Thứ Bảy, 13 tháng 6, 2009

BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯOIF TIÊU DÙNG, NHÌN TỪ GÓC ĐỘ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC

TS. ĐINH THỊ MỸ LOAN - Cục trưởng Cục Quản lý cạnh tranh, Bộ Công thương

Vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng gần đây được đề cập khá nhiều và được coi là một trong những vấn đề quan trọng và nóng bỏng trên con đường hội nhập kinh tế quốc tế và phát triển bền vững của đất nước ta.

Tuy nhiên, cũng phải thẳng thắn thừa nhận rằng, cho đến những ngày trước “đổi mới”, hầu như quyền lợi của người tiêu dùng nói chung và bộ máy bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng nói riêng chưa được chú ý một cách thích đáng, kể cả từ góc độ người sản xuất, kinh doanh hàng hoá và cung ứng dịch vụ lẫn nhận thức của toàn xã hội. Điều này có nguyên nhân sâu xa từ những năm tháng chiến tranh khốc liệt, chúng ta phải tập trung cho sự nghiệp giành độc lập và bảo vệ Tổ quốc cũng như giai đoạn phục hồi sau đó, mọi nhu cầu tiêu dùng đều ở mức tối thiểu. Chính vì vậy, vấn đề bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng chưa được chú trọng trong thời kỳ này phần nào do những nguyên nhân khách quan nhất định.

Bước vào thời kỳ đổi mới, nước ta đã chuyển mạnh từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa. Cũng từ đây, quan hệ mua bán, giao dịch giữa một bên là nhà sản xuất, kinh doanh hàng hoá và dịch vụ với một bên là người bỏ tiền ra mua hàng hoá và dịch vụ để phục vụ cho sinh hoạt, tiêu dùng của cá nhân, gia đình và tổ chức (được gọi chung là người tiêu dùng) đã được xác lập với vai trò ngày càng được nâng cao của người tiêu dùng.

Công tác bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng ở thời kỳ này có thể nói đã có những chuyển biết rất tích cực, đặc biệt sau khi Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng có hiệu lực, với những nỗ lực của Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường (nay là Bộ Khoa học và Công nghệ) - cơ quan chịu trách nhiệm trước Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong phạm vi cả nước, Tổng cục Tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng, Chi cục tại các tỉnh, thành phố, Hội Tiêu chuẩn và Bảo vệ người tiêu dùng (VINASTAS) cùng mạng lưới các Sở Khoa học, Công nghệ và Môi trường và các Hội bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở các địa phương. Tuy nhiên, công tác bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng nói chung và hoạt động của bộ máy bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng nói riêng còn bộc lộ nhiều điểm yếu, còn nhiều bất cập: từ vấn đề nâng cao nhận thức về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cho toàn xã hội (cho cộng đồng doanh nghiệp, các cơ quan - tổ chức liên quan và cho chính bản thân người tiêu dùng); những vấn đề như tiêu dùng bền vững, tiêu dùng “xanh” (bảo vệ môi trường), chống hàng giả v.v.. cho đến những hiện tượng mới nảy sinh trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế như các hành vi quảng cáo, khuyến mại không trung thực, bán hàng đa cấp bất chính, gian lận và lừa đảo trên mạng/net v.v và v.v… Tất cả những điều này đòi hỏi chúng ta phải có cách nhìn mới và cách tiếp cận mới nhằm tăng cường hiệu quả trong công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.

Trong giai đoạn hiện nay, tuy đã có những bước tiến đáng khích lệ, công tác bảo vệ người tiêu dùng vẫn còn là vấn đề mới, phức tạp và đang đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức rất lớn. Trên góc độ quản lý nhà nước, cần coi trọng những nội dung sau:

1. Nâng cao nhận thức về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

toàn xã hội, cộng đồng doanh nghiệp, các cơ quan quản lý nhà nước và chính người tiêu dùng chưa có nhận thức đầy đủ về công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, đặc biệt là những vấn đề như tiêu dùng bền vững, tiêu dùng xanh, tiêu dùng hợp lý, vấn đề vệ sinh, an toàn thực phẩm v.v.. trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, đặc biệt sau khi Việt Nam trở thành thành viên của WTO.

Công tác tuyên truyền, giáo dục về trách nhiệm của các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ hiện tại còn chưa đủ mạnh. Bên cạnh các doanh nghiệp làm ăn chân chính, thực hiện phương châm “khách hàng là thượng đế” với những hoạt động thiết thực như chú trọng nâng cao chất lượng, cải tiến mẫu mã, hạ giá thành, coi trọng công tác hậu mãi, bảo hành sản phẩm, có trách nhiệm trong việc giải quyết khiếu nại của người tiêu dùng thì cũng còn nhiều hiện tượng tiêu cực như làm hàng giả để đánh lừa người tiêu dùng, quảng cáo gây nhầm lẫn, quảng cáo gian dối, từ chối bảo hành, thoái thác trách nhiệm đối với hàng hoá và dịch vụ của mình…

Về phía mình, chính bản thân người tiêu dùng cũng chưa nhận thức đầy đủ quyền và trách nhiệm của mình, trong đó có quyền lựa chọn hàng hoá,dịch vụ; được cung cấp các thông tin trung thực, được bảo đảm an toàn về tính mạng, sực khoẻ và môi trường; có quyền đòi bồi thường thiệt hại, quyền khởi kiện v.v.. và trách nhiệm tự bảo vệ mình, phát hiện, tố cáo các hành vi gian dối về tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng nhãn hiệu hàng hoá, giá cả và các hành vi lừa dối khác … Tình trạng này còn nghiêm trọng hơn ở các vùng sâu, vùng xa, nơi người tiêu dùng có rất ít cơ hội tiếp cận với việc tìm hiểu và thực thi quyền và trách nhiệm của mình.

Bởi vậy, các cơ quan quản lý nhà nước các ngành, các cấp và các địa phương cần nâng cao hơn nữa nhận thức về tầm quan trọng của công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và cần thiết hơn là đảm bảo cho quyền lợi của người tiêu dùng được bảo vệ trên thực tế.

Để nâng cao nhận thức về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng một cách toàn diện cần:

- Nâng cao nhận thức cho người tiêu dùng để tự bảo vệ chính mình; giáo dục, nâng cao nhận thức cho cộng đồng doanh nghiệp về trách nhiệm của họ đối với người tiêu dùng.

- Các cơ quan quản lý nhà nước và tổ chức bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng từ mỗi vị trí của mình có trách nhiệm lớn trong việc tạo điều kiện, hỗ trợ, hưóng dẫn việc tuyên truyền, giáo dục để nâng cao nhận thức về bảo vệ người tiêu dùng cho toàn xã hội.

- Công tác tuyên truyền, giáo dục cần được tiến hành thường xuyên và với nhiều cấp độ, nhiều hình thức phong phú, ví dụ: tổ chức các hội thảo, khoá đào tạo về bảo vệ người tiêu dùng cho đại diện người tiêu dùng và cộng đồng doanh nghiệp; tuyên truyền, phổ biến các kiến thức, thông tin về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trên nhiều phương tiện truyền thông khác nhau: truyền hình, rađiô, báo, tạp chí và internet; qua trả lời phỏng vấn, đối thoại trực tuyến với cộng đồng người tiêu dùng…; ban hành các ấn phẩm, tờ rơi về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng v.v...

Các hoạt động khác như gây dựng hình ảnh, niềm tin về cơ quan bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong con mắt người tiêu dùng; tổ chức các sự kiện về quyền của người tiêu dùng như Ngày “Quyền của người tiêu dùng” vào tháng 3 hàng năm như Cục Quản lý cạnh tranh Bộ Thương mại đã làm trong thời gian qua, tiến tới xây dựng “Tuần lễ quốc gia về người tiêu dùng” như một số nước (Hàn Quốc, Hoa Kỳ, Niu Di-lân…) cũng góp phần tích cực vào việc nâng cao nhận thức bảo vệ người tiêu dùng cho toàn xã hội. Khi điều kiện cho phép, cần nghiên cứu đưa các nội dung giáo dục về tiêu dùng vào chương trình ở các cấp học như một số nước, đặc biệt là các nội dung liên quan đến quyền và trách nhiệm của người tiêu dùng, tiêu dùng bền vững, tiêu dùng và bảo vệ môi trường v.v…

2. Hoàn thiện luật pháp về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 1999 đã có những tác động tích cực đến đời sống kinh tế - xã hội của nước ta, từng bước đưa hoạt động bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng vào nền nếp, ngăn chặn các hành vi bất hợp pháp gây ảnh hưởng xấu đến việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Tuy nhiên, cho đến nay, Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng đã bộc lộ những hạn chế và bất cập như tính khả thi của Pháp lệnh và Nghị định hướng dẫn chưa cao, nhiều quy định khá chung chung khó thực thi; một số điểm chưa mang tính cập nhật hoặc chưa bao quát được những vấn đề liên quan đến tự do hoá thương mại và tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, đặc biệt là sau khi nước ta trở thành thành viên chính thức của WTO; chưa có các chế tài đủ mạnh cho cơ quan bảo vệ người tiêu dùng (Luật pháp các nước như Mỹ, Ma-lai-xi-a, Ấn Độ… đều trao thẩm quyền xử phạt cho cơ quan bảo vệ người tiêu dùng) và chưa có quy định về cơ chế phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng nhằm đảm bảo hiệu quả của công tác này. Chính vì vậy, Bộ Thương mại với tư cách là cơ quan thực hiện chức năng quản lý nhà nước trong lĩnh vực này cho rằng cần phải bổ sung, sửa đổi Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùngvà nâng lên thành Luật cho phù hợp với yêu cầu của tình hình mới. Điều đó sẽ tạo điều kiện thuận lợi và nâng cao tầm quan trọng của công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; nâng cao tính khả thi, tính minh bạch của Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và tạo hành lang pháp lý thuận lợi để góp phần phát triển môi trường kinh doanh lành mạnh, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người kinh doanh, người tiêu dùng, phát huy tối đa nguồn lực của mọi thành phần kinh tế phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động thương mại nói chung và vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng nói riêng.

Trước mắt, Bộ Thương mại đã có kế hoạch xây dựng và trình Chính phủ trong năm 2007 Dự thảo sửa đổi, bổ sung Nghị định hướng dẫn thi hành Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong thời gian chờ đợi Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng được xây dựng và được Quốc hội thông qua, dự kiến trong nhiệm kỳ 2007-2012.

3. Nghiên cứu nội dung, yêu cầu bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong quá trình hội nhập kinh tế quốc

Trên con đường hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, Việt Nam có nhiều cơ hội mới trong việc thoả mãn những nhu cầu cơ bản nói riêng, trong đó có quyền tiếp cận với nhiều sản phẩm và dịch vụ với chất lượng đảm bảo và giá cả thích hợp và thực sự được sử dụng các quyền của người tiêu dùng nói chung. Tuy nhiên, quá trình này cũng tiềm ẩn nhiều yếu tố có thể khiến cho việc kiểm soát an toàn, chất lượng của hàng hoá, dịch vụ nhập khẩu trở nên khó khăn hơn, việc xử lý sai phạm của doanh nghiệp ở nước ngoài cũng trở nên phức tạp. Đồng thời, sự phát triển của công nghệ thông tin kéo theo nhiều loại hình kinh doanh mới (như mua hàng qua điện thoại, qua internet…), và những vấn đề mới như thư rác (spam), lừa đảo trên Internet cũng càng trở nên tinh vi hơn.

Nhiều hành vi kinh doanh hiện đại cũng đang dần xuất hiện và phát triển với tốc độ nhanh chóng (bán hàng từ cửa đến cửa, bán hàng đa cấp…) và, trong một số trường hợp đã có những biến tướng, những biểu hiện bất chính cần được xử lý. Những hành vi như vậy không chỉ gây thiệt hại kinh tế cho những người bị lừa gạt mà còn ảnh hưởng tiêu cực tới tình hình xã hội nói chung. Bởi lẽ những người tiêu dùng là nạn nhân của hành vi gian lận, lừa đảo này chủ yếu là những người có thu nhập thấp, trình độ hiểu biết còn hạn chế và sống ở khu vực nông thôn. Ở mức độ nghiêm trọng hơn, những hành vi hạn chế cạnh tranh như thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền… cũng sẽ làm môi trường cạnh tranh bị bóp méo, ảnh hưởng tới giá cả hàng hóa, dịch vụ và từ đó gây thiệt hại đối với quyền lợi người tiêu dùng.

Gia nhập WTO và phát triển kinh tế mạnh mẽ cũng làm thay đổi xu hướng tiêu dùng, ví dụ: thay đổi thói quen mua sắm từ mua sắm hàng ngày ở các chợ, kể cả các chợ được gọi là “chợ cóc, chợ tạm” đến mua sắm khối lượng lớn cho cả tuần tại các siêu thị, trung tâm mua sắm và qua mạng internet cũng như tăng giá trị mua sắm; xu hướng sử dụng ngày càng nhiều các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ, kể cả chăm sóc sắc đẹp cho cả phụ nữ và nam giới; dịch vụ du lịch; dịch vụ bảo hiểm, giáo dục … Tầng lớp có thu nhập khá và thu nhập cao tăng lên và trở thành lực lượng tiêu dùng các mặt hàng cao cấp, sẽ đặt ra yêu cầu mới cho công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Những vấn đề này tuy chưa phải là ưu tiên trước mắt, nhưng cần tập trung nghiên cứu để có một tầm nhìn tổng thể, lâu dài và chuẩn bị cho tương lai.

4. Giải quyết khiếu nại, khiếu kiện của người tiêu dùng

Người tiêu dùng là tất cả mọi người, là số đông trong xã hội nhưng khi hành động thì chủ yếu là hành động riêng lẻ. Trong quan hệ giao dịch với doanh nghiệp, người tiêu dùng thường đứng ở thế yếu, và thường chịu thiệt thòi, nhiều khi bất bình nhưng không hoặc chưa biết cách đấu tranh để bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình.

Từ những điểm yếu trong nhận thức về quyền và trách nhiệm của mình, người tiêu dùng Việt Nam thường e ngại khi cần khiếu nại trực tiếp với người sản xuất, kinh doanh hàng hoá và dịch vụ, chưa nói đến việc khiếu kiện ra các cơ quan chức năng hoặc tòa án để bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình. Có thể nói rằng việc giải quyết khiếu nại, khiếu kiện của người tiêu dùng còn rất nhiều khó khăn và bất cập.

Ngay cả khi người tiêu dùng tiến hành khiếu nại, khiếu kiện (tự mình hoặc thông qua Văn phòng khiếu nại của người tiêu dùng trực thuộc VINASTAS và các Hội Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở các tỉnh/thành phố) thì việc giải quyết khiếu nại, khiếu kiện của người tiêu dùng không hề đơn giản do nhiều nguyên nhân, trong đó có thể kể đến thái độ coi thường người tiêu dùng, vô tình hoặc cố ý vi phạm pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng… từ phía doanh nghiệp cũng như những khó khăn từ phía người tiêu dùng trong quá trình theo đuổi một vụ khiếu nại, khiếu kiện hoặc vấn đề cung cấp chứng cứ. Một số ví dụ hết sức đơn giản như khiếu nại về bảo hành mà không có giấy bảo hành, thói quen không yêu cầu hoá đơn/biên nhận khi mua bán, sử dụng hàng hoá và dịch vụ v.v… Hơn nữa, người tiêu dùng còn có tâm lý e ngại các thủ tục pháp lý và các chi phí khi khởi kiện ra tòa dân sự do thủ tục kiện tụng kéo dài cũng như những chi phí cho việc theo đuổi vụ kiện cũng làm nản lòng người khiếu kiện.

Nhiều doanh nghiệp vẫn chưa chú trọng lắng nghe và tiếp thu ý kiến của người tiêu dùng, đặc biệt trong việc thực hiện cam kết bảo hành, giải quyết khiếu nại từ phía người tiêu dùng. Trong thực tế, khi nhận được khiếu nại của người tiêu dùng liên quan đến hàng hóa, dịch vụ do mình cung cấp, một số doanh nghiệp chưa có biện pháp xử lý một cách kịp thời và hợp lý, thậm chí tìm nhiều cách để thoái thác trách nhiệm của mình.

Tóm lại, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của người tiêu dùng ở nước ta chưa thực sự đáp ứng được nhu cầu của thực tiễn, người tiêu dùng nói chung cũng chưa sử dụng quyền được khiếu nại, chỉ có một số rất ít khiếu nại trực tiếp đến người bán hàng/người cung cấp dịch vụ hoặc tìm đến sự can thiệp của cơ quan chức năng nhằm bảo vệ quyền lợi của mình, còn đại đa số bỏ qua, chấp nhận thiệt thòi. Chính vì vậy, mặc dù con số các vụ khiếu nại thông qua các Văn phòng khiếu nại không ngừng tăng lên trong vài năm vừa qua, nhưng con số 500 – 600 vụ khiếu nại/năm, trong đó có 85% số vụ đã được giải quyết(1) thực sự chưa phản ánh những bức xúc của đông đảo người tiêu dùng tại Việt Nam.

Để có cơ chế phối hợp hiệu quả giữa các lực lượng trong bộ máy bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng cũng như quy trình rõ ràng trong việc xử lý khiếu nại, tố cáo của người tiêu dùng cũng còn rất nhiều việc phải làm.

5. Nâng cao năng lực bộ máy bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Cơ quan được giao nhiệm vụ giúp Bộ trưởng Bộ Thương mại thực hiện chức năng quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng là Cục Quản lý cạnh tranh đã thành lập Ban Bảo vệ người tiêu dùng, nhưng đội ngũ cán bộ còn rất hạn chế, công việc luôn trong tình trạng quá tải. Nguồn nhân lực và tài chính hạn chế của bộ máy bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cũng là những khó khăn rất lớn cho việc nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.

Ở các địa phương, tình hình cũng không khả quan hơn. Tình trạng cán bộ kiêm nhiệm, thậm chí một số nơi không có cán bộ chuyên trách, cán bộ thiếu kinh nghiệm, đặc biệt là kinh nghiệm về cả xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng… cho đến kinh nghiệm xử lý vụ việc cụ thể. Điều này đã làm cho công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng chưa thực sự có hiệu quả, chưa ở tầm cao như chúng ta mong muốn.

Chính vì vậy, để nâng cao năng lực cho bộ máy bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cần triển khai và ưu tiên cho những việc sau:

- Kiện toàn bộ máy quyền lợi người tiêu dùng, bao gồm Cục Quản lý cạnh tranh và hệ thống các Sở Thương mại/ Thương mại - Du lịch các tỉnh, thành phố (phấn đấu có cán bộ, chuyên viên chuyên trách công tác bảo vệ người tiêu dùng) cho đến các cơ quan khác có liên quan. Bên cạnh đó, cần có cơ chế hỗ trợ hết sức không những cho Hội Tiêu chuẩn và Bảo vệ người tiêu dùng trung ương và địa phương để mở rộng phạm vi hoạt động của các hội (từ 28 Hội ở thời điểm hiện tại) và văn phòng khiếu nại đã được thành lập mà còn phải hỗ trợ cho việc thành lập và phát triển các hội và văn phòng khiếu nại ở các khu vực mà điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn.

- Đào tạo nguồn nhân lực và xây dựng cơ sở vật chất cũng như kinh phí hoạt động thích đáng cho công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, chú trọng tăng cường năng lực thực thi và đào tạo cán bộ làm công tác bảo vệ người tiêu dùng không chỉ tại các tỉnh, thành phố lớn mà còn cho các vùng sâu, vùng xa về các kiến thức, kinh nghiệm cơ bản và cập nhật những yêu cầu, đòi hỏi của thời kỳ mới như hội nhập kinh tế quốc tế và bảo vệ người tiêu dùng, bảo vệ người tiêu dùng trong thời đại thương mại điện tử.

- Thiết lập một hệ thống liên lạc giữa Cục Quản lý cạnh tranh, các Sở Thương mại và Du lịch và Hội Bảo vệ người tiêu dùng trung ương cũng như địa phương và duy trì sự ủng hộ, hợp tác của các cơ quan liên quan như Quản lý thị trường, Tiêu chuẩn – Đo lường - Chất lượng, Tài nguyên – Môi trường… - Công tác bảo vệ người tiêu dùng đòi hỏi sự phối hợp liên ngành do liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau như cạnh tranh, quản lý thị trường, tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm, dược phẩm, mỹ phẩm, dịch vụ ngân hàng, chất lượng dịch vụ bưu chính viễn thông, điện năng, nước sinh hoạt v.v… Hơn nữa, đặc thù của công tác bảo vệ người tiêu dùng là cần ưu tiên cho việc cung cấp thông tin và nâng cao nhận thức của người tiêu dùng về các quyền và trách nhiệm. Do đó, công tác bảo vệ người tiêu dùng không chỉ đòi hỏi sự phối hợp của các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan mà còn cần sự tham gia của các cơ quan thông tin đại chúng cũng như chính bản thân người tiêu dùng mới đạt hiệu quả cao nhất.

---------

(1) xem: Sổ tay Công tác bảo vệ Người tiêu dùng - Cục Quản lý cạnh tranh, Bộ Thương mại – Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, trang 42.

SOURCE: DIỄN ĐÀN CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM

Trích dẫn từ: http://vibonline.com.vn/vi-VN/Drafts/ReviewDetails.aspx?ReviewID=223

MỘT SỐ SUY NGHĨ VỀ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM TRONG TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ

GS.TS. VÕ THANH THU – Đại học Kinh tế TPHCM

Những đóng góp quan trọng trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế

Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đang được đẩy nhanh về quy mô và tốc độ. Thành tựu này có sự đóng góp quan trọng của ngành thương mại, nhất là những hoạt động của Bộ Thương mại. Có thể điểm qua một số thành tựu nổi bật như sau:

- Hàng trăm hiệp định thương mại song phương và đa phương được ký kết tạo điều kiện thuận lợi để đưa nền kinh tế Việt Nam hội nhập nhanh với khu vực và quốc tế.

- Bộ Thương mại trở thành lực lượng nòng cốt trong tham gia thúc đẩy và tư vấn xây dựng hệ thống pháp luật, tạo hành lang pháp lý mang tính bình đẳng, hội nhập nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp kinh doanh thuận lợi.

- Trước đây, hoạt động thương mại chủ yếu với các nước xã hội chủ nghĩa, đứng đầu là Liên Xô; khoảng trên 15 năm lại đây, doanh nghiệp Việt Nam đã có quan hệ xuất nhập khẩu với gần 220 nước và khu vực lãnh thổ.

- Từ vài chục doanh nghiệp nhà nước được độc quyền kinh doanh xuất nhập khẩu; hệ thống thương nghiệp xã hội chủ nghĩa chiếm vị trí độc tôn kinh doanh trên thị trường nội địa, thì nay mọi doanh nghiệp ở mọi quy mô kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế đều có quyền tiếp cận trực tiếp với thị trường trong, ngoài nước. Kim ngạch xuất khẩu của cả nước chỉ ở mức 0,3 tỉ USD (năm 1976) đã tăng lên trên 20 tỉ USD (năm 2004).

- Trong một thời gian dài, kinh doanh xuất khẩu diễn ra theo kiểu "hàng xén", nghĩa là xuất khẩu nhiều mặt hàng nhưng kim ngạch ở từng mặt hàng chỉ vài chục nghìn USD đến vài chục triệu USD. Đến nay, chúng ta đã có 7 nhóm ngành hàng có kim ngạch xuất khẩu từ 500 triệu USD trở lên; nhiều mặt hàng nông sản xuất khẩu có thứ hạng cao trên thị trường thế giới như hồ tiêu, gạo, cà phê, cao su, điều nhân…

- Từ chỗ chỉ xuất khẩu gia công, xuất khẩu theo giá FOB…, thì nay, một số doanh nghiệp đã lập văn phòng đại diện thương mại ở nước ngoài, thậm chí tổ chức phân phối trực tiếp ở thị trường nước xuất khẩu, một số doanh nghiệp đầu tư mở siêu thị tại Campuchia, Lào, Nga… tổ chức hội chợ để tăng cường đưa hàng hoá của Việt Nam sang các nước khu vực và thế giới.

- Trên thị trường nội địa, từ chỗ phân phối sản phẩm theo kiểu người mua phải "cầu cạnh" người bán, nay đã chuyển sang kinh doanh thương mại, khách hàng được tôn vinh là "thượng đế" với nhiều phương thức kinh doanh hiện đại như bán qua Internet, qua hệ thống siêu thị…

- Sau gần 20 năm thực thi chính sách mở cửa thị trường để hội nhập kinh tế quốc tế, một đội ngũ doanh nhân mới trong ngành thương mại đã được hình thành. Đội ngũ này có khả năng thương thuyết với khách hàng nước ngoài, cũng như xây dựng hệ thống phân phối và kinh doanh trong nước, phục vụ kịp thời cho các doanh nghiệp có vốn trong nước và cả các công ty đa quốc gia và xuyên quốc gia đang hoạt động tại Việt Nam.

Vấn đề đặt ra là cần tổng kết, đánh giá một cách nghiêm túc thực tiễn hoạt động thương mại để làm nền tảng xây dựng các chiến lược phát triển thương mại của Việt Nam trong thời gian tới.

Những hạn chế chủ yếu.

Thứ nhất, về cơ chế chính sách. Nội dung của Luật Thương mại còn lạc hậu, chưa bao quát mọi loại hình kinh doanh, mọi lĩnh vực kinh doanh thương mại; tốc độ sửa đổi luật và các văn bản dưới Luật Thương mại còn chậm, mang nặng tính tình huống "chữa cháy".

Quá trình làm luật và thông qua luật phục vụ cho hoạt động kinh doanh còn chậm, nhiều luật đã có nhưng nội dung lạc hậu, không đáp ứng yêu cầu hỗ trợ cho phát triển kinh tế thị trường năng động ở Việt Nam, gây trở ngại cho tiến trình hội nhập nhanh với nền kinh tế thế giới. Đây được xem là tồn tại chung, nhưng ngành thương mại có vai trò rất lớn vì là nơi nắm bắt, cập nhật nhất những nội dung kinh tế cần thiết phục vụ cho xây dựng các luật kinh doanh đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.

Việc tổ chức thực thi các cơ chế chính sách liên quan đến hoạt động thương mại còn nhiều hạn chế như việc phân phối hạn ngạch dệt may, thưởng xuất khẩu.

Thứ hai, về tuyên truyền hội nhập kinh tế quốc tế. Theo khảo sát của nhóm nghiên cứu Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, hầu hết các doanh nghiệp, đặc biệt các doanh nghiệp kinh doanh thuần tuý trên thị trường nội địa, đều bộc lộ sự thiếu am hiểu về nội dung các hiệp định hội nhập kinh tế quốc tế; nhận thức về cơ hội và những thách thức, khó khăn do hội nhập kinh tế quốc tế có thể mang lại còn không rõ, hoặc chưa chính xác. Nguyên nhân của tình trạng đó một phần do việc tuyên truyền về hội nhập chưa đầy đủ; đối tượng được mời nghiên cứu các hiệp định về hội nhập chưa chuẩn xác, chủ yếu chỉ mời các doanh nghiệp có hoạt động kinh doanh quốc tế. Trong khi đó, nội dung các hiệp định thương mại song phương và đa phương chủ yếu đề cập đến lộ trình mở cửa thị trường Việt Nam để tạo điều kiện thuận lợi cho hàng hoá, dịch vụ, đầu tư của nước ngoài vào thị trường Việt Nam, và như vậy đối tượng tiếp nhận cơ hội, nguy cơ nhiều nhất khi thực hiện hội nhập không phải là các doanh nghiệp xuất nhập khẩu hoặc các doanh nghiệp có quy mô lớn, mà là các doanh nghiệp, các cá thể kinh doanh có quy mô nhỏ, chỉ hoạt động trên thị trường nội địa. Ngoài ra, chất lượng các buổi báo cáo tuyên truyền về hội nhập kinh tế quốc tế còn chưa tốt do chất lượng đội ngũ báo cáo viên còn hạn chế.

Thứ ba, tốc độ phát triển xuất khẩu cao, nhưng chưa tương xứng với tiềm năng kinh tế. So với các nước ASEAN- 6, thì mức xuất khẩu của Việt Nam còn thấp, chỉ bằng 1/3 so với Thái Lan. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu thấp hơn so với nhập khẩu, dẫn tới nhập siêu lớn (gần 5 tỉ USD trong năm 2003).

Thứ tư, cơ cấu ngành hàng xuất khẩu đã được cải tiến nhưng còn lạc hậu, chủ yếu xuất khẩu hàng sử dụng nhiều lao động, hàng nông sản ít qua chế biến, giá trị thấp mà tính bất ổn trong xuất khẩu cao, sẽ ảnh hưởng rất mạnh đến đời sống kinh tế xã hội của đất nước. Nhiều mặt hàng có tiềm năng xuất khẩu lớn như sản phẩm chăn nuôi chưa được phát huy.

Thứ năm, sự phụ thuộc của xuất khẩu nước ta vào 4 nhóm thị trường (Mỹ, EU, Nhật, ASEAN). Vì thế, bất cứ sự biến động nào của thị trường thế giới cũng đều ảnh hưởng đến đời sống kinh tế - xã hội trong nước.

Thứ sáu, phương thức kinh doanh xuất khẩu còn lạc hậu. Tỷ lệ xuất khẩu gia công còn lớn; tỷ lệ thực hiện phân phối trực tiếp trên thị trường nước nhập khẩu còn nhỏ. Sự tác động của ngành thương mại đối với sản xuất hàng xuất khẩu còn yếu, chủ yếu mới thực hiện thương mại cái gì ta có. Rất ít các nhà kinh doanh tác động đến sản xuất bằng đơn đặt hàng (hướng dẫn sản xuất) bằng những hợp đồng bao tiêu sản phẩm. Chưa có tập đoàn thương mại lớn có khả năng chi phối thị trường Việt Nam và tạo được ảnh hưởng trên thị trường khu vực và quốc tế.

Thứ bảy, thị trường nội địa chưa được coi trọng, chưa xây dựng chiến lược phát triển thị trường nội địa trong tương lai. Phương thức kinh doanh thương mại trên thị trường nội địa còn lạc hậu, manh mún…. Quản lý thị trường nội địa chưa khoa học, còn quá nhiều kẽ hở nên hiện tượng buôn lậu, hàng gian, hàng giả, lừa đảo trong hoạt động thương mại vẫn xảy ra, tác động tiêu cực đến đời sống kinh tế - xã hội của đất nước.

Thứ tám, chất lượng hàng hoá chưa cao, mẫu mã chưa độc đáo, chủng loại chưa phong phú nên sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam còn thấp. Giá thành sản phẩm còn cao do nguyên liệu chủ yếu là nhập khẩu, giá đất đai, giá dịch vụ cao… Hệ thống phân phối bán hàng còn lạc hậu. Chưa tạo được nhiều thương hiệu sản phẩm, dịch vụ có uy tín trên thị trường trong và ngoài nước. Nếu không nâng cao khả năng cạnh tranh thì chẳng những hoạt động xuất khẩu sẽ gặp khó khăn mà có thể sản phẩm Việt Nam sẽ cạnh tranh kém so với hàng hoá của các nước trong khu vực trên thị trường nội địa.

Bên cạnh những bất cập nêu trên cần phân tích những vấn đề liên quan đến chính sách vĩ mô để tạo lập những căn cứ thực tiễn phục vụ cho xây dựng chiến lược phát triển ngành thương mại Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.

Mấy kiến nghị về giải pháp phát triển thương mại Việt Nam

- Sớm xây dựng và hoàn chỉnh hệ thống pháp lý có liên quan đến hoạt động thương mại. Hệ thống này phải đảm bảo tính đầy đủ, đồng bộ, toàn diện, mang tính hội nhập và ưu tiên hàng đầu là chỉnh sửa Luật Thương mại.

- Bộ Thương mại cùng với các bộ, các địa phương tổ chức tuyên truyền nội dung các hiệp định thương mại song phương, đa phương cho tất cả các đối tượng kinh doanh trong nền kinh tế để nhận thức rõ các cơ hội, các nguy cơ do hội nhập kinh tế quốc tế mang lại. Muốn nâng cao hiệu quả của công tác tuyên truyền, nhất thiết phải có chuyên gia giỏi, có tài liệu hướng dẫn; các báo cáo tham luận phải theo chủ đề mang lại sự thiết thực cho từng đối tượng doanh nghiệp. Kết quả của hoạt động tuyên truyền là doanh nghiệp tự nhận thức được hội nhập kinh tế quốc tế là cần thiết và mang tính tất yếu khách quan, nó mang đến cho doanh nghiệp cả cơ hội lẫn thách thức, nhưng từ thách thức sẽ thúc đẩy doanh nghiệp chủ động nâng cao khả năng cạnh tranh để hội nhập có hiệu quả.

- Xây dựng cơ chế chính sách hỗ trợ thành lập những tập đoàn thương mại mạnh, có khả năng chi phối thị trường trong và ngoài nước, trước hết ở các ngành hàng gạo, cà phê, thủy sản, cao su, sắt thép, xi măng…

- Khuyến khích phát triển mô hình gắn kết chặt chẽ, mang tính cộng sinh giữa thương mại và sản xuất sao cho thương mại tác động vào sản xuất, đặt hàng với họ và đưa sản phẩm ra thị trường thế giới.

- Phát triển các loại hình thương mại dịch vụ hỗ trợ cho hoạt động thương mại nâng cao tính hiệu quả như: phát triển logistic; thương mại qua mạng; môi giới thương mại; sàn giao dịch hàng hoá…

- Đẩy mạnh cổ phần hoá các công ty thương mại nhà nước để tăng cường vốn cho các doanh nghiệp nâng cao năng lực kinh doanh của mình. Tiến tới Bộ Thương mại không còn các công ty trực thuộc ngành, mà chuyển sang hoạt động theo cơ chế thị trường thực sự theo luật kinh doanh chung.

- Xây dựng cơ chế hoạt động của các loại hình trung tâm thương mại ở nước ngoài. Xây dựng Trung tâm Luật Thương mại Quốc tế để hỗ trợ cho các hiệp hội ngành hàng, các doanh nghiệp bảo vệ quyền lợi của mình trên thị trường quốc tế với tư cách là người đại diện thương mại của Chính phủ.

- Nâng cao hiệu quả hoạt động xúc tiến thương mại. Tiếp tục thực thi chính sách đa dạng hoá thị trường, đa phương hoá mối quan hệ để phân tán rủi ro trong kinh doanh xuất khẩu.

SOURCE: TẠP CHÍ CỘNG SẢN SỐ 78 NĂM 2005

Thứ Tư, 3 tháng 6, 2009

NÂNG CAO VAI TRÒ CHỦ ĐẠO CỦA KINH TẾ NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

PGS.TS. TÔ HUY RỨA

Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát mà nước ta lựa chọn trong thời kỳ đổi mới. Nó vừa mang tính chất chung của kinh tế thị trường, vừa có những đặc thù, được quyết định bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội. Đây là sự vận dụng sáng tạo những kinh nghiệm trong nước và thế giới về phát triển kinh tế thị trường, là sự kết tinh trí tuệ của toàn Đảng trong quá trình lãnh đạo nhân dân xây dựng đất nước. Đảng ta đã xác định một cách nhất quán kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo. Vì vậy, việc xác định một cách rõ ràng và nhất quán vị trí, vai trò của kinh tế nhà nước trong quá trình hoạch định đường lối, chính sách phát triển kinh tế đất nước là rất cần thiết.

Ở nước ta, vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước là xuất phát từ lợi ích của đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, là "hòn đá thử vàng" để xem xét sự đúng hướng hay chệch hướng xã hội chủ nghĩa trong tiến trình phát triển kinh tế. Kinh tế nhà nước càng phát huy tốt vai trò chủ đạo bao nhiêu thì kinh tế - xã hội sẽ phát triển nhanh, góp phần thực hiện mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" nhanh và vững chắc bấy nhiêu.

Tuy nhiên, phải thừa nhận rằng, hiện nay, trong thành phần kinh tế nhà nước các doanh nghiệp nhà nước giữ vị trí cơ bản và rất to lớn nhưng không ít đơn vị chưa xứng đáng với vai trò mà nó đang nắm giữ. Vẫn tồn tại những doanh nghiệp nhà nước không những không nuôi nổi người lao động của mình, mà còn luôn đòi được Nhà nước cứu trợ cho sự tồn tại của nó; số khác liên tục thua lỗ, dù đã hơn một lần được Nhà nước "khoanh nợ" hoặc trợ cấp vốn từ ngân sách. Sự phê phán của dư luận xã hội đối với kinh tế nhà nước chính là nhằm vào bộ phận những doanh nghiệp loại này. Xét từ góc độ lợi ích của xã hội mà Nhà nước là người đại diện, những doanh nghiệp nhà nước được nêu ở đây thật sự đang là những gánh nặng, cần giải quyết càng sớm càng tốt.

Nhưng ngoài những doanh nghiệp thuộc loại đó, nhiều doanh nghiệp nhà nước kinh doanh có hiệu quả và những doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong lĩnh vực công ích đang góp phần thể hiện rõ vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Đó là những "người lính đi đầu" trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trong cuộc chiến chống đói, nghèo và tụt hậu; là chỗ dựa để Nhà nước điều tiết nền kinh tế thị trường đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. Ngay cả những người "phản biện" nghiêm khắc nhất đối với các doanh nghiệp nhà nước cũng không thể phủ nhận được thực tế đó.

Tuy khuyến khích các thành phần kinh tế cùng phát triển, nhưng chúng ta không thể kỳ vọng nhiều vào các doanh nghiệp tư nhân trong nước hoặc nước ngoài đầu tư phát triển các ngành kinh tế như kết cấu hạ tầng kỹ thuật, cung ứng những hàng hóa và dịch vụ quan trọng. Đó còn chưa kể đến việc giải quyết các vấn đề xã hội. Trước đây, nếu không dựa vào kinh tế nhà nước thì làm sao trong một thời gian tương đối ngắn, Liên Xô có thể trở thành cường quốc. Ngày nay, đâu phải nền kinh tế Trung Quốc chủ yếu là do các doanh nghiệp tư nhân và các "hộ chuyên" góp sức tạo thành. Ngay tại những nước tư bản phát triển nhất, kết cấu hạ tầng cũng vẫn phải do nhà nước đảm nhận xây dựng và vận hành. Chẳng hạn, ở Anh, dưới thời Thủ tướng M. Thát-chơ, người ta không thể nào tư nhân hóa được hệ thống đường sắt mà chỉ bán các nhà ga và những đoàn tàu; nước Mỹ cũng không thể rao bán NASA và các nhà máy điện hạt nhân cho những tập đoàn tư bản kếch sù, dù đó là Bô-ing hay Mai-crô-xốp... Bài học của Mê-hi-cô, do hành động theo "đơn thuốc" của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) và Ngân hàng thế giới (WB) là tư nhân hóa ồ ạt các doanh nghiệp nhà nước, đã dẫn đến thảm họa thế nào, chúng ta đều biết rõ. Vậy thì, ở một nước kém phát triển như Việt Nam, tư nhân nào có thể nâng cấp và làm mới các tuyến đường giao thông, các nhà máy điện và các trung tâm nghiên cứu, ứng dụng khoa học - công nghệ; tư nhân hoặc liên doanh nào đến những xã vùng sâu, vùng xa để làm đường ô-tô, xây dựng trạm biến thế, để bán điện với giá tương đương như ở đô thị; hoặc khi thiên tai xảy đến, tư nhân nào có thể cứu hộ, trợ giúp được cả một địa phương, một khu vực?

Đất nước ta mới bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân. Khó khăn càng chồng chất, khi quan hệ hợp tác kinh tế với các đối tác quốc tế có trình độ phát triển cao hơn rất nhiều. Việc tiếp nhận, chuyển giao công nghệ phụ thuộc vào năng lực tiếp thu và khả năng nội sinh hóa công nghệ nhập khẩu. Tiềm lực khoa học và công nghệ yếu kém, lẽ đương nhiên, dễ gặp phải những khó khăn, rủi ro hơn trong việc thực thi các hợp đồng chuyển giao công nghệ cũng như các dự án góp vốn đầu tư hoặc nhập khẩu thiết bị toàn bộ. Trong hoàn cảnh này, các đối tác nước ngoài có thể lợi dụng ưu thế của họ để khống chế các đối tác nội địa. Chính vì vậy, nếu không có một khu vực kinh tế nhà nước đủ mạnh thì Nhà nước không thể hỗ trợ các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác vươn lên trong cuộc hợp tác và cạnh tranh với các đối tác nước ngoài. Dù không nói công khai, nhưng dưới nhiều hình thức, ở những nước đi theo con đường tư bản chủ nghĩa như Nhật Bản, Hàn Quốc, Xin-ga-po,... kinh tế nhà nước vẫn đóng vai trò "bà đỡ" cho các doanh nghiệp vào những giai đoạn khó khăn, nhất là trong chuyển giao công nghệ, liên doanh góp vốn với nước ngoài. Những năm gần đây, khi nền kinh tế trì trệ, các chính phủ Mỹ, Nhật Bản, không phải chỉ một lần, xuất dự trữ nhà nước mua cổ phiếu để cứu vãn một số công ty khi chúng bị chao đảo trên thị trường chứng khoán.

Để vươn lên nhằm thoát khỏi tình trạng của một nước kém phát triển bằng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế là hướng đi đúng của nước ta và không có con đường nào khác. Cuộc đấu tranh để bảo vệ sự lựa chọn con đường phát triển của mình trong hội nhập kinh tế quốc tế và thực tiễn những năm vừa qua càng cho thấy, nhất thiết không thể thiếu vai trò của kinh tế nhà nước, trong đó các doanh nghiệp nhà nước - yếu tố quan trọng nhất trong việc giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế Việt Nam trong quá trình xây dựng nền kinh tế quốc dân. Điều đó thể hiện trước hết ở chỗ, trong hội nhập kinh tế quốc tế, nền kinh tế Việt Nam sẽ phải hợp tác và cạnh tranh với hàng loạt các đối tác nước ngoài rất mạnh về vốn và công nghệ. Đương nhiên, các đối tác nước ngoài đó muốn ở Việt Nam sẽ chỉ còn lại những doanh nghiệp nhỏ làm vệ tinh, đại lý tiêu thụ cho chúng và không có khả năng cạnh tranh đáng kể với chúng. Chính vì thế, họ không mấy thiện cảm khi thấy chúng ta duy trì và củng cố các doanh nghiệp nhà nước cỡ lớn. Khi làm ăn với những đối tác có tiềm tực to lớn đó, nếu Việt Nam không có một khu vực kinh tế nhà nước đủ mạnh, sẽ khó có thể vừa hợp tác hiệu quả lại vừa giữ vững được sự ổn định kinh tế, chính trị, xã hội trên mỗi bước đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Kinh tế nhà nước phải đủ sức làm chỗ dựa cho Nhà nước "của dân, do dân và vì dân" trong việc điều tiết, phát triển nền kinh tế nhằm chủ động hơn nữa trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế vì lợi ích của đại đa số nhân dân, bảo đảm thống nhất giữa phát triển kinh tế với thực hiện công bằng xã hội - một trong những tiêu chí then chốt của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Từ góc độ lợi ích của chủ nghĩa xã hội, trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, rõ ràng vị trí quan trọng, vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước là điều không cần tranh luận, nhất là khi hiểu đúng quan điểm của Đảng và Nhà nước ta: "kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân... Doanh nghiệp nhà nước giữ những vị trí then chốt; đi đầu ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ; nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế - xã hội và chấp hành pháp luật"(1). Điều cần làm hiện nay là, phải tiếp tục đổi mới các doanh nghiệp nhà nước. Ngoài việc giải thể không chậm trễ những doanh nghiệp không còn khả năng tự tồn tại, cần tiếp tục đẩy mạnh quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước theo nguyên tắc giữ cổ phần chi phối của Nhà nước. Đặc biệt, đối với các doanh nghiệp nhà nước do cấp tỉnh, thành phố quản lý, phải coi cổ phần hóa là giải pháp cấp thiết. Đã đến lúc các cấp ủy và tổ chức đảng, các cấp chính quyền cần nhanh chóng vào cuộc để đẩy nhanh quá trình cổ phần hóa và coi đây là một nhiệm vụ chính trị trọng tâm, cấp bách.

Đối với những doanh nghiệp mà Nhà nước cần nắm 100% vốn thì vấn đề số một là phải có những cơ chế bảo đảm để các doanh nghiệp này đủ sức vươn lên đóng vai trò "chủ lực quân" trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Muốn thế, việc bổ nhiệm tổng giám đốc doanh nghiệp nhà nước phải trên cơ sở giao khoán các nhiệm vụ và chỉ tiêu cụ thể, trước hết là yêu cầu bảo toàn vốn, tỷ suất lợi nhuận doanh nghiệp, đóng góp cho ngân sách nhà nước,... và có cơ chế ngăn chặn mọi sự can thiệp vô nguyên tắc vào hoạt động của doanh nghiệp.

Để các doanh nghiệp nhà nước có thể tăng sức cạnh tranh và ngăn ngừa nguy cơ "chảy máu chất xám", cần thực hiện nghiêm Luật Doanh nghiệp nhà nước, bảo vệ các quyền tự chủ của họ trong giải quyết các vấn đề về trả lương và các hình thức phân phối thu nhập phù hợp với khả năng của doanh nghiệp. Nhà nước chỉ quy định mức lương tối thiểu của người lao động trong doanh nghiệp nhà nước, không hạn chế mức lương tối đa. Về mức lương tối đa và các loại hình khuyến khích vật chất tại doanh nghiệp nhà nước sẽ do đại hội công nhân, viên chức của doanh nghiệp quyết định theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Đây là một cơ chế bảo đảm và thúc đẩy doanh nghiệp nhà nước nâng cao năng suất lao động và nêu gương trước các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác về trả công cho người lao động. Và xét cho cùng, đây cũng là một trong những tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Do đó, trước di sản "quốc doanh hóa tràn lan" để lại từ thời bao cấp, việc đổi mới, sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước (ngành nào, quy mô nào là tối ưu và số lượng bao nhiêu là hợp lý) thật sự là việc cần kíp trong cải cách doanh nghiệp nhà nước. Nhưng chúng ta không thể không tìm cho ra lời giải.

Ở nước ta hiện nay, chính quyền cấp tỉnh, thành phố và các bộ, ngành không cần thành lập và quản lý các doanh nghiệp nhà nước kinh doanh vì lợi nhuận, mà chỉ thành lập và quản lý các doanh nghiệp công ích theo quy định chung, có tính tới đặc thù của mỗi địa phương. Cần xem xét và xử lý hữu hiệu lại cơ chế cơ quan chủ quản của doanh nghiệp nhà nước đang tồn tại tràn lan như hiện nay. Có lúc chúng ta cho rằng, đó là một sự phân cấp hợp lý trong điều kiện chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế. Nhưng thực tế ngày càng cho thấy, không phải bao giờ các cơ quan chủ quản cũng giúp các doanh nghiệp nhà nước nâng cao hiệu quả hoạt động; trái lại, nhiều khi lại gây phiền hà, làm trầm trọng thêm cơ chế "xin - cho"- một biến thể của cơ chế bao cấp trước đây, làm nảy sinh các tệ nạn tham nhũng, cửa quyền và lãng phí. Theo đó, vốn ngân sách của Nhà nước bị thất thoát do có quá nhiều cơ quan thực hiện chức năng cấp phát, khi vốn đến doanh nghiệp thì không còn đủ để thực thi những kế hoạch ban đầu. Vì lợi ích cục bộ của mình và của các doanh nghiệp nhà nước trong ngành, một số bộ, ngành đã cố ý tạo những kẽ hở trong việc đề xuất các văn bản pháp lý để bảo hộ, ưu đãi cho doanh nghiệp của ngành, gây thiệt hại cho nền kinh tế quốc dân.

Do đó, xóa bỏ cơ chế chủ quản theo lối hành chính quan liêu, bao cấp đối với các doanh nghiệp nhà nước, để các doanh nghiệp này được tự chủ trong cơ chế thị trường và tự chịu trách nhiệm về hiệu quả sử dụng đồng vốn của Nhà nước trước các cơ quan tài chính là một giải pháp cần được áp dụng trong đổi mới doanh nghiệp nhà nước nói chung và trước hết là đối với các doanh nghiệp nhà nước giữ vị trí then chốt của nền kinh tế. Cần có cơ chế bảo đảm để phân định rạch ròi nhiệm vụ chính trị - xã hội mà Nhà nước giao cho với lợi nhuận kinh doanh của doanh nghiệp.

Xây dựng cơ chế bảo đảm để các doanh nghiệp nhà nước hoạt động có hiệu quả trong nền kinh tế thị trường là rất quan trọng, nhưng đào tạo và tuyển chọn cho được đội ngũ những cán bộ quản lý doanh nghiệp ngang tầm cũng rất cần thiết. Trong quản lý doanh nghiệp, không thể chấp nhận những cán bộ có trình độ chuyên môn thấp, kém năng động, nhất là khi trao cho họ những doanh nghiệp có số vốn lớn hàng trăm tỉ đồng và hàng nghìn người lao động. Kinh doanh trên thương trường khốc liệt chẳng kém gì trên chiến trường. Quản lý doanh nghiệp nhà nước mang những đặc thù riêng, nhất là phải chấp hành hàng loạt những quy định riêng do Nhà nước đặt ra với tư cách là chủ sở hữu. Vì vậy, phát hiện và sử dụng các cán bộ quản lý doanh nghiệp giỏi khó hơn nhiều so với các loại hình cán bộ khác. Việc đào tạo cán bộ quản lý doanh nghiệp phải lấy tự đào tạo là chính, đào tạo qua trường lớp chỉ có vai trò ban đầu và hỗ trợ.

Vấn đề công chức hóa cán bộ quản lý doanh nghiệp nhà nước cần được tiếp tục đổi mới hơn nữa. Cần nghiên cứu, tham khảo những kinh nghiệm của các nước tiên tiến trên thế giới trong vấn đề này: Tổng giám đốc của các hãng lớn kinh doanh toàn cầu hiện nay làm việc theo cơ chế gì mà hiệu quả sản xuất, kinh doanh vẫn được bảo đảm và lợi ích của chủ sở hữu vẫn được thực hiện, khi chủ sở hữu không mấy khi can thiệp vào hoạt động quản lý? Nên chăng, áp dụng chế độ thi tuyển để chọn giám đốc của từng doanh nghiệp nhà nước và chỉ bổ nhiệm có thời hạn dựa trên những điều kiện hợp lý mà các ứng cử viên đưa ra khi tham dự thi tuyển? Trong thực tế, ở nước ta có không ít cán bộ nhiều năm, thậm chí gần cả cuộc đời, suy tư, trăn trở về những ngành nghề mà họ say mê, về những phương thức, bước đi để kiến tạo những doanh nghiệp làm ra sản phẩm có thể cạnh tranh không chỉ trong nước mà cả ở khu vực và thế giới. Những suy nghĩ đó có thể bắt nguồn từ chính những sai lầm và thất bại mà họ từng gánh chịu hoặc từ những gì họ thấy qua công việc kinh doanh của người khác, ở các nước khác. Khi vấn đề được đặt ra, họ sẽ tìm tòi bằng được những giải pháp để thực hiện nó. Cần có một cơ chế đủ sức hấp dẫn để thu hút những con người đầy tâm huyết và năng lực ấy vào đội ngũ quản lý doanh nghiệp nhà nước là một việc cấp bách, có ý nghĩa rất lớn. Sau gần 20 năm đổi mới, đội ngũ những người có đức, có tài sống bằng lao động chân chính ở nước ta cũng phát triển theo hướng đông hơn về số lượng và cao hơn về chất lượng. Có một cơ chế đủ sức thu hút nhân tài, tin tưởng, trao cho họ những cơ hội để thể hiện năng lực và lòng yêu Tổ quốc của mình, sẽ đưa đến những thành quả vô cùng to lớn.

Trên nền tảng chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu, xây dựng một cơ chế quản lý hữu hiệu, kiến tạo được một đội ngũ cán bộ quản lý doanh nghiệp giỏi là mấu chốt của thành công.

Cả lý luận và thực tiễn đều khẳng định, trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không thể thiếu khu vực kinh tế nhà nước vững mạnh, đủ khả năng đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong thành phần kinh tế nhà nước, không có những doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích và những doanh nghiệp giữ các vị trí then chốt của nền kinh tế quốc dân không thể tiến hành thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. Chúng ta sẽ thất bại, nếu để kinh tế nhà nước nói chung, doanh nghiệp nhà nước nói riêng, rơi vào tình trạng yếu kém kéo dài.

SOURCE: TẠP CHÍ CỘNG SẢN SỐ 55 NĂM 2004

Thứ Ba, 2 tháng 6, 2009

CỦNG CỐ VÀ PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC

TS. LÊ HỒNG TIỄN

Trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng và Nhà nước ta tiếp tục chủ trương củng cố và phát triển doanh nghiệp nhà nước ở một số ngành, lĩnh vực then chốt và địa bàn quan trọng. Nhưng có ý kiến cho rằng, doanh nghiệp nhà nước không thích hợp với cơ chế thị trường, kém hiệu quả, trở thành gánh nặng cho nền kinh tế quốc dân, nên tư nhân hóa càng sớm càng tốt. Vì lý do đó, ở đây cần làm rõ sự tồn tại của doanh nghiệp nhà nước.

Một thực tế khách quan là, hiện nay doanh nghiệp nhà nước đang tồn tại ở hầu hết các nước trên thế giới, không chỉ ở các nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa mà cả ở những nước tư bản chủ nghĩa.

Sự tồn tại doanh nghiệp nhà nước ở nước ta cũng như ở các nước có chế độ chính trị và trình độ phát triển khác nhau là do nhiều nguyên nhân trong đó những nguyên nhân chủ yếu là:

1 - Do yêu cầu quản lý vĩ mô nền kinh tế.

Yêu cầu này bắt nguồn từ sự phát triển lực lượng sản xuất với trình độ xã hội hóa ngày càng cao. Điều này đòi hỏi phải có sự điều tiết vĩ mô từ một trung tâm quyền lực nhà nước. Và để thực hiện sự điều tiết này, Nhà nước không chỉ sử dụng các công cụ pháp luật, kế hoạch, chính sách kinh tế các lực lượng vật chất mà còn phải hình thành doanh nghiệp nhà nước.

2 - Do phải khắc phục những khuyết tật của nền kinh tế thị trường.

Bên cạnh mặt tích cực là có khả năng tự điều chỉnh ở mức độ nhất định về cung, cầu, về điều phối các yếu tố sản xuất, kích thích tiến bộ kỹ thuật, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế... đồng thời kinh tế thị trường mang trong nó những khuyết tật như tính tự phát, bất ổn định, vận động theo lợi nhuận thuần túy - nguyên nhân của những hiện tượng tiêu cực như làm hàng giả, lừa dối, trốn thuế và các hiện tượng "kinh tế ngầm" khác. Cũng vì mục tiêu lợi nhuận, các doanh nghiệp lao vào cạnh tranh, săn tìm lợi nhuận cao, nên ít quan tâm đến những ngành không có lợi nhuận hoặc lợi nhuận thấp, gây ra sự mất cân đối, khủng hoảng, thất nghiệp, phân hóa giàu nghèo quá mức. Để giải quyết tình trạng này, một trong những biện pháp được áp dụng là hình thành các doanh nghiệp nhà nước. Ngoài nhiệm vụ kinh tế, chính trị, doanh nghiệp nhà nước còn mục tiêu xã hội, góp phần giải quyết sự mất cân đối giữa các ngành, các vùng kinh tế trong cả nước, giữa các tầng lớp dân cư, góp phần khắc phục khủng hoảng, giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động...

3 - Do phải chống độc quyền, làm giảm bớt quyền lực kinh tế của một số nhà tư bản hoặc tập đoàn tư bản ở mọi quy mô và mức độ trong đời sống kinh tế quốc gia. Quá trình chuyển từ tự do cạnh tranh sang độc quyền đã tập trung tiềm lực kinh tế vào tay một số ít nhà tư bản, dẫn đến sự cực quyền, thao túng nền kinh tế quốc gia. Để giải quyết tình trạng này, các nước đã áp dụng biện pháp quốc hữu hóa những công ty tư nhân, biến thành những doanh nghiệp nhà nước, chịu sự quản lý của nhà nước.

Trong thực tế, ở các nước tư bản, doanh nghiệp nhà nước được ưu đãi rất nhiều từ ngân sách, từ các quỹ tín dụng và các nguồn tài chính khác. Nhưng do khuyết tật cố hữu của doanh nghiệp nhà nước là hoạt động kém hiệu quả hơn rất nhiều so với các doanh nghiệp tư nhân, nên đã xuất hiện phong trào tư nhân hóa bắt đầu từ nước Anh, sau đó phát triển rộng rãi ở các nước phương Tây. Do tư nhân hóa ồ ạt với quy mô lớn nên dẫn tới tình trạng dư cung cổ phiếu làm giảm giá trị cổ phiếu một cách giả tạo. Từ đó phong trào tư nhân hóa không những không làm tăng hiệu quả của doanh nghiệp tư nhân hóa mà còn làm cho một số doanh nghiệp sau tư nhân hóa rơi vào tình trạng khó khăn, nan giải.

Hiện nay, ở nước ta, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, nhưng chưa được củng cố tương xứng với vai trò đó do chưa có chuyển biến đáng kể trong việc sắp xếp, đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nước, hiệu quả kinh tế - xã hội của nhiều doanh nghiệp nhà nước chưa cao. Song, doanh nghiệp nhà nước đã thực hiện được một số nhiệm vụ kinh tế - xã hội cơ bản, đóng góp một phần quan trọng vào ngân sách nhà nước, góp phần cơ bản vào việc khắc phục sự mất cân đối, giảm bớt sự lệ thuộc với bên ngoài, giải quyết được khoảng 1,8 triệu việc làm cho người lao động. Doanh nghiệp nhà nước nắm giữ những vị trí then chốt, trong đó một số đơn vị tập trung mọi khả năng nhằm đổi mới máy móc thiết bị, tích cực ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế - xã hội. Tuy vậy, doanh nghiệp nhà nước vẫn còn những yếu kém, bất cập nên việc tiếp tục phải đổi mới là nhu cầu bức thiết.

Mục tiêu chủ yếu của quá trình đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nước phải nhằm:

1 - Nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh tiếp tục giảm bớt gánh nặng đối với ngân sách nhà nước. Đây là mục tiêu rất cơ bản nhưng rất khó thực hiện, vì tình trạng kém hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước trở thành khuyết tật cố hữu mang tính phổ biến ở nhiều nước trên thế giới, kể cả những nước tư bản phát triển. Vì vậy, nâng cao hiệu quả, giảm bớt gánh nặng cho ngân sách là mục tiêu quan trọng, là nhiệm vụ bức bách đối với toàn bộ hệ thống cũng như từng doanh nghiệp nhà nước.

2 - Nâng cao vai trò của doanh nghiệp nhà nước, làm cho doanh nghiệp nhà nước trở thành lực lượng vật chất và công cụ quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế vĩ mô theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Mục tiêu này xuất phát từ đặc điểm của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, lực lượng sản xuất phát triển thấp, nền kinh tế tồn tại nhiều thành phần, do đó cần củng cố và phát triển doanh nghiệp nhà nước để tạo động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, góp phần đảm bảo sản xuất, giữ vững và phát triển những ngành, lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế (điện năng, viễn thông, vận tải, xây dựng những công trình xã hội, cung cấp nước, bảo vệ môi trường...), ngăn chặn và khắc phục những hậu quả xã hội do kinh tế thị trường đẻ ra, chủ động giải quyết sự bất bình đẳng xã hội, thất nghiệp, xóa đói, giảm nghèo...

Để thực hiện các mục tiêu trên đây, việc đổi mới, củng cố và phát triển doanh nghiệp nhà nước cần tập trung giải quyết những nội dung chủ yếu như: đổi mới cơ chế quản lý; nâng cao khả năng cạnh tranh; hiện đại hóa trang bị kỹ thuật công nghệ; quản lý và sử dụng vốn hợp lý; nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ; có chính sách đồng bộ, nhất quán; tạo được động lực và có những điều kiện cần thiết, xây dựng môi trường thuận lợi để doanh nghiệp nhà nước hoạt động hiệu quả. Mặt khác, để nâng cao vai trò của doanh nghiệp nhà nước, phải tiếp tục đổi mới cơ cấu, đa dạng hóa hình thức sở hữu, sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước, nhất là những doanh nghiệp nắm giữ các ngành, lĩnh vực quan trọng nhất, cổ phần đủ sức khống chế để Nhà nước đủ khả năng định hướng, chủ động điều tiết nền kinh tế.

Như vậy, việc củng cố và phát triển doanh nghiệp nhà nước đòi hỏi phải tiến hành đồng thời nhiều biện pháp. Theo chúng tôi, trước mắt cần tập trung thực hiện các biện pháp chủ yếu sau:

Một là: Đổi mới cơ cấu, quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả.

Trong điều kiện nguồn vốn ngân sách có hạn, phải đổi mới cơ cấu, quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả; đồng thời, tiếp tục đẩy nhanh tốc độ đa dạng hóa hình thức sở hữu nhằm huy động sức mạnh của tất cả các thành phần kinh tế. Mặt khác, phải đánh giá, chọn lọc, bố trí, sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước trên cơ sở xác định các ngành, lĩnh vực trọng điểm, then chốt để doanh nghiệp nhà nước nắm giữ. Một số ngành công nghiệp cơ bản có tính chất chiến lược cần vốn đầu tư lớn, trong khi vốn vòng quay chậm, lợi nhuận thấp, thường thua lỗ, Nhà nước phải trợ cấp, bù giá, bù lỗ, cho vay tín dụng lãi thấp, miễn hoặc giảm thuế, xóa nợ... Nhưng sự hỗ trợ này thường gây ra tình trạng tiêu cực trong công tác quản lý. Do vậy, để giải quyết vấn đề này, cần thực hiện cải cách cơ bản về tài chính của nhà nước theo hướng thúc đẩy, khai thác tiềm năng thiên nhiên và của các tầng lớp nhân dân, Nhà nước giảm dần bao cấp, yêu cầu các doanh nghiệp nhà nước tự chủ tài chính, tự chủ kinh doanh, tự trang trải và tiến tới sản xuất, kinh doanh có lãi. Bởi vậy một trong những vấn đề quan trọng là, Nhà nước phải có chính sách thuế hợp lý, vừa có khả năng tập trung nguồn thu vào ngân sách, bảo đảm các nhu cầu chi của nhà nước, vừa phải thu hợp lý để các doanh nghiệp nhà nước không những tiếp tục tồn tại mà còn tăng khả năng tích tụ để không ngừng phát triển.

Hai là: Đổi mới cơ chế quản lý doanh nghiệp nhà nước.

Hiện nay, theo luật định, doanh nghiệp nhà nước được tổ chức dưới hai hình thức: doanh nghiệp nhà nước có hội đồng quản trị và doanh nghiệp nhà nước không có hội đồng quản trị. Nhà nước giao cho các doanh nghiệp nhà nước quản lý vốn, tài nguyên, đất đai và các nguồn lực khác nhằm thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội do Nhà nước giao. Vì vậy, đây là loại hình doanh nghiệp do Nhà nước đầu tư 100% vốn. Nhà nước là chủ sở hữu, nên Nhà nước giữ vai trò quản lý. Nhưng Nhà nước là ai?. Các thành viên đại diện cho Nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước là những người làm công ăn lương của Nhà nước, họ tham gia hội đồng quản trị, có thể là chủ tịch hội đồng quản trị, nhưng bản thân họ không có một đồng vốn ở doanh nghiệp nhà nước, mà vốn của doanh nghiệp là vốn của Nhà nước. Nhà nước giao cho họ trách nhiệm là thay mặt nhà nước thực hiện quản lý doanh nghiệp nhà nước với tư cách là chủ sở hữu. Như vậy, những thành viên của hội đồng quản trị không phải là chủ sở hữu thực sự vốn doanh nghiệp nhà nước nên trách nhiệm của họ bị hạn chế. Khi làm ăn thua lỗ, hội đồng quản trị, giám đốc, bộ máy giúp việc và cán bộ công nhân viên không ai chịu trách nhiệm mà Nhà nước là người gánh chịu trách nhiệm và hậu quả. Do đó, cần chuyển doanh nghiệp nhà nước (100% vốn của nhà nước) sang công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, một chủ sở hữu là sở hữu nhà nước để doanh nghiệp nhà nước là người thực sự chịu trách nhiệm hữu hạn về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác trong phạm vi số vốn do doanh nghiệp quản lý. Nhưng đây là một hình thức mới ở Việt Nam, cần thực hiện thí điểm trước khi nhân ra diện rộng. Những doanh nghiệp nhà nước đặc thù hoạt động phục vụ mục tiêu công cộng, hoặc phục vụ mục đích an ninh, quốc phòng, vẫn thực hiện theo Luật Doanh nghiệp nhà nước. Nhưng cần thiết phải sửa đổi Luật Doanh nghiệp nhà nước, khắc phục tình trạng hoạt động kém hiệu quả. Cụ thể là:

- Tăng quyền tự chủ đi đôi với tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp nhà nước; bỏ bao cấp, chuyển hẳn sang hoạch toán thị trường, lấy thu bù chi, lời ăn, lỗ chịu.

- Tăng trách nhiệm cá nhân tương xứng với nhiệm vụ, quyền hạn được giao của các cá nhân, các cấp đại diện chủ sở hữu tại doanh nghiệp, giám đốc và bộ máy giúp việc về các quyết định đầu tư, về sự thua lỗ, mất vốn nhà nước, về thu nhập thấp của người lao động...

- Giảm bớt tầng nấc, biên chế cồng kềnh, chồng chéo, khắc phục tình trạng ra quyết định chậm và không chịu trách nhiệm về quyết định đó. Tăng quyền quyết định cho hội đồng quản trị doanh nghiệp để không bỏ lỡ cơ hội kinh doanh. Quy định tiêu chuẩn tuyển chọn giám đốc, bỏ quy định giám đốc doanh nghiệp nhà nước là công chức nhà nước, chuyển sang cơ chế hợp đồng thuê giám đốc gắn tiền lương, tiền thưởng với kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.

Ba là: Nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước.

Trước sức ép của toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, các doanh nghiệp nhà nước phải đối mặt với cuộc cạnh tranh hết sức gay gắt giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp, giữa quốc gia với quốc gia. Trong cạnh tranh, các doanh nghiệp, các tập đoàn tăng cường liên minh, liên kết với nhau nhằm chống lại ý đồ thôn tính của các tập đoàn đối thủ. Cạnh tranh có mặt tích cực là nâng cao trình độ ứng dụng tiến bộ kỹ thuật - công nghệ, đòi hỏi phải nâng cao chất lượng, giảm giá thành, đáp ứng nhu cầu của xã hội. Nhưng hậu quả của cạnh tranh là, có thể dẫn tới tình trạng phá sản, những vụ sa thải công nhân, người lao động mất việc làm.

Ở nước ta, hiện nay, có khoảng hơn 5 000 doanh nghiệp nhà nước đang nắm giữ những ngành, những lĩnh vực then chốt, là xương sống của nền kinh tế, nên nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển nền kinh tế quốc dân. Những ưu đãi khuyến khích đầu tư theo ngành, vùng, ưu đãi cho các doanh nghiệp mới thành lập cũng sẽ bị loại bỏ. Tình hình đó càng gây thêm sự bất lợi cho khả năng cạnh tranh, nên các doanh nghiệp nhà nước phải nỗ lực vượt bậc, tìm đủ các biện pháp hữu hiệu nhất để nâng cao khả năng cạnh tranh. Đồng thời phải có sự giúp đỡ của Nhà nước về kinh phí để tăng cường các biện pháp xúc tiến thương mại, tìm kiếm thị trường mới, cung cấp thông tin, dự báo thị trường, đẩy mạnh quản lý thị trường, chống gian lận thương mại, chống sản xuất và buôn bán hàng giả, xử lý nghiêm những hành vi đầu cơ, nâng giá bất chính. Doanh nghiệp nhà nước phải xác định đúng đắn chiến lược kinh doanh, chiến lược đầu tư, chiến lược sản phẩm của doanh nghiệp phù hợp với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Đẩy mạnh liên doanh, liên kết, tìm kiếm thị trường sản xuất và tiêu thụ. Hiện đại hóa trang bị kỹ thuật công nghệ. Tạo ra bước đột phá về chất lượng, giảm chi phí sản xuất, cải tiến mẫu mã đáp ứng thị hiếu người tiêu dùng. Tăng cường quản lý sản xuất, kinh doanh. Có kế hoạch sắp xếp lại sản xuất, sử dụng hợp lý các nguồn vốn, giảm bớt vốn vay, xóa bỏ các khoản chi phí bất hợp lý, thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí. Quản lý tốt lao động, tạo ra năng suất, chất lượng cao. Phân phối hợp lý, gắn lương, thưởng với kết quả lao động để tạo chuyển biến tích cực trong hoạt động sản xuất, kinh doanh.

Bốn là: Chuyển đổi sở hữu và phát triển thêm doanh nghiệp nhà nước.

Mặc dù Đảng, Nhà nước và các doanh nghiệp đã tìm mọi biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh, nhưng chuyển biến chậm. Hiện nay, các doanh nghiệp nhà nước vẫn hoạt động kém hiệu quả, đang là gánh nặng cho ngân sách nhà nước. Một trong những biện pháp giải quyết tình trạng này là, chuyển đổi hình thức sở hữu doanh nghiệp nhà nước. Những hình thức chuyển đổi nên được áp dụng là:

- Đối với những doanh nghiệp mà nhà nước không cần nắm 100% vốn thì tiến hành cổ phần hóa.

- Những doanh nghiệp nhà nước loại nhỏ, Nhà nước không cần nắm giữ thì bán, khoán hoặc cho thuê.

- Những doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả và không thể thực hiện theo các biện pháp trên thì sáp nhập, giải thể hoặc cho phá sản.

Để đẩy nhanh tốc độ chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước, Nhà nước cần có chính sách bảo đảm:

- Bình đẳng trước pháp luật đối với các thành phần kinh tế.

- Loại bỏ tư tưởng ỷ lại, muốn dựa dẫm vào nhà nước.

- Xóa bỏ bao cấp của Nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước.

- Tạo điều kiện cho doanh nghiệp cổ phần hóa trong việc tìm kiếm thị trường và các cơ hội làm ăn để tăng thu nhập cho người lao động.

Năm là: Xây dựng một số tập đoàn kinh tế mạnh của Nhà nước theo mô hình "công ty mẹ - công ty con".

Do quy mô vốn bình quân của các doanh nghiệp nhà nước quá nhỏ, không đủ sức cạnh tranh với các tập đoàn kinh tế của các nước trong khu vực và thế giới. Để tăng khả năng cạnh tranh, năm 1994, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 90 và 91 thành lập các tổng công ty nhà nước. Quy mô của các tổng công ty có mức cao hơn. Chủ yếu là các Tổng Công ty Điện lực, Bưu chính - Viễn thông và Dầu khí với tổng số 137 đơn vị thành viên.

Về chế độ quản lý, tiền thân các tổng công ty theo Quyết định số 90 - 91 là các liên hiệp xí nghiệp, các xí nghiệp liên hiệp, các tổng công ty (cũ) được sáp nhập lại, hoạt động chuyên doanh trong một ngành chủ yếu nào đó. Vốn được Nhà nước cấp phát nên những khuyết tật của các doanh nghiệp nhà nước cũng là những khuyết tật của các tổng công ty.

Để đáp ứng với yêu cầu cạnh tranh ngày một gay gắt, đòi hỏi không chỉ phải đổi mới doanh nghiệp nhà nước mà còn phải đổi mới các tổng công ty nhà nước. Một trong những biện pháp đổi mới này là chuyển các tổng công ty "90, 91" sang tập đoàn mạnh hoạt động theo mô hình "công ty mẹ - công ty con". Đặc trưng chủ yếu của tập đoàn mạnh hoạt động theo mô hình này là:

- Có quy mô lớn, đa ngành, đa quốc gia.

- Bao gồm 1 "công ty mẹ", công ty này tiến hành đầu tư vốn vào các công ty khác ("công ty con"), nắm cổ phần khống chế để điều khiển các "công ty con". "Công ty mẹ" lại dùng quyền điều khiển "công ty con" để lấy vốn đầu tư vào các công ty khác ("công ty cháu"), nắm cổ phần khống chế để chi phối các công ty này. Cứ theo kiểu móc xích như vậy, các tập đoàn ("công ty mẹ") với lượng vốn ít, có thể chi phối một lượng vốn lớn hơn rất nhiều lần so với lượng vốn của "công ty mẹ".

Với mô hình tổ chức "công ty mẹ - công ty con", có thể gọi vốn nhiều thành phần kinh tế cùng tham gia. Nhờ đó "công ty mẹ" tăng được quy mô, nâng cao khả năng cạnh tranh trước làn sóng toàn cầu hóa hiện nay.

SOURCE: TẠP CHÍ CỘNG SẢN SỐ 49 NĂM 2003

Thứ Hai, 1 tháng 6, 2009

MỘT SỐ SUY NGHĨ VỀ THƯƠNG HIỆU DOANH NGHIỆP

VÕ HƯƠNG

Thời gian trước đây, khi nói về việc xây dựng và phát triển một doanh nghiệp, người ta hay nói đến mục tiêu tiên quyết là lợi nhuận. Nhưng ngày nay đã có nhiều lập luận được đưa ra phản đối lại quan điểm trên. Nhiều chuyên gia cho rằng nguyên nhân để một doanh nghiệp có thể tồn tại hàng trăm năm, nối tiếng ở hàng trăm quốc gia và giữ được lòng mến mộ của hàng triệu khách hàng, đó là Thương hiệu doanh nghiệp và nó đã trở thành một yếu tố cơ bản nhất quyết định sự tồn tại và phát triển của một doanh nghiệp.

Với Việt Nam, một quốc gia đang phát triển và mới bước vào quá trình hội nhập quốc tế, nhưng các nhà lãnh đạo doanh nghiệp đã nhận ra vai trò của thương hiệu trong sự phát triển của doanh nghiệp. Chính vì lý do đó mà ta có thể tự hào khi nhìn thấy các sản phẩm thương hiệu “cà phê Trung Nguyên” được bày bán nhiều nơi trên thế giới, logo “Vietnam Airline” được nhiều người khách nước ngoài nhận biết, và biểu tượng SSI của Công ty cổ phần chứng khoán Sài Gòn được nhiều nhà đầu tư tài chính nước ngoài biết đến,…

Tuy nhiên, ở một bộ phận doanh nghiệp khác của Việt Nam, việc xây dựng và bảo vệ thương hiệu chưa được quan tâm đúng mức trong chiến lược phát triển của doanh nghiệp. Bài viết này xin được cung cấp một cái nhìn sâu hơn về thương hiệu doanh nghiệp, qua đó có thể đóng góp thêm ý kiến về việc xây dựng và phát triển thương hiệu trong tổng thể chiến lược phát triển doanh nghiệp.

Các phương thức tiếp cận và định nghĩa về Thương hiệu

Thực tế cho thấy, một thương hiệu mạnh và hiệu quả sẽ làm gia tăng sự nhận biết, lòng trung thành của khách hàng, doanh số bán hàng, ‘giữ chân’ nhân viên, và ngay cả giá trị cổ phiếu công ty.

Tuy nhiên, nhận biết về thương hiệu đến mức độ nào và chuyển nhận biết đó trong những hành động hàng ngày là một vấn đề rất phức tạp. Một thương hiệu hiệu quả và tồn tại lâu dài không phải xây lên từ một sự tình cờ, mà nó có thể là một nhiệm vụ quan trọng và khó khăn nhất đối với các công ty ngày nay. Do đó, thương hiệu cần được tiếp cận một cách công phu và tinh vi.

Trước hết, không nên hiểu thương hiệu là một thứ gì đó mà có thể nhìn thấy, nghe thấy và sờ thấy như logo công ty, sản phẩm của công ty hay quảng cáo của công ty. Mà nhiều hơn thế, thương hiệu là sự tổng hợp toàn thể mọi yếu tố của công ty, bao gồm các giá trị, hệ thống, quyết định, nguyên tắc hoạt động, môi trường làm việc, hành vi ứng xử của nhân viên và nhiều yếu tố khác. Thương hiệu được định nghĩa thông qua thái độ và hành vi của doanh nghiệp với khách hàng và các sản phẩm, chứ không đơn giản là những thông điệp chúng ta gửi qua các phương tiện truyền thông đại chúng như logo hay quảng cáo.

Thứ hai, do thương hiệu tồn tại rất độc lập trong tâm trí mỗi người (khách hàng, nhà đầu tư, công chúng), nên thương hiệu cần được hiểu là kết quả của một quá trình trao đổi qua lại giữa họ (khách hàng, nhà đầu tư, công chúng) với các nhân viên, các sản phẩm và dịch vụ của công ty. Cụ thể, các sản phẩm và dịch vụ của bạn khiến công chúng cảm nhận như thế nào? Tác động lẫn nhau giữa công ty và nhân viên có ảnh hưởng đến nhận thức của họ (khách hàng, nhà đầu tư, công chúng) đối với công ty như thế nào? Cái gì thúc đẩy khách hàng mua sản phẩm của công ty? Cái gì khiến họ quay lại mua các sản phẩm của công ty?...

Thứ ba, một thương hiệu mạnh không chỉ đơn thuần là thương hiệu khiến công ty hoặc sản phẩm của nó trở nên khác biệt với công ty khác, mà quan trọng hơn, thông qua thương hiệu đó doanh nghiệp xây dựng được mối quan hệ bền lâu giữa doanh nghiệp với con người. Thương hiệu có thể tác động, thúc đẩy hành vi mong muốn sở hữu sản phẩm của công ty.

Thứ tư, xem xét tới các yếu tố như hội nhập quốc tế đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ, công nghệ phát triển nhanh chóng và kiến thức của dân chúng ngày càng được nâng cao, thì thương hiệu trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.

Với các phương thức tiếp cận như trên, thương hiệu sẽ được hiểu là một tập hợp toàn bộ các yếu tố của công ty, bao gồm (i) các vấn đề cốt lõi của công ty như giá trị công ty, triết lý công ty, nhiệm vụ công ty và niềm tin của công ty (hãy nghĩ đến thương hiệu Johnson & Johnson, công ty đã trung thành tuyệt đối với sứ mệnh mang đến sự chăm sóc chu đáo nhất và an toàn nhất cho trẻ em trên toàn thế giới), (ii) hệ thống tổ chức và vận hành, chính sách, quyết định và nguyên tắc hoạt động, môi trường làm việc và cách ứng xử của nhân viên (hãy nghĩ đến công ty General Electric hoặc IBM, họ cam kết thực hiện công việc ‘professional’ nhất), (iii) các sản phẩm, dịch vụ, lựa chọn, chương trình và kế hoạch đầu tư dành cho khách hàng (hãy nghĩ đến Pepsi hay P&G, họ luôn cố gắng để thoả mãn khách hàng một cách tốt nhất) và nhiều yếu tố khác.

Với Owen D. Young, Cựu Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty General Electric (công ty điện tử hàng đầu thế giới), ông quan niệm “Thương hiệu của công ty có thể là vật chất hữu hình nhỏ nhất, nhưng lại mang giá trị tài sản lớn nhất đối với chúng tôi”. Đây có thể là một cách nhìn ngắn gọn nhất về thương hiệu.

Xây dựng và Phát triển thương hiệu

Nội dung trên đã giới thiệu với người đọc về khái niệm ‘Thương hiệu’ và các yếu tố cấu tạo nên nó. Nhìn nhận đúng đắn các vấn đề trên sẽ giúp chúng ta có chiến lược xây dựng thương hiệu hiệu quả hơn. Vì thương hiệu là toàn bộ những vấn đề cốt lõi và nền tảng của công ty, nên để xây dựng được thương hiệu thì điều đầu tiên ta phải hiểu được các vấn đề gồm: Cơ hội của công ty là gì?, Các nhu cầu của khách hàng là gì? Nên làm gì và không nên làm gì để đáp ứng nhu cầu của khách? Nguồn lực của công ty đến đâu, công ty có khả năng làm tốt công việc đó không hay cần tới nhà cung cấp khác?...

Từ những hiểu biết trên, công ty sẽ có quyết định cho riêng mình về nhiệm vụ, giá trị, niềm tin và sứ mệnh của công ty. Đây cũng là những yếu tố cốt lõi để xây dựng nên thương hiệu.

Dựa trên thiết kế về thương hiệu, công ty sẽ xác định được sản phẩm, dịch vụ, thái độ và hành vi ứng xử của nhân viên nhằm thực hiện sứ mệnh, niềm tin đó.

Khi sản phẩm và dịch vụ hoàn thành, công ty cần tới các kênh truyền thông để quảng bá và phát triển thương hiệu. Tuy nhiên, quá trình phát triển của thương hiệu không phụ thuộc hoàn toàn vào các kênh truyền thông quảng bá, mà nó cần được truyền đạt và thấm nhuần ở tất cả các tầng lớp nhân viên trong công ty và được duy trì trong suốt quá trình phát triển của công ty.

Nguồn tham khảo:

- Thuyết trình “Why? Now? How?: Brand-building in challenging times” của Subha đến từ Tông ty ShiftPartner.

- Tài liệu “Taking down the sign: Would anyone recognize you” của Edelman Change and Employee Engagement Group (2007).

- Tài liệu “Combining CSR with Brand Building” của G-H Bank Housing Journal (2008)

- Tài liệu “Dịch vụ tài chính với hoạt động xây dựng thương hiệu” của Thạc sỹ Ngô Minh Cách, giảng viên Bộ môn Marketing - Học viện Tài chính.

- Thuyết trình của Mindshare về “Truyền thông trong việc xây dựng thương hiệu”.

SOURCE: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC

Trích dẫn từ: http://www.sbv.gov.vn/vn/home/tinnghiencuu.jsp?tin=686

BÁO CÁO CỦA CHÍNH PHỦ VỀ CỔ PHẦN HÓA CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC

(Lược ghi) - Cổ phần hoá các DNNN thời gian qua đạt được những kết quả đáng ghi nhận, nhưng việc cổ phần hoá, sắp xếp các doanh nghiệp có quy mô lớn, trong đó các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng thực hiện còn chậm.

Các DNNN đã cổ phần hoá, chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và việc huy động vốn ngoài xã hội trong quá trình cổ phần hoá DNNN còn hạn chế do chưa khuyến khích việc bán cổ phần ra bên ngoài. Chưa có doanh nghiệp nào tính giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp khi cổ phần hoá.

Thời gian thực hiện cổ phần hoá một doanh nghiệp còn dài, làm tiến độ cổ phần hoá chậm.

Theo báo cáo của các Bộ, ngành, địa phương về kết quả hoạt động của 850 doanh nghiệp cổ phần hoá đã hoạt động trên một năm cho thấy: vốn điều lệ bình quân tăng 44%; doanh thu bình quân tăng 23,6%; lợi nhuận thực hiện bình quân tăng 139,76%; trên 90% số doanh nghiệp sau cổ phần hoạt động kinh doanh có lãi; nộp ngân sách bình quân tăng 24,9%; thu nhập của người lao động bình quân tăng 12%.

Vốn nhà nước còn chiếm tỷ trọng lớn trong vốn điều lệ ở nhiều doanh nghiệp không thuộc diện cần giữ cổ phần chi phối, phổ biến nhất là trong các tổng công ty nhà nước thuộc các ngành xây dựng, giao thông.

Việc thu hút cổ đông ngoài doanh nghiệp mới đạt 24,1% vốn điều lệ; mới có trên 20 công ty có cổ đông là nhà đầu tư nước ngoài; các cổ đông chiến lược vì thế cũng không có nhiều cơ hội để tham gia vào phát triển sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Việc người lao động trong một số doanh nghiệp bán bớt cổ phần ưu đãi sau khi mua đã làm giảm tác dụng của chính sách khuyến khích người lao động có cổ phần trong doanh nghiệp.

Nhiều công ty cổ phần chưa có sự đổi mới thực sự trong quản trị công ty; phương pháp quản lý, lề lối làm việc, tư duy quản lý vẫn còn như DNNN. Hạn chế này rõ nhất là ở những doanh nghiệp mà Nhà nước còn giữ cổ phần chi phối, ban lãnh đạo của doanh nghiệp đều từ DNNN trước đó chuyển sang.

Trong một số công ty cổ phần, người lao động - cổ đông phần do nhận thức chưa đầy đủ về quyền và nghĩa vụ của mình, phần do sự hiểu biết pháp luật về công ty cổ phần còn hạn chế, nên có nơi quyền làm chủ chưa được phát huy. Ngược lại có nơi lạm dụng quy định của pháp luật gây khó khăn cho công tác quản lý của Hội đồng quản trị, sự điều hành của giám đốc. Nhiều nội dung của cơ chế, chính sách quản lý công ty cổ phần như: chính sách tiền lương, tiền thưởng… vẫn còn áp dụng như DNNN.

Nguyên nhân

Một bộ phận cán bộ lãnh đạo, đảng viên ở các cấp, người lao động trong doanh nghiệp chưa nhận thức đúng đắn về công cuộc đổi mới, sắp xếp và cổ phần hoá DNNN. Một số khác còn mang nặng tư tưởng bao cấp, lo ngại sau cổ phần sẽ mất đặc quyền, đặc lợi.

Một số Bộ, ngành, địa phương, tổng công ty nhà nước chưa quán triệt sâu sắc và nghiêm chỉnh chấp hành Nghị quyết của Đảng, quy định của Nhà nước, thiếu chương trình, kế hoạch cụ thể, chưa tích cực, sâu sát trong chỉ đạo thực hiện đã làm ảnh hưởng tới tiến độ cổ phần hoá DNNN.

Một số khó khăn, vướng mắc trong chính sách cổ phần hoá chưa được xử lý kịp thời như: đối tượng cổ phần hoá, việc bán cổ phần ra bên ngoài, chính sách bán cổ phần ưu đãi, phương thức bán cổ phần, quy định về xác định giá trị doanh nghiệp; chưa có giải pháp xử lý dứt điểm các tồn tại về tài chính, quy trình cổ phần hoá toàn bộ tổng công ty nhà nước.

Những khó khăn, vướng mắc của DNNN sau cổ phần hoá chưa được xử lý kịp thời, vẫn còn tình trạng phân biệt đối xử trong việc cho thuê đất, chuyển quyền sử dụng đất, di chuyển địa điểm sản xuất, vay vốn kinh doanh…

Phương hướng, nhiệm vụ đến năm 2010

Theo số liệu tổng hợp từ các Bộ, địa phương, tổng công ty 91, đến nay, cả nước còn 2.176 doanh nghiệp 100% vốn nhà nước với tổng số vốn nhà nước gần 260 nghìn tỷ đồng. Trong đó, 1.546 doanh nghiệp hoạt động sản xuất, kinh doanh, 335 doanh nghiệp quốc phòng an ninh và sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích và 295 nông, lâm trường quốc doanh. Phân theo cơ quan chủ sở hữu, có 301 doanh nghiệp thuộc tổng công ty 91; 408 doanh nghiệp thuộc tổng công ty 90; 307 doanh nghiệp thuộc các Bộ, ngành; 1.160 doanh nghiệp thuộc địa phương.

Với những bối cảnh và yêu cầu nêu trên, phấn đấu đến cuối năm 2009, cơ bản hoàn thành việc sắp xếp DNNN. Cụ thể là:

a) Tiếp tục cổ phần hóa các công ty nhà nước độc lập thuộc các Bộ, địa phương :

Đối với các doanh nghiệp kinh doanh: tiến hành cổ phần hóa toàn bộ, kể cả doanh nghiệp hoạt động ở địa bàn khó khăn: hỗ trợ cho doanh nghiệp không phân biệt thành phần kinh tế, thu hút các nhà đầu tư có tiềm năng đến mua cổ phần của các doanh nghiệp cổ phần hoá ở địa bàn này. Những doanh nghiệp có khó khăn về tài chính cần cơ cấu lại trước khi chuyển đổi sở hữu.

Những doanh nghiệp kết hợp kinh tế với quốc phòng, kinh tế với an ninh thuộc Bộ Quốc phòng và Bộ Công an hoạt động trong lĩnh vực may mặc, xây lắp, thương mại... sẽ cổ phần hóa; trường hợp thật cần thiết Nhà nước mới giữ cổ phần chi phối. Có chính sách, chế độ lương hợp lý đối với số sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp làm việc trong các doanh nghiệp cổ phần hoá.

Những công ty không còn vốn nhà nước thì bán, giải thể hoặc phá sản.

Đối với những doanh nghiệp quy mô nhỏ, có cùng ngành nghề hoặc có mối quan hệ về công nghệ, thị trường... với các doanh nghiệp khác thì xem xét sáp nhập, hợp nhất, không phụ thuộc vào doanh nghiệp do địa phương hay do Trung ương quản lý để hình thành những doanh nghiệp quy mô lớn hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con.

Sau khi tổ chức lại sẽ tiến hành cổ phần hóa công ty mẹ. Việc sáp nhập, hợp nhất không được làm ảnh hưởng lớn đến tình hình sản xuất, kinh doanh, tài chính của đơn vị nhận sáp nhập, hợp nhất; phải tiến hành xử lý dứt điểm các tồn tại về tài chính, lao động trước khi thực hiện phương án sáp nhập, hợp nhất. Tránh tình trạng thực hiện sáp nhập một số DNNN quản lý yếu kém, kinh doanh thua lỗ vào các DNNN đang kinh doanh có hiệu quả làm giảm sức mạnh của đơn vị tiếp nhận.

Đối với doanh nghiệp sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích: Chuyển thành công ty trách nhiệm hữu hạn 1 thành viên các doanh nghiệp quốc phòng, an ninh thực hiện sản xuất, cung ứng sản phẩm dịch vụ công ích, nhiệm vụ quốc phòng an ninh ;

Thực hiện cổ phần hóa với lộ trình phù hợp, trước mắt Nhà nước giữ cổ phần chi phối đối với các doanh nghiệp sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích theo phương thức đặt hàng, giao kế hoạch quy định tại Nghị định số 31/2005/NĐ-CP ngày 11 tháng 3 năm 2005.

Cổ phần hóa, Nhà nước không cần nắm giữ cổ phần hoặc chỉ nắm giữ cổ phần ở mức thấp (< 35%) tại các doanh nghiệp cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích theo phương thức đấu thầu, đặt hàng quy định tại Nghị định nói trên.

b) Đẩy mạnh sắp xếp, cổ phần hóa các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước:

Các tổng công ty nhà nước là lực lượng chủ lực trong nền kinh tế quốc dân, chiếm tới 87% tổng vốn nhà nước đầu tư vào các doanh nghiệp, riêng các tổng công ty 91 chiếm 71,6%. Những năm trước đây chúng ta chủ yếu sắp xếp, cổ phần hóa những doanh nghiệp quy mô nhỏ, có một số ít doanh nghiệp quy mô vừa và lớn nhằm thu gọn đầu mối.

Việc cổ phần hóa các tập đoàn, tổng công ty là vấn đề mới mẻ, hệ trọng, khó khăn và phức tạp. Vì vậy, cần phải có quan điểm, phương pháp, bước đi phù hợp, chắc chắn, giữ vững ổn định sản xuất, không gây tác động đến môi trường đầu tư, đời sống người lao động và xã hội. Khẩn trương phân loại rõ những tập đoàn, tổng công ty nhà nước cần nắm giữ 100% vốn; những tập đoàn, tổng công ty cần cổ phần hoá. Nhà nước chỉ nắm giữ 100% vốn đối với các tập đoàn, tổng công ty hoạt động có hiệu quả, được Nhà nước giao quản lý, khai thác và phân phối một bộ phận tài nguyên quốc gia, làm công cụ để Nhà nước điều tiết vĩ mô.

Các tổng công ty nhà nước là những doanh nghiệp có quy mô lớn, đa số hoạt động có hiệu quả, tuy nhiên, vẫn còn một số tổng công ty kết quả sản xuất, kinh doanh còn thấp. Để cổ phần hóa một cách hiệu quả, cần phân thành hai loại: loại hoạt động có hiệu quả thì tiến hành cổ phần hóa ngay, loại hiệu quả chưa cao thì cần làm rõ nguyên nhân để có biện pháp nâng cao hiệu quả trước khi cổ phần hóa như: đầu tư, sắp xếp lại, lành mạnh hóa tình hình tài chính, đổi mới tổ chức cán bộ.

c) Cổ phần hoá các ngân hàng thương mại, các công ty bảo hiểm:

Ngân hàng thương mại nhà nước là loại doanh nghiệp đặc thù, là một kênh cung cấp vốn quan trọng nhất cho các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp nhà nước nói riêng. Tuy nhiên, các ngân hàng thương mại nhà nước có vốn điều lệ và hệ số an toàn vốn còn thấp, năng lực quản lý, trình độ công nghệ còn yếu, các sản phẩm, dịch vụ của ngân hàng còn nghèo, mới tập trung chủ yếu vào hoạt động cấp tín dụng. Ngân hàng thương mại nhà nước nhìn chung chưa thật sự đáp ứng nhu cầu vay vốn, mối quan hệ giữa ngân hàng và doanh nghiệp chưa thật sự bình đẳng, vừa là đối tác, vừa là bạn hàng, gắn bó chặt chẽ với nhau để hoạt động và phát triển. Trong các năm 2007 - 2010, cần tập trung chỉ đạo đổi mới và phát triển ngân hàng thương mại nhà nước theo các hướng sau:

Đối với Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng Phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long, cần khẩn trương thực hiện các công việc mà Thủ tướng Chính phủ đã quyết định, hoàn chỉnh trình Thủ tướng Chính phủ đề án cổ phần hóa ngay trong năm 2006 để hoàn thành cổ phần hóa trong năm 2007.

Đối với ba ngân hàng thương mại còn lại (Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, Ngân hàng Công thương Việt Nam, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam) thì thực hiện cổ phần hóa theo hai bước:

+ Bước 1: nâng cao năng lực tài chính theo hướng đạt các chỉ số lành mạnh tài chính theo chuẩn quốc tế vào cuối năm 2006 đối với Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, Công thương Việt Nam và cuối năm 2007 đối với Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam.

+ Bước 2: từ năm 2007 tiến hành cổ phần hoá Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, Ngân hàng Công thương Việt Nam; từ năm 2008 cổ phần hoá Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam.

Đối với Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam, cần khẩn trương thực hiện đề án cổ phần hóa Tổng công ty này và hình thành Tập đoàn Tài chính bảo hiểm Bảo Việt mà Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt. Đối với Công ty Bảo hiểm Dầu khí, cần xây dựng đề án cổ phần hóa, trình cấp có thẩm quyền phê duyệt ngay trong đầu năm 2007 và đi vào thực hiện. Việc cổ phần hóa hai công ty bảo hiểm nhà nước này phải chú trọng tới ổn định và phát triển thị trường bảo hiểm trong nước, đồng thời có biện pháp nhanh chóng vươn ra thị trường quốc tế.

Đối với các công ty dịch vụ tài chính, cần tiến hành rà soát để đề ra và thực hiện lộ trình cổ phần hóa phù hợp với đặc thù của loại hình doanh nghiệp này và yêu cầu phát triển thị trường tài chính.

Tổng hợp lại, theo phương án trên, từ nay đến hết năm 2010, sẽ cổ phần hóa khoảng 1.500 doanh nghiệp và đến cuối năm 2010 cả nước có 554 doanh nghiệp 100% vốn nhà nước, trong đó 26 tập đoàn, tổng công ty quy mô lớn; 178 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực an ninh, quốc phòng, sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ thiết yếu; 200 nông, lâm trường; 150 doanh nghiệp thành viên các tập đoàn, tổng công ty nhà nước.

SOURCE: CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Chủ Nhật, 31 tháng 5, 2009

MỘT SỐ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU CẤP BỘ GIAI ĐOAN 2004 – 2009 CỦA VIỆN NGHIÊN CỨU QUẢN LÝ KINH TẾ TRUNG ƯƠNG

CIVILLAWINFOR (Tổng hợp)

A. NĂM 2009

1. Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững ở Việt Nam

Chủ nhiệm đề tài: PGS.TS. Lê Xuân Bá, Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương
Email: LeXuanBa@ciem.org.vn


2. Nghiên cứu hoàn thiện các chính sách hỗ trợ đời sống người lao động

Chủ nhiệm đề tài: TS. Đinh Văn Ân, Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương
Email: president@ciem.org.vn


3. Tăng cường trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đối với người tiêu dùng và đối với môi trường Việt Nam vì sự phát triển bền vững

Chủ nhiệm đề tài:  PGS.TS. Nguyễn Đình Tài, Giám đốc Trung tâm Tư vấn quản lý và đào tạo
Email: Tai@ciem.org.vn


4. Hoạt động sáp nhập và mua lại: Cơ sở lý luận, kinh nghiệm quốc tế và kiến nghị chính sách cho Việt Nam

Chủ nhiệm đề tài: ThS. Lưu Minh Đức, Nghiên cứu viên Ban nghiên cứu Chính sách kinh tế vĩ mỗ, Viện NCQLKT TƯ.
Email: Duc@ciem.org.vn


5. Mua sắm công bằng vốn Nhà nước: Cơ sở khoa học, những bất cập và giải pháp

Chủ nhiệm đề tài: TS. Ngô Minh Hải
Email: mhai@ciem.org.vn


6. Cơ sở lý luận và thực tiễn phát triển cơ sở ươm tạo doanh nghiệp công nghệ ở Việt Nam 

Chủ nhiệm đề tài: ThS. Nguyễn Thị Lâm Hà
Email: lamha@ciem.org.vn


7. Vấn đề bồi thường trong thu hồi đất nông nghiệp ở Việt Nam: Thực trạng chính sách và giải pháp hoàn thiện

Chủ nhiệm đề tài: TS. Nguyễn Mạnh Hải
Email: nmhai@ciem.org.vn


8. Năng lực tham gia của hộ nông dân đối với sản xuất nông sản hàng hoá: Cách tiếp cận từ chuỗi giá trị

Chủ nhiệm đề tài: ThS. Lưu Đức Khải
Email: khai@ciem.org.vn


9. Tái lập cân đối kinh tế vĩ mô trong và sau khủng hoảng: Kinh nghiệm và bài học

Chủ nhiệm đề tài: ThS. Trịnh Quang Long
Email: long@ciem.org.vn

B. NĂM 2008

10. Áp dụng phương pháp “đánh giá tác động pháp luật” (RIA) để nâng cao chất lượng quy định pháp luật ở Việt nam

Chủ nhiệm đề tài: ThS. Phan Đức Hiếu, Nghiên cứu viên Ban nghiên cứu Chính sách kinh tế vĩ mỗ, Viện NCQLKT TƯ.
Email: hieu@ciem.org.vn


11. Đổi mới nội dung và phương thức quản lý, giám sát của Nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước phù hợp với thể chế kinh tế thị trường và cam kết gia nhập WTO

Chủ nhiệm đề tài: TS. Trần Tiến Cường, Trưởng ban Nghiên cứu Chính sách cải cách và phát triển doanh nghiệp, Viện NCQLKT TƯ
Email: ttcuong@ciem.org.vn


12. Xây dựng văn hoá doanh nghiệp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNN&V)Việt Nam

Chủ nhiệm đề tài: TS. Trần Kim Hào, Phó chủ nhiệm Câu lạc bộ Doanh nghiệp nhà nước, Viện NCQLKT TƯ
Email: tkhao@ciem.org.vn


13. Chính sách khuyến khích đầu tư trực tiếp ra nước ngoài từ các nước đang phát triển và chuyển đổi: Kinh nghiệm quốc tế và kiến nghị chính sách cho Việt Nam

Chủ nhiệm đề tài: TS. Lê Xuân Sang, Phó tổng biên tập Tạp chí Quản lý Kinh tế, Viện NCQLKT TƯ
Email: lsang@ciem.org.vn


14. Quan hệ đối tác (partnership) giữa Nhà nước với khu vực tư nhân (PPP) trong cung cấp một số loại dịch vụ công cơ bản: Kinh nghiệm, thông lệ quốc tế tốt và ý nghĩa ứng dụng cho Việt Nam

Chủ nhiệm đề tài: ThS. Nguyễn Thị Kim Dung, Phó trưởng ban nghiên cứu Thể chế kinh tế, Viện NCQLKT TƯ
Email: kdung@ciem.org.vn


15. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc chuyển đổi một số đơn vị sự nghiệp công sang mô hình hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận trong lĩnh vực giáo dục, y tế ở Việt Nam

Chủ nhiệm đề tài: ThS. Ngô Minh Tuấn, Nghiên cứu viên Ban nghiên cứu Khoa học quản lý kinh tế, Viện NCQLKT TƯ
Email: minhtuan@ciem.org.vn


16. Phòng ngừa và xử lý việc bị kiện phá giá đối với mặt hàng dệt may trong khuôn khổ WTO: Kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam

Chủ nhiệm đề tài: ThS. Trần Hồng Minh, Phó giám đốc Trung tâm Thông tin - Tư liệu, Viện NCQLKT TƯ
Email: minh@ciem.org.vn


17. Tăng cường vai trò của một số tổ chức xã hội dân sự trong phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn Việt Nam hiện nay

Chủ nhiệm đề tài: ThS. Nguyễn Thị Hiên, Phó trưởng ban Ban nghiên cứu chính sách phát triển kinh tế nông thôn, Viện CNQLKT TƯ
Email: hiennt@ciem.org.vn


18. Các kênh huy động vốn đầu tư bất động sản: cơ sở lý luận, kinh nghiệm quốc tế và gợi ý áp dụng cho Việt Nam

Chủ nhiệm đề tài: Ths. Đinh Trọng Thắng, Nghiên cứu viên Trung tâm Tư vấn Quản lý và Đào tạo, Viện NCQLKT TƯ
Email: trongthang@ciem.org.vn

C. NĂM 2007

19. Chính sách huy động các nguồn vốn đầu tư đổi mới công nghệ của doanh nghiệp (2006-2007)

Chủ nhiệm đề tài: TS. Lê Xuân Bá, Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương
Email: LeXuanBa@ciem.org.vn


20. Quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp sau đăng ký kinh doanh: cơ sở lý luận, kinh nghiệm quốc tế và ứng dụng thực tiễn ở Việt Nam

Chủ nhiệm đề tài:  PGS.TS. Nguyễn Đình Tài, Giám đốc Trung tâm Tư vấn quản lý và đào tạo
Email: Tai@ciem.org.vn


21. Nghiên cứu cơ chế, chính sách thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư cho bảo vệ môi trường

Chủ nhiệm đề tài:  ThS. Vũ Xuân Nguyệt Hồng, Trưởng ban nghiên cứu Khoa học quản lý
Email: vxnhong@ciem.org.vn


22. Đánh giá đóng góp của các ngành kinh tế và chuyển dịch cơ cấu ngành tới tăng trưởng năng suất ở Việt Nam.

Chủ nhiệm đề tài:  TS. Nguyễn Thị Tuệ Anh, Phó trưởng ban Nghiên cứu Khoa học quản lý kinh tế
Email: TueAnh@ciem.org.vn


23. Quản trị doanh nghiệp: cơ sở lý luận, kinh nghiệm quốc tế và ứng dụng thực tiễn ở Việt Nam.

Chủ nhiệm đề tài:  ThS. Nguyễn Nam Hải
Email: namhai@ciem.org.vn


24. Quản lý nhà nước đối với việc thành lập doanh nghiệp: cơ sở lý luận, kinh nghiệm quốc tế và ứng dụng thực tiễn ở Việt Nam

Chủ nhiệm đề tài: CN. Nguyễn Văn Hưởng, Phó giám đốc Trung tâm Tư vấn quản lý và đào tạo
Email: NgHuong@ciem.org.vn


25. Cơ sở lý luận và kinh nghiệm quốc tế trong áp dụng phương pháp định giá thương hiệu doanh nghiệp

Chủ nhiệm đề tài:  ThS. Nguyễn Thị Luyến, Nghiên cứu viên Ban nghiên cứu chính sách cải cách và phát triển doanh nghiệp
Email: Luyennt@ciem.org.vn


26. Điều chỉnh chính sách công nghiệp trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế: nghiên cứu trường hợp ngành công nghiệp chế biến thực phẩm

Chủ nhiệm đề tài: TS. Lê Mạnh Hùng, Nghiên cứu viên Trung tâm tư vấn quản lý và đào tạo
Email: HungDT@ciem.org.vn


27. Nghiên cứu năng lực cạnh tranh của mặt hàng tôm sú nuôi ở vùng ven biển miền Bắc Việt Nam

Chủ nhiệm đề tài: ThS. Nguyễn Hữu Thọ, Nghiên cứu viên Ban nghiên cứu chính sách phát triển kinh tế nông thôn
Email: Tho@ciem.org.vn


28. Nghiên cứu tác động của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đến mục tiêu phát triển bền vững xã hội ở Việt Nam

Chủ nhiệm đề tài: ThS. Trần Thanh Bình,  Ban Nghiên cứu Chính sách kinh tế Vĩ mô
Email: Thanhbinh@ciem.org.vn

D. NĂM 2006

29. Đổi mới quản lý nhà nước đối với các loại hình doanh nghiệp ở Việt Nam theo hướng không phân biệt thành phần kinh tế

Chủ nhiệm đề tài: T.S Trần Tiến Cường - Trưởng ban Ban Nghiên cứu cải cách và phát triển doanh nghiệp
Email: ttcuong@ciem.org.vn


30. Môi trường đầu tư bất động sản Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Chủ nhiệm đề tài: TS. Trần Kim Chung, phó trưởng ban Nghiên cứu Khoa học quản lý
Email: trankimchung@ciem.org.vn


31. Bất bình đẳng giới về thu nhập của người lao động ở Việt Nam và một số gợi ý giải pháp chính sách

Chủ nhiệm đề tài: ThS. Nguyễn Thị Nguyệt, nghiên cứu viên  Tạp chí Quản lý Kinh tế
Email: Nguyet@ciem.org.vn


32. Các đặc điểm và hiệu quả hoạt động của hộ sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp ở Việt Nam

Chủ nhiệm đề tài: ThS. Phạm Hoàng Hà, Nghiên cứu viên Ban nghiên cứu chính sách kinh tế vĩ mô
Email: hoangha@ciem.org.vn


33. Cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc điều chỉnh chính sách tài khóa của Việt Nam sau khi gia nhập WTO

Chủ nhiệm đề tài: TS. Lê Xuân Sang, Nghiên cứu viên Tạp chí Quản lý kinh tế
Email: LSang@ciem.org.vn


34. Chính sách huy động các nguồn vốn đầu tư đổi mới công nghệ của doanh nghiệp

Chủ nhiệm đề tài: TS. Lê Xuân Bá, Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương
Email: LeXuanBa@ciem.org.vn


35. Vai trò của các tổ chức xã hội trong quá trình hoạch định và thực thi chính sách kinh tế-xã hội ở Việt Nam

Chủ nhiệm đề tài: ThS. Nguyễn Thị Kim Dung, Phó trưởng ban Ban nghiên cứu Thể chế kinh tế
Email: kdung@ciem.org.vn


36. Khả năng áp dụng một số phương pháp xác định giá quyền sử dụng đất góp phần lành mạnh hóa thị trường quyền sử dụng đất ở Việt nam

Chủ nhiệm đề tài: TS. Nguyễn Mạnh Hải, nghiên cứu viên ban Nghiên cứu Khoa học quản lý
Email: nmhai@ciem.org.vn


37. Tiếp tục đổi mới tổ chức thực hiện chức năng chủ sở hữu phần vốn nhà nước đầu tư tại các doanh nghiệp

Chủ nhiệm đề tài: ThS. Phạm Đức Trung, nghiên cứu viên ban Nghiên cứu Chính sách cải cách và phát triển doanh nghiệp
Email: pdtrung@ciem.org.vn


38. "Các nhân tố tác động đến tăng trưởng của doanh nghiệp khu vực tư nhân ở một số tỉnh phía Bắc và phía Nam"

Chủ nhiệm đề tài: ThS. Tạ Minh Thảo, nghiên cứu viên Trung tâm Tư vấn Quản lý và Đào tạo
Email: tathao@ciem.org.vn


39. Sự tiếp cận của đồng bào dân tộc thiểu số với dịch vụ công ở Việt Nam

Chủ nhiệm đề tài: ThS. Nguyễn Thị Hiên, Phó Trưởng ban Ban Nghiên cứu Chính sách phát triển kinh tế nông thôn

Email: hiennt@ciem.org.vn


40. Áp dụng cách tiếp cận quản lý theo kết quả trong theo dõi và đánh giá thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm

Chủ nhiệm đề tài: TS. Trần Thị Hạnh, chuyên viên chính Ban Nghiên cứu Thể chế kinh tế

Email: tranhanh@ciem.org.vn


41. So sánh hệ thống pháp luật về sở hữu trí tuệ của Việt Nam theo Hiệp định TRIPs – WTO

Chủ nhiệm đề tài: ThS. Trần Hồng Minh, Phó Giám đốc Trung tâm Thông tin Tư liệu
Email: minh@ciem.org.vn

E. NĂM 2005

42. Xây dựng các chỉ số dẫn báo phục vụ phân tích chu kỳ kinh tế và dự báo ngắn hạn – Kinh nghiệm quốc tế và khả năng xây dựng cho Việt Nam

Chủ nhiệm đề tài: ThS. Đinh Hiền Minh, Phó trưởng ban Ban Nghiên cứu chính sách hội nhập Kinh tế Quốc tế
Email: hienminh@ciem.org.vn


43. Một số giải pháp thu hút đầu tư về nước của cộng đồng người Việt Nam định cư ở nước ngoài

Chủ nhiệm đề tài: CN. Nguyễn Anh Dũng, Nghiên cứu viên của Trung tâm Tư vấn Quản lý và Đào tạo - Viện NCQLKTTW
Email: anhdzung@ciem.org.vn


44. Đổi mới và nâng cao hiệu quả của mối quan hệ nhà nước với thị trường, phát huy vai trò của các đòan thể và các hội

Chủ nhiệm đề tài: CN. Hoàng Thu Hoà, Giám đốc Trung tâm Thông tin Tư liệu - Viện NCQLKTTW
Email: thhoa@ciem.org.vn


45. So sánh hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp có và không có vốn FDI trong ngành sản xuất thực phẩm và đồ uống ở Việt Nam, tiếp cận theo phương pháp phân tích bao dữ liệu (DEA).

Chủ nhiệm đề tài: ThS. Phan Lê Minh, Nghiên cứu viên Tạp chí Quản lý kinh tế
Email: PLMinh@ciem.org.vn


46. Cơ sở khoa học và thực tiễn đổi mới cơ chế tổ chức và quản lý của các tổ chức sự nghiệp công ở Việt Nam.

Chủ nhiệm đề tài: TS.Lê Xuân Bá, Phó viện trưởng Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương
Email: LeXuanBa@ciem.org.vn


47. Ảnh hưởng của việc chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp tới thu nhập của hộ nông dân

Chủ nhiệm đề tài: ThS. Lưu Đức Khải, Phó trưởng ban Ban nghiên cứu chính sách phát triển kinh tế nông thôn
Email: Khai@ciem.org.vn


48. Rủi ro trong quá trình tự do hóa thị trường tài chính và trình tự cải cách: Kinh nghiệm quốc tế và các bài học cho Việt Nam.

Chủ nhiệm đề tài: ThS. Trịnh Quang Long, Nghiên cứu viên ban Nghiên cứu Chính sách hội nhập kinh tế quốc tế
Email: long@ciem.org.vn


49. Đổi mới quản lý nhà nước đối với các loại hình doanh nghiệp ở Việt Nam theo hướng không phân biệt thành phần kinh tế.

Chủ nhiệm đề tài: TS. Trần Tiến Cường, Trưởng ban Ban nghiên cứu cải cách và phát triển doanh nghiệp
Email: TTCuong@ciem.org,vn


50. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư từ Ngân sách Nhà nước

Chủ nhiệm đề tài: ThS. Hoàng Văn Thành, Phó trưởng ban Ban nghiên cứu chính sách kinh tế vĩ mô
Email: HThanh@ciem.org.vn

F. NĂM 2004

51. Cơ sở khoa học và thực tiễn cho việc xây dựng và từng bước hoàn thiện thể chế kinh tế ở Việt Nam

Chủ nhiệm đề tài: TS. Lê Xuân Bá, Phó viện trưởng Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương
Email: LeXuanBa@ciem.org.vn


52. Cơ sở khoa học và giải pháp chính sách giảm chi phí kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh của Việt Nam.

Chủ nhiệm đề tài: ThS. Nguyễn Đình Cung, Trưởng ban Ban Nghiên cứu chính sách kinh tế vĩ mô
Email: Cung@ciem.org.vn


53. Các hạn chế đối với sự phát triển của thị trường chứng khoán ở Việt Nam và các giải pháp chính sách

Chủ nhiệm đề tài: TS. Lê Xuân Sang, Nghiên cứu viên Ban Nghiên cứu chính sách hội nhập kinh tế quốc tế - Viện NCQLKTW
Email: LSang@ciem.org.vn


54. Xây dựng các chỉ số dẫn báo phục vụ phân tích chu kỳ kinh tế và dự báo ngắn hạn - Kinh nghiệm quốc tế và khả năng xây dựng cho Việt Nam

Chủ nhiệm đề tài: ThS. Đinh Hiền Minh, Phó trưởng ban Ban nghiên cứu chính sách hội nhập kinh tế quốc tế
Email: hienminh@ciem.org.vn


55. Mô hình tăng trưởng Solow với hàm sản xuất có độ co dãn thay thế bất biến và vận dụng cho Việt Nam

Chủ nhiệm đề tài: TS. Nguyễn Tuệ Anh, Ban Nghiên cứu khoa học quản lý
Email: TueAnh@ciem.org.vn


56. Cơ sở khoa học và thực tiễn cho việc định hướng phân cấp quản lý nhà nước về đầu tư giữa trung ương và địa phương trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay.

Chủ nhiệm đề tài: TS. Trần Hữu Hân, Trưởng ban Nghiên cứu Thể chế kinh tế
Email: tranhuuhan@ciem.org.vn


57. "Thị trường dịch vụ phát triển kinh doanh cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam- Thực trạng, các vấn đề và giải pháp"

Chủ nhiệm đề tài: TS. Trần Kim Hào, Phó tổng biên tập Tạp chí Quản lý kinh tế - Viện NCQLKTTW

Email: tkhao@ciem.org.vn


58. Đánh giá ảnh hưởng qua lại của các hoạt động kinh doanh không chính thức của các doanh nghiệp khu vực tư nhân và môi trường đầu tư kinh doanh ở Việt Nam

Chủ nhiệm đề tài: PGS.TS. Nguyễn Đình Tài, Giám đốc Trung tâm Tư vấn quản lý và đào tạo - Viện NCQLKTTW

Email: tai@ciem.org.vn

SOURCE: VIỆC NGHIÊN CỨU QUẢN LÝ KINH TẾ TRUNG ƯƠNG (CIEM.ORG.VN)

Bài đăng phổ biến