Đây là một tình huống pháp lý có thật được đăng tại page face Nghề Công Chứng. Hiện vấn đề đang có nhiều ý kiến trái chiều nhau về vấn đề này, thông qua bài viết này tác giả muốn trình bày quan điểm cá nhân để trao đổi với mọi người về vấn đề này.
Tình huống: “Chùa A bị xuống cấp và cần tu sửa, vị trụ trì đã vay của bà B – một người hay lui tới Chùa với số tiền là 50 triệu đồng, trên giấy mượn tiền có chữ ký của trụ trì và đóng con dấu của Chùa. Sau khi Chùa được tu sửa không lâu, thì vị trụ trì vay tiền đã qua đời, hiện đã có vị trụ trì khác lên thay. Bà B đã đến gặp vị trụ trì chùa A để trình bày lại việc cho vị trụ trì trước đây vay tiền để tu sửa Chùa và mong muốn lấy lại số tiền trên. Vị trụ trì mới cho rằng mình không có trách nhiệm trả số tiền trên cho bà B.”
Vấn đề pháp lý đặt ra là : Bà B có thể đòi lại được số tiền đó hay không? Và đòi bằng cách nào?
Quan điểm của tác giả về vấn đề này như sau:
Theo tác giả hợp đồng trên có hiệu lực pháp luật bởi lẻ đó là sự thỏa thuận của 02 bên ( bà B và trụ trì) trên cơ sở bình đẳng, tự nguyện. Tài sản giao dịch là tiền – được phép giao dịch, bà B và vị trụ trì đều là người có đủ năng lực chủ thể để tham gia quan hệ vay tài sản. Khi vị trụ trì qua đời thì hợp đồng vay tài sản sẽ chấm dứt, theo quy định tại Điều 645 Bộ
luật dân sự thì trong 03 năm kể từ thời điểm vị trụ trì chết thì bà B có quyền khởi kiện những người thừa kế của vị trụ trì để đòi lại số tiền đã cho vay trên nếu vị trụ trì có di sản. Những người thừa kế phải có nghĩa vụ thanh toán trong phạm vi số tiền mà họ được hưởng. Còn nếu trong trường hợp vị trụ trì không để lại di sản hoặc giá trị khối di sản thấp hơn 50 triệu thì bà B không thể đòi lại được số tiền trên hoặc chỉ có thể đòi trong phạm vi khối di sản.
luật dân sự thì trong 03 năm kể từ thời điểm vị trụ trì chết thì bà B có quyền khởi kiện những người thừa kế của vị trụ trì để đòi lại số tiền đã cho vay trên nếu vị trụ trì có di sản. Những người thừa kế phải có nghĩa vụ thanh toán trong phạm vi số tiền mà họ được hưởng. Còn nếu trong trường hợp vị trụ trì không để lại di sản hoặc giá trị khối di sản thấp hơn 50 triệu thì bà B không thể đòi lại được số tiền trên hoặc chỉ có thể đòi trong phạm vi khối di sản.
Có một số quan điểm cho rằng trường hợp này Chùa phải có trách nhiệm trả cho bà B vì bà B là trụ trì chùa và đã lấy tư cách là đại diện cho chùa để đứng ra vay số tiền trên nên Chùa phải có nghĩa vụ trả nợ.
Tác giả không đồng tình với quan điểm này bởi lẻ: Chùa là cơ sở tôn giáo không phải là chủ thể của pháp luật dân sự nên không phải là đối tượng điều chỉnh của pháp luật dân sự, mặc dù Chùa có con dấu nhưng không có tư cách pháp nhân vì không hội đủ các điều kiện theo quy định tại Điều 84 Bộ luật dân sự.
Trên đây là quan điểm cá nhân của tác giả về việc giải quyết tình huống trên, tác giả rất mong muốn nhận được nhiều ý kiến đóng góp của bạn đọc.
QUYETQUYEN.