không dân dụng Việt Nam (4-1-1992) đến các pháp lệnh như Pháp lệnh Hợp đồng dân sự (24-9-1991), Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế (25-9-1989), Pháp lệnh về nhà ở (26-3-1991), Pháp lệnh Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp (28-1-1989), Pháp lệnh Bảo hộ quyền tác giả (2-12-1994), Pháp lệnh Chuyển giao công nghệ nước ngoài vào Việt Nam (5-12-1988) đến các Nghị định, Điều lệ, Thể lệ, Quy chế…
Với hơn 200 điều quy định trực tiếp về hợp đồng và một số lượng lớn điều khoản quy định về đại diện, giao dịch dân sự và nghĩa vụ dân sự, Bộ luật Dân sự đã đề cập một cách toàn diện các nội dung của chế định hợp đồng, từ những vấn đề chung liên quan đến giao kết, thực hiện, sửa đổi, chấm dứt hợp đồng đến những nội dung riêng của từng loại hợp đồng cụ thể. Phần lớn các quy định trong Bộ luật Dân sự là phù hợp để điều chỉnh quan hệ hợp đồng trong kinh doanh.
Thứ năm: Tuy khái niệm hợp đồng kinh tế sau này sẽ không tồn tại trong pháp luật thực định nhưng tranh chấp phát sinh từ quan hệ hợp đồng này vẫn có thể được giải quyết bằng những phương thức riêng nhằm đáp ứng những yêu cầu mà thực tiễn kinh doanh đặt ra.
Kinh nghiệm về vấn đề này trên thế giới cũng hết sức đa dạng. Có những nước phân biệt hành vi thương mại với hành vi dân sự để rồi những tranh chấp nào phát sinh từ hành vi thương mại được giải quyết sơ thẩm theo thủ tục tố tụng riêng tại Tòa án thương mại hoặc Ban thương mại trong Tòa án dân sự thẩm quyền chung (Pháp, Đức, Bỉ, Áo). Trong khi đó có những nước hoàn toàn không phân biệt giao dịch thương mại với giao dịch dân sự, nhưng các tranh chấp phát sinh từ hoạt động kinh doanh vẫn được giải quyết bằng Tòa án riêng và theo thủ tục riêng (Liên bang Nga, Hà Lan, Thụy Sĩ, Thụy Điển), đặc biệt ngay cả Anh cũng có Tòa án giải quyết những khiếu nại về hạn chế quyền tự do kinh doanh; Mỹ có Tòa án về thương mại quốc tế. Lại có những nước phân biệt giao dịch thương mại với giao dịch dân sự nhưng những tranh chấp phát sinh từ hành vi này cũng chỉ được giải quyết tại Tòa án dân sự thẩm quyền chung như Nhật Bản. Như vậy, việc phân biệt hay không phân biệt hợp đồng kinh tế với hợp đồng không ảnh hưởng đến việc trao thẩm quyền giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng kinh tế cho các cơ quan tài phán riêng là Tòa án kinh tế và Trọng tài kinh tế (phi chính phủ). Chúng tôi xin đưa ra một giải pháp rất đơn giản là trong các văn bản pháp luật về tố tụng kinh tế hoặc trọng tài chỉ cần liệt kê những tranh chấp phát sinh từ một số quan hệ hợp đồng thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa kinh tế hoặc Trọng tài. Vấn đề này chúng tôi xin được trình bày chi tiết ở phần sau.
Nói tóm lại, trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần không cần thiết duy trì khái niệm hợp đồng kinh tế. Mọi hợp đồng, dù được giao kết giữa các chủ thể nào và nhằm mục đích nào đi chăng nữa cũng được coi là hợp đồng và chịu sự điều chỉnh chung của Bộ luật Dân sự. Căn cứ vào những đặc thù của hợp đồng trong từng lĩnh vực cụ thể, khi cần thiết có thể có những quy định riêng trong các văn bản pháp luật đơn hành trên cơ sở tiếp tục phát triển những quy định mang tính nguyên tắc chung về hợp đồng trong Bộ luật Dân sự. Có như vậy pháp luật về hợp đồng mới tạo thành một chỉnh thể thống nhất để trở thành một công cụ hữu hiệu bảo vệ quyền tự do kinh doanh.
2. VẤN ĐỀ SỬA ĐỔI, BỔ SUNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH ĐỂ PHÙ HỢP VỚI MÔ HÌNH MỚI CỦA PHÁP LUẬT HỢP ĐỒNG
Với mô hình pháp luật hợp đồng như chúng tôi đã trình bày ở phần trên thì các quy định pháp luật hiện hành phải được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp, tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể kinh doanh giao kết và thực hiện hợp đồng một cách mau chóng, đơn giản mà vẫn đảm bảo sự an toàn pháp lý cao.
2.1. Hoàn thiện chế định hợp đồng trong Bộ luật Dân sự
Vào thời điểm được ban hành, các quy định về hợp đồng trong Bộ luật Dân sự hết sức tiến bộ và giữ vai trò quan trọng trong việc tạo khung pháp luật cho các giao lưu dân sự, kinh tế. Nhiều nội dung trong chế định này tới thời điểm hiện nay vẫn giữ nguyên giá trị và hoàn toàn phù hợp để điều chỉnh các quan hệ hợp đồng trong kinh doanh như các quy định về nguyên tắc giao kết hợp đồng, điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự và các trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu, xử lý hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu; các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự; đại diện và ủy quyền giao kết hợp đồng… Nhưng để chế định hợp đồng trong Bộ luật Dân sự tiếp tục phát huy vai trò tích cực của nó trong việc điều chỉnh quan hệ hợp đồng trong kinh doanh cần phải được hoàn thiện ở các vấn đề sau:
Thứ nhất: Bộ luật Dân sự nên dùng khái niệm hợp đồng để thay thế cho khái niệm hợp đồng dân sự (như cách dùng hiện nay) để mở rộng phạm vi điều chỉnh của chế định hợp đồng sang cả quan hệ hợp đồng trong kinh doanh và quan hệ hợp đồng lao động.
Trên phương diện lý thuyết, do Điều 394 Bộ luật Dân sự đưa ra khái niệm hợp đồng dân sự không đề cập gì đến mục đích của hợp đồng mà những quy định về hợp đồng trong Bộ luật Dân sự phải được áp dụng cho mọi quan hệ hợp đồng. Nhưng trên thực tế vẫn phổ biến quan niệm cho rằng các quy định trong Bộ luật Dân sự chỉ áp dụng cho quan hệ hợp đồng dân sự, nghĩa là những hợp đồng được ký kết để phục vụ cho mục đích sinh hoạt tiêu dùng mà thôi. Các Thẩm phán khi giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh tế thường không áp dụng các quy định trong Bộ luật Dân sự. Để tránh sự hiểu lầm trên chúng tôi cho rằng trong Bộ luật Dân sự (sửa đổi) nên sử dụng thuật ngữ hợp đồng thay cho thuật ngữ hợp đồng dân sự.
Thứ hai: Thủ tục giao kết hợp đồng trong Bộ luật Dân sự cũng phải được quy định hết sức cụ thể và minh bạch để các quan hệ hợp đồng, đặc biệt là các quan hệ hợp đồng phục vụ cho hoạt động kinh doanh của các chủ thể được thiết lập một cách mau chóng, đơn giản mà vẫn bảo đảm sự an toàn về mặt pháp lý. Muốn vậy, Bộ luật Dân sự phải quy định chi tiết về các vấn đề sau:
- Các điều kiện (về nội dung, hình thức) của đề nghị giao kết hợp đồng và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng; trách nhiệm pháp lý của người đề nghị giao kết hợp đồng và thời điểm phát sinh trách nhiệm này; những trường hợp sửa đổi, bổ sung, rút lại hay chấm dứt đề nghị giao kết hợp đồng và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng.
- Người có thẩm quyền ký kết hợp đồng. Vấn đề đại diện và ủy quyền để thiết lập và thực hiện các giao dịch tuy đã được quy định tại chương VI phần thứ nhất và mục 12, chương II phần thứ ba Bộ luật Dân sự nhưng cần được cụ thể hóa trong phần quy định về hợp đồng. Bởi đây là vấn đề hết sức phức tạp trong thực tế ký kết hợp đồng, đặc biệt là các hợp đồng trong kinh doanh. Chúng tôi cho rằng việc ủy quyền và ủy quyền lại phải được áp dụng rộng rãi trong việc giao kết và thực hiện hợp đồng mà không phụ thuộc vào hợp đồng đó được ký kết bằng phương thức trực tiếp hay gián tiếp; hợp đồng đó có phải đăng ký hoặc chứng nhận của công chứng hay không.
- Bộ luật Dân sự, một mặt cần quy định rõ thế nào là văn bản hợp đồng theo hướng thừa nhận các thông tin được các bên gửi cho nhau qua đường điện tín (telex, fax) và các hình thức thông tin kỹ thuật số (thư điện tử và các hình thức thông tin điện tử khác) là văn bản hợp đồng, mặt khác hạn chế quy định cứng nhắc những loại hợp đồng bắt buộc phải ký kết dưới hình thức văn bản mà nên đề cao quyền tự thỏa thuận của các bên để lựa chọn hình thức hợp đồng phù hợp.
- Bộ luật Dân sự phải có những quy định mang tính nguyên tắc về việc giao kết hợp đồng thông qua thủ tục đấu thầu, đấu giá để tạo sự thống nhất trong các quy định pháp luật về đấu thầu và đấu giá hiện đang tản mát ở nhiều văn bản pháp luật khác nhau.
Thứ ba: Bộ luật Dân sự cần bổ sung những quy định riêng về giao kết và thực hiện hợp đồng thông qua các phương tiện thông tin kỹ thuật số để tạo cơ sở pháp lý cho sự phát triển thương mại điện tử (E-commerce) ở nước ta.
Sự bùng nổ của thông tin liên lạc đã tác động mạnh đến mọi mặt đời sống con người. Việc các bên trực tiếp gặp gỡ, đàm phán và cùng ký vào văn bản hợp đồng đã trở nên không tiện dụng và nhiều khi chỉ phù hợp với những hợp đồng đòi hỏi hình thức trang trọng. Tham gia các giao dịch với sự trợ giúp của các phương tiện thông tin điện tử đang ngày càng phổ biến và trở nên một yếu tố không thể thiếu của kinh doanh hiện đại. Các khái niệm “nền kinh tế số”, “thương mại điện tử”, “siêu thị ảo”, “văn phòng ảo” đã được bổ sung vào hệ ngôn ngữ phổ thông của rất nhiều quốc gia. Lợi thế to lớn của thương mại điện tử là không thể phủ nhận. Để phát triển thương mại điện tử, Bộ luật Dân sự phải giải quyết được các vấn đề pháp lý sau:
- Hình thức của hợp đồng ký qua mạng Internet phải như thế nào? Liệu các hình thức thông tin kỹ thuật số, như thư điện tử (E-mail) chẳng hạn, có được coi là văn bản hợp đồng không? Hiện nay, trong các văn bản pháp luật của Việt Nam chỉ duy nhất có Luật Thương mại thừa nhận thư điện tử và các hình thức thông tin điện tử khác là văn bản hợp đồng. Rất tiếc quy định này được cơ cấu riêng trong mục 2 – Mua bán hàng hóa làm chúng ta không rõ quy định đó có được áp dụng cho các quan hệ hợp đồng khác hay không?
- Những thông tin kỹ thuật số nào được coi là đề nghị giao kết hợp đồng và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng; trách nhiệm và thời điểm phát sinh trách nhiệm của người đề nghị và người được đề nghị giao kết hợp đồng được xác định như thế nào?
- Thời điểm và địa điểm giao kết hợp đồng được xác định ra sao?
- Chữ ký điện tử của các bên nhằm xác nhận nội dung giao dịch được thực hiện như thế nào?
- Vấn đề năng lực chủ thể của các bên giao kết hợp đồng và thẩm quyền của người đại diện cho các bên ký kết hợp đồng được xác định ra sao? Giá trị pháp lý của những
“hợp đồng điện tử” được ký kết bởi những người không có năng lực hành vi dân sự đầy
đủ hoặc những người không có thẩm quyền đại diện ký kết sẽ như thế nào? Xử lý hậu quả ra sao?
- Giá trị chứng cứ của văn bản điện tử ra sao khi có tranh chấp phát sinh từ “hợp đồng điện tử” này?
Hàng loạt các vấn đề như vậy phải được Bộ luật Dân sự quy định về nguyên tắc để tạo cơ sở cho việc quy định cụ thể trong các văn bản pháp luật chuyên ngành sau này.
Thứ tư: Trong Bộ luật Dân sự (sửa đổi) phải quy định bổ sung một số loại hợp đồng thông dụng, bên cạnh những loại hợp đồng đã được quy định hiện nay. Bộ luật Dân sự hiện hành đã quy định riêng về 13 loại hợp đồng. Trong điều kiện kinh tế thị trường, nhiều quan hệ hợp đồng mới đã hình thành, nhiều biến thể của các hợp đồng thông dụng đã xuất hiện mà chưa được Bộ luật Dân sự quy định như: hợp đồng cung cấp điện năng, nước, điện thoại; hợp đồng mua bán hoặc cho thuê doanh nghiệp hoặc cơ sở kinh doanh; hợp đồng cho thuê tài chính (leasing); hợp đồng xây dựng; hợp đồng kỹ thuật; các hợp đồng liên quan đến hoạt động ngân hàng; hợp đồng đại lý, ủy thác, môi giới; hợp đồng liên doanh, liên kết kinh tế; hợp đồng tín thác…
Tuy nhiên, Bộ luật Dân sự (sửa đổi) không thể quy định hết về những quan hệ hợp đồng nói trên mà chỉ nên quy định về những quan hệ hợp đồng nào đã phổ biến trong thực tế mang tính ổn định lâu dài và “ưu tiên” cho những quan hệ hợp đồng chưa được quy định trong những văn bản pháp luật đơn hành.
2.2. Hoàn thiện các quy định của Luật Thương mại
Khi Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế hết hiệu lực thì Luật Thương mại trở thành nguồn quan trọng điều chỉnh quan hệ hợp đồng giữa các nhà kinh doanh với nhau và với các bên có liên quan nhằm triển khai hoạt động kinh doanh của mình. Luật Thương mại hiện hành chứa đựng một số lượng lớn các điều khoản quy định về hợp đồng. Tuy có hiệu lực từ 1-1-1998 nhưng vì nhiều lý do khác nhau mà Luật Thương mại chưa phát huy được vai trò trong thực tiễn. Việc hoàn thiện Luật Thương mại được đặt ra như một tất yếu khách quan. Luật Thương mại phải được hoàn thiện trên cơ sở tiếp tục phát triển các quy định mang tính nguyên tắc của Bộ luật Dân sự, cụ thể hóa các nguyên tắc này và làm cho nó thích dụng để điều chỉnh quan hệ hợp đồng trong kinh doanh. Như vậy, phải xác định được vấn đề nào đã được quy định trong Bộ luật Dân sự và không cần quy định lại trong Luật Thương mại, vấn đề nào phải được quy định riêng trong Luật Thương mại để phù hợp với yêu cầu điều chỉnh pháp luật đối với hoạt động kinh doanh. Hoàn thiện Luật Thương mại, theo chúng tôi cần lưu ý tới những điểm sau đây:
Thứ nhất: Khái niệm thương mại trong Luật Thương mại phải được hiểu theo nghĩa rộng, gồm toàn bộ các hoạt động từ đầu tư vốn, sản xuất, mua bán đến việc cung ứng mọi loại dịch vụ nhằm mục đích sinh lợi. Hiểu thương mại theo nghĩa này sẽ tạo điều kiện mở rộng phạm vi điều chỉnh của Luật Thương mại tới mọi hành vi kinh doanh của các chủ thể và khi đó Luật Thương mại trở thành nguồn bổ sung quan trọng cho Bộ luật Dân sự trong việc điều chỉnh những quan hệ hợp đồng trong kinh doanh. Những vấn đề riêng về hợp đồng trong kinh doanh nếu chưa được quy định trong Bộ luật Dân sự thì có thể quy định trong Luật Thương mại. Mặt khác hiểu thương mại theo nghĩa rộng là phù hợp với thông lệ và luật pháp quốc tế. Luật Thương mại (sửa đổi) cần đưa ra khái niệm khái quát nhất về hành vi thương mại theo hướng: hành vi thương mại là mọi hành vi được thực hiện với mục đích lợi nhuận. Đồng thời, Luật Thương mại có thể liệt kê và quy định chi tiết về một số hành vi thương mại điển hình.
Thứ hai: Một số nội dung trong Luật Thương mại hiện hành phải được cơ cấu lại để có thể áp dụng chung cho mọi hành vi thương mại chứ không chỉ áp dụng riêng cho quan hệ mua bán hàng hóa như hiện nay. Ví dụ, các quy định về thủ tục giao kết hợp đồng, hình thức văn bản của hợp đồng, các trường hợp miễn trách nhiệm do vi phạm hợp đồng. Hiện nay, các vấn đề này được quy định trong mục 2 về mua bán hàng hóa. Trong Luật Thương mại (sửa đổi) những nội dung này phải được bố trí thành những phần riêng, độc lập để áp dụng cho mọi hợp đồng trong hoạt động thương mại.
Thứ ba: Luật Thương mại không nên quy định cứng nhắc những nội dung chủ yếu của hợp đồng như hiện nay mà nên dành quyền thỏa thuận về điều khoản chủ yếu cho các bên tham gia quan hệ hợp đồng.
Luật Thương mại quy định quá cụ thể những nội dung chủ yếu của hợp đồng trong hoạt động thương mại. Theo tinh thần của Bộ luật Dân sự thì nội dung chủ yếu của hợp đồng là những điều khoản mà thiếu những điều khoản đó thì hợp đồng không thể giao kết được. Việc Luật Thương mại quy định quá cụ thể như vậy sẽ ảnh hưởng đến quyền tự do thỏa thuận, tự do quyết định nội dung hợp đồng của các bên và làm hạn chế tính linh hoạt của hoạt động kinh doanh. Hơn nữa quy định này có thể làm ảnh hưởng tới sự an toàn pháp lý cho các bên trong quan hệ hợp đồng, khi một bên muốn rũ bỏ nghĩa vụ thực hiện hợp đồng bằng cách viện lý do hợp đồng chưa được xác lập do thiếu một trong các điều khoản chủ yếu. Từ sự phân tích trên, theo chúng tôi, Luật Thương mại (sửa đổi) nên quy định: “Nội dung của hợp đồng do các bên thỏa thuận và có thể gồm các điều khoản dưới đây…”. Sau đó có thể liệt kê một số điều khoản đặc trưng của chủng loại hợp đồng đó để định hướng cho các bên thỏa thuận về những nội dung chi tiết của hợp đồng.
Chú thích:
(1) TS. Lê Hồng Hạnh, Khái niệm thương mại trong pháp luật Việt Nam và những bất cập dưới góc độ thực tiễn áp dụng và chính sách hội nhập, Tạp chí Luật học số 4 năm 2000.
(2), (3) TS. Hoàng Thế Liên, Xác định đối tượng và phạm vi điều chỉnh của Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế (sửa đổi), Thông tin Khoa học Pháp lý số 4 năm 1999.
(4) TS. Dương Đăng Huệ, Sự cần thiết ban hành Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế sửa đổi, Tạp chí Tòa án nhân dân số 1 năm 1998.
(5) A.IA. Xukharep - V.E. Krutxkich (chủ biên), Đại từ điển pháp luật (Bản tiếng Nga), Nxb Inphra-M. Matxcơva, 2000, tr. 472.
(6) Bộ luật Dân sự Liên bang Nga (Bản tiếng Nga), Nxb Inphra-M., Matxcơva, 1996.
(7) TS. Nguyễn Am Hiểu, Mấy vấn đề về pháp luật kinh tế Việt Nam hiện nay, Tạp chí Luật học số 3 năm 1999.
SOURCE: TẠP CHÍ KHOA HỌC PHÁP LÝ SỐ 4/2001
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét