Thứ Tư, 13 tháng 2, 2008

CÁC LOẠI HÌNH DOANH NGHIỆP PHỔ BIẾN Ở PHÁP (Phần 2)

THS. LÊ MINH PHIẾU-   NCS tại Đại học Montesquieu – Bordeaux IV, Pháp

3. CÔNG TY CỔ PHẦN ĐƠN GIẢN (Société par actions simplifiée – SAS)

Những người sử dụng hình thức SA cho việc kinh doanh thường hay phàn nàn về sự thiếu mềm dẻo của nó. Sự cứng nhắc này cản trở rất lớn đến những hoạt động đầu tư chung và đến những công ty con chung (liên doanh). Do vậy, để khắc phục những hạn chế này, Hội đồng Quốc gia Các giới chủ Pháp đã kiến nghị sáng lập một hình thức công ty mới: công ty cổ phần đơn giản. Kiến nghị này đã được đáp ứng và ngày 3/1/1994, Luật Công ty Cổ phần Đơn giản đã ra đời.

Lúc đầu, theo mục đích của các nhà lập pháp, đây là công ty có một số lượng ít các thành viên nhưng các thành viên này lại có tiềm lực kinh tế lớn. Do vậy, các thể nhân, các tập đoàn lợi ích kinh tế (Groupement d'intérêt économique GIE), tập đoàn lợi ích kinh tế Châu Âu (Groupement européen d'intérêt économique - GEIE”), các công ty dự phần và hiệp hội không thể trở thành thành viên của công ty này.

Thế nhưng, Luật sửa đổi ngày 12/7/1999 đã tăng thêm những thuận lợi của loại hình công ty này một cách đáng kể bằng việc giảm đi những ràng buộc nhằm giúp cho nó được ưa chuộng hơn. Theo đó, công ty cổ phần đơn giản đã được thâm nhập vào các doanh nghiệp vừa và nhỏ và các nhà đầu tư tư nhân: khả năng thành lập công ty cổ phần đơn giản một chủ, cho phép thể nhân được tham gia công ty cổ phần đơn giản... Bằng những sửa đổi này, công ty cổ phần đơn giản thật sự là một loại hình cạnh tranh với công ty trách nhiệm hữu hạn.

Là một dạng công ty cổ phần, công ty cổ phần đơn giản cũng áp dụng những chế định của SA trong khuôn khổ những chế định này phù hợp với những nguyên tắc riêng của công ty cổ phần đơn giản. Các nhà lập pháp Pháp đã loại trừ một cách rõ ràng việc áp dụng những qui định về quản lý công ty, về đại hội đồng cổ đông và về việc chuyển đổi của SA cho SAS (Bộ luật Thương mại, Điều L.227-1, được sửa đổi bởi Luật NRE, Điều 101).

3.1 Thành lập công ty cổ phần đơn giản

Việc thành lập công ty cổ phần đơn giản có thể là bắt đầu từ đầu hay từ việc chuyển đổi các hình thức doanh nghiệp khác. Việc chuyển đổi một công ty sang công ty cổ phần đơn giản đòi hỏi phải có một quyết định trên cơ sở nhất trí giữa các thành viên (Bộ luật Thương mại, Điều L.227-3).

Bất kỳ người nào, thể nhân hay pháp nhân, công ty có mục đích lợi nhuận hay phi lợi nhuận, dù vốn điều lệ bao nhiêu, hiệp hội hay tập đoàn, đều có thể trở thành thành viên của công ty cổ phần đơn giản. Công ty không đòi hỏi phải có nhiều thành viên và do vậy, nhờ vào công ty cổ phần đơn giản, người ta có thể thành lập công ty cổ phần một chủ, được gọi là công ty cổ phần đơn giản một chủ (SASU – Société par actions simplifiée unipersonnelle).

Vốn điều lệ của công ty cổ phần đơn giản ít nhất phải là 37.000 euro. Điều L.227-2 của Bộ luật Thương mại qui định rằng công ty cổ phần đơn giản không thể phát hành chứng khoán ra công chúng. Mục đích của các nhà lập pháp là nhằm đảm bảo tính đóng của công ty. Tuy nhiên, các thành viên của công ty có thể phát hành chứng khoán giữa họ với nhau.

Những qui tắc về hình thức để thành lập và đăng ký kinh doanh công ty cổ phần đơn giản là những qui định được áp dụng cho công ty cổ phần (Bộ luật Thương mại, Điều L.227 –1, khoản 3).

3.2 Quản trị và điều hành

Những điều kiện quản lý công ty được điều lệ công ty tự do qui định (Bộ luật Thương mại, Điều L.227-5). Nó bao gồm điều kiện bổ nhiệm, bãi nhiệm số lượng, nhiệm kỳ, cách thức trả thù lao và cả quyền hành của người quản lý. Duy chỉ có một cơ quan được các nhà lập pháp áp đặt, đó là chủ tịch, người đại diện cho công ty cổ phần đơn giản đối với người thứ ba (Bộ luật Thương mại, Điều L.227 – 6). Điều cần lưu ý là chức năng này, khác với công ty cổ phần, có thể được đảm nhiệm bởi một pháp nhân (Bộ luật Thương mại, Điều L.227-8). Điều lệ công ty có thể qui định rằng chủ tịch sẽ được chọn trong số những cổ đông thuộc loại xác định nào đó.

Bên cạnh chủ tịch, điều lệ có thể thiết lập các cơ quan khác với những tên gọi, chức năng và phương thức quyết định do điều lệ tự do qui định. Việc kiểm soát công ty cũng do điều lệ qui định.

Chế độ về trách nhiệm dân sự của thành viên hội đồng quản trị và ban giám đốc của công ty cổ phần sẽ điều chỉnh trách nhiệm của chủ tịch và những người quản lý của công ty cổ phần đơn giản (Bộ luật Thương mại, Điều L.227-8). Giải pháp tương tự cũng được áp dụng đối với trách nhiệm hình sự.

Phương thức thực hiện quyền biểu quyết trong công ty, về nguyên tắc, sẽ do điều lệ qui định; không nhất thiết phải có sự phù hợp giữa tỷ lệ số cổ phần và quyền biểu quyết. Điều lệ cũng sẽ tự do lựa chọn phương thức tham khảo ý kiến của các thành viên. Tuy nhiên, mọi quyết định về việc thay đổi vốn, sáp nhập, chia tách, giải thể, chuyển đổi, bổ nhiệm kiểm toán viên, thông qua báo cáo tài chính hàng năm và phân chia lợi nhuận nhất thiết phải thông qua trong khuôn khổ của một hội đồng (Bộ luật Thương mại, Điều L.227-9, được sửa đổi bởi Luật NRE, Điều 125). Việc không tuân theo qui định này có thể bị chế tài hình sự (Bộ luật Thương mại, Điều L.244-2, sửa đổi bởi Luật NRE, Điều 128).

3.3 Chuyển nhượng cổ phần

Một trong những đổi mới quan trọng của SAS đó là sự cho phép các thành viên công ty có thể đưa vào điều lệ công ty điều khoản không thể chuyển nhượng được (clause d’inaliénabilité). Một khi áp dụng điều khoản này thì cổ phần sẽ không được chuyển nhượng. Thế nhưng điều khoản này không thể áp dụng quá thời hạn 10 năm (Bộ luật Thương mại – Điều L.227 – 14). Hơn nữa, việc vận dụng điều khoản này cũng phải tuân theo một vài điều kiện nhất định (như chỉ áp dụng đối với một vài cổ đông, chỉ áp dụng đối với một tỉ lệ cổ phần nhất định của những người chính yếu của SAS...).

Tương tự như trường hợp trên, điều lệ công ty cũng có thể đưa vào điều khoản ràng buộc các cổ đông phải ưu tiên chào bán cổ phần của mình cho các cổ đông còn lại cho công ty. Điều lệ công ty cũng có thể quy định rằng các cổ đông khi muốn chuyển nhượng cổ phần của mình phải thông báo trước cho các cổ đông khác. Như vậy, việc chuyển nhượng cổ phần trong SAS không quá tự do như trong SA, mà cũng không quá bị hạn chế như trong Công ty trách nhiệm hữu hạn (SARL). Và chính những người thông qua điều lệ của công ty sẽ lựa chọn mức độ của sự tự do chuyển nhượng ấy.

3.4 Công ty cổ phần đơn giản một chủ (Société par actions simplifiée unipersonnelle - SASU)

Việc cho ra đời công ty này là một tiến bộ rất đáng kể của Luật năm 1999. Công ty này chỉ có một thành viên, có thể là người quản lý công ty hay không. Đặc điểm một thành viên có thể có ngay từ khi công ty mới được thành lập và cũng có thể xuất hiện trong quá trình tồn tại của công ty cổ phần đơn giản. Công ty cổ phần đơn giản một thành viên, do có sự thay đổi về số lượng thành viên, có thể trở thành nhiều thành viên rồi sau đó có thể trở lại một thành viên mà không cần chuyển đổi pháp lý cho công ty. Như vậy, ở Pháp, ngoài hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên (EURL), một cá nhân có thể một mình tiến hành hoạt động kinh doanh dưới hình thức công ty cổ phần đơn giản. Tương tự, trong các tập đoàn công ty, công ty cổ phần đơn giản một thành viên là một hình thức khá hấp dẫn để thành lập các công ty con có 100% vốn của một chủ.

Khi công ty cổ phần đơn giản chỉ có một thành viên, chế độ pháp lý của nó có một số đặc điểm riêng như sau:

- Thành viên duy nhất được thực hiện những quyền của thành viên trong công ty cổ phần đơn giản nhưng quyết định tập thể được chuyển sang quyết định đơn phương (Bộ luật Thương mại, Điều L.227-1, khoản 2); báo cáo về quản lý và về tài chính công ty phải được chủ tịch thực hiện và được thông qua bởi thành viên duy nhất, người mà không thể ủy quyền cho người khác. Các quyết định phải được ghi vào sổ quyết định;

- Khi giải thể công ty, nếu thành viên duy nhất là pháp nhân thì toàn bộ tài sản của công ty sẽ được chuyển cho thành viên duy nhất đó, không cần làm thủ tục thanh lý tư pháp (Bộ luật Dân sự, Điều 1844-5). Nếu thành viên là thể nhân thì phải làm thủ tục thanh lý theo qui định chung;

- Không cần có sự can thiệp của kiểm toán viên đối với những thỏa thuận giữa công ty và người quản lý công ty. Nó chỉ cần ghi vào sổ quyết định.

4. CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN (Société à responsabilité limitée - SARL)

Kể từ khi Luật ngày 11/1/1985 ra đời, công ty trách nhiệm hữu hạn bao gồm hai loại: công ty trách nhiệm hữu hạn nhiều thành viên (có ít nhất hai thành viên) và công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên (có duy nhất một thành viên).

4.1 Công ty trách nhiệm hữu hạn nhiều thành viên (SARL pluripersonnelle)

Công ty trách nhiệm hữu hạn được du nhập vào Pháp bởi Luật ngày 7/3/1925, dựa theo mô hình được sáng lập vào năm 1892 (Gmbh) bởi Luật Công ty TNHH của Đức năm 1892). Hiện nay loại hình này được điều chỉnh bởi các điều từ L.223 –1 đến L. 223-43 của Bộ luật Thương mại.

4.1.1 Thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn

Chế độ thành lập không có nhiều điểm đặc biệt, nó chủ yếu theo những quy đinh chung của luật công ty và đặc biệt là theo những qui định về thành lập SA.

- Điều kiện về nội dung:

Về ngành nghề, nguyên tắc chung là tự do, tất cả các hoạt động kinh tế đều có thể được thực hiện dưới hình thức SARL. Tuy nhiên, có một vài ngành nghề không được phép thực hiện dưới hình thức công ty này, chẳng hạn như bảo hiểm (Bộ luật Thương mại, Điều L.223-1, khoản 4) hay đại lý thuốc lá. Đối với các ngành nghề tự do (luật sư, bác sỹ...), các nhà kinh doanh có thể lựa chọn công ty hành nghề tự do trách nhiệm hữu hạn, một phiên bản khác của SARL cổ điển.

Công ty trách nhiệm hữu hạn không được bao gồm quá 50 thành viên (Bộ luật Thương mại, Điều L. 223-3). Trong trường hợp vượt quá mức mức trần này, công ty có thời hạn 2 năm để chuyển đổi sang SA, hoặc là phải giảm số thành viên xuống đến mức 50, nếu không công ty tự động giải thể. Các thành viên không cần có tư cách thương nhân.

Về vốn pháp định, trước kia, luật qui định rằng, muốn thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn, vốn điều lệ ít nhất phải là 7.500 euro, riêng đối với công ty báo chí là 300 euro và hợp tác xã thủ công là 1.500 euro. Thế nhưng, Luật ngày 5/5/2003, với mục đích làm cho việc thành lập loại hình công ty này trở nên đơn giản hơn và nhanh hơn, đã bỏ qui định về vốn pháp định đối với công ty trách nhiệm hữu hạn, cả nhiều thành viên lẫn một thành viên. Theo đó, kể từ ngày 6/5/2003, ngày có hiệu lực của Luật ngày 5/5/2003, chỉ với 1 euro, nhà đầu tư ở Pháp có thể thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn.

Việc góp vốn có thể thực hiện bằng tiền, bằng tài sản, quyền tài sản hay bằng góp sức (industrie). Việc góp vốn bằng industrie theo cách thức được xác định trong điều lệ (Bộ luật Thương mại, Điều L.223-7, khoản 2, được sửa đổi bởi Luật NRE, Điều 124). Việc góp vốn bằng tài sản và quyền tài sản phải tuân theo những qui định rất chặt chẽ về định giá.

- Điều kiện về hình thức:

Những qui định về thủ tục thành lập công ty cổ phần cũng đồng thời được áp dụng đối với công ty trách nhiệm hữu hạn. Tương tự, những sáng lập SARL cũng phải chịu trách nhiệm dân sự và hình sự đối với những hành vi bất hợp pháp trong quá trình thành lập tương tự như các sáng lập viên của công ty cổ phần.

4.1.2 Quản lý công ty trách nhiệm hữu hạn

Cấu trúc của SARL gọn nhẹ hơn so với SA vì nó chỉ có một cơ quan điều hành, đó là người quản lý. Quy chế của người quản lý công ty trách nhiệm hữu hạn có nhiều điểm giống với tổng giám đốc trong SA.

Luật qui định rằng, người quản lý phải là thể nhân. Mặc dù người này không cần phải có tư cách thương nhân nhưng họ không được nằm trong các trường hợp bị cấm hành nghề thương mại. Những vần đề còn lại như độ tuổi, bằng cấp, thâm niên... sẽ do điều lệ công ty qui định. Họ có thể được chọn trong số các thành viên hoặc người thứ ba, với độ tuổi không bị hạn chế và việc kiêm nhiệm các chức vụ không bị giới hạn.

Người quản lý đầu tiên được chỉ định trong điều lệ hay trong một văn bản riêng lẻ (Bộ luật Thương mại, Điều L.223-18). Việc bổ nhiệm người quản lý mới phải được đăng báo và phải được thông báo cho Phòng Đăng ký Thương mại và Doanh nghiệp. Trừ khi điều lệ có qui định khác, nhiệm kỳ của người quản lý kéo dài theo sự tồn tại của công ty. Ngoài lý do chết và từ nhiệm, người quản lý có thể chấm dứt chức vụ do quyết định của các thành viên hay quyết định tư pháp. Quyết định của các thành viên được công nhận khi có một thành viên hoặc nhóm thành viên nắm giữ trên 50% vốn điều lệ thông qua. Còn quyết định tư pháp được ban hành bởi tòa án khi có thành viên, bất kể là nắm giữ bao nhiêu phần trăm vốn góp, yêu cầu tòa án bãi nhiệm người quản lý với “lý do chính đáng” (Bộ luật Thương mại, Điều L.223-25, khoản 2).

Đối với công ty chỉ có duy nhất một người quản lý, thì người này được có những quyền rộng rãi nhất để hành xử trong tất cả các tình huống nhân danh công ty (Bộ luật Thương mại, Điều L.223-18). Còn đối với công ty có nhiều người quản lý, thì mỗi người quản lý đều có quyền ngang nhau trong việc ký kết văn bản nhân danh công ty. Chỉ cần một trong số những người quản lý ký vào hợp đồng thì công ty đã ràng buộc trách nhiệm của mình vào hợp đồng đó. Một người quản lý có thể phản đối văn bản mà người quản lý khác đã ký kết, nhưng sự phản đối này không có hiệu lực đối với người thứ ba, trừ khi người quản lý này đã thông báo ý kiến phản đối của mình đối với người thứ ba đó (tức người đã ký hợp đồng với người quản lý kia) trước khi ký hợp đồng. Do vậy, nếu người thứ ba đã biết ý kiến phản đối này mà vẫn ký kết hợp đồng thì hợp đồng đó không thể bắt buộc công ty phải thực hiện. Mặt khác, những người quản lý phải có nhiệm vụ giám sát lẫn nhau và sự thiếu giám sát đó có thể là một nguyên nhân dẫn đến trách nhiệm của người quản lý mà người đồng quản lý kia có thể viện dẫn để biện hộ cho hành vi của mình. Việc tồn tại nhiều người quản lý trong cùng một công ty trách nhiệm hữu hạn đặt ra nhiều khó khăn. Tuy nhiên, điều lệ công ty thường phân công mỗi người quản lý phụ trách một lĩnh vực khác nhau hay đòi hỏi họ phải hành động cùng nhau.

4.2 Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên (Entreprise unipersonelle à responsabilité limitée - EURL)

Pháp luật Pháp trước kia quan niệm công ty là một hợp đồng được ký kết giữa ít nhất hai thành viên và do vậy, công ty chỉ có một thành viên không thể tồn tại. Thế nhưng, quan niệm đó không phù hợp với thực tiễn và nhu cầu kinh doanh nên cuối cùng, với Luật ngày 11/7/1985, dựa theo mô hình Einmann- GmbH của Đức, các nhà làm luật Pháp đã bắt đầu công nhận công ty một chủ có tên là công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên.

Chế độ pháp lý cơ bản của công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là chế độ của công ty trách nhiệm hữu hạn nhiều thành viên với những qui định riêng cần thiết phù hợp với đặc điểm một thành viên. Việc áp dụng qui định của công ty trách nhiệm hữu hạn nhiều thành viên cho công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên mang lại nhiều thuận lợi, nó cho phép nhà làm luật không cần phải thiết kế lại hoàn toàn một hình thức công ty mới. Hơn nữa, nó còn đơn giản hóa việc chuyển từ đặc điểm nhiều thành viên sang đặc điểm một thành viên và ngược lại. Theo đó, nếu thành viên duy nhất chuyển một phần vốn cho người khác hay một người khác góp thêm vốn vào để tăng vốn cho công ty, công ty sẽ trở thành công ty trách nhiệm hữu hạn nhiều thành viên mà không cần chuyển đổi pháp lý.

4.2.1 Thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên

Việc thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên có thể là một kết quả từ việc tập trung tất cả phần vốn góp của SARL vào tay một người. EURL còn có thể được thành lập bởi một quyết định đơn phương của một thể nhân để tạo thành một vỏ bọc pháp lý cho việc kinh doanh hoặc của một pháp nhân, để tạo thành một kỹ thuật cho phép chuyển hoạt động cho các công ty con trong khuôn khổ một tập đoàn. Một người, có thể là thể nhân lẫn pháp nhân, đều có thể thành lập nhiều EURL. Ngược lại, EURL không thể thành lập EURL khác (Bộ luật Thương mại, Điều L.223-5).

Về ngành nghề, EURL được hoạt động trong các lĩnh vực tương tự như đối với SARL. Những người hành nghề tự do có thể hoạt động trong khôn khổ công ty hành nghề tự do trách nhiệm hữu hạn một chủ (SELARL unipersonelle). Đối với ngành nông nhiệp, các nhà làm luật đã thiết kế một công ty dân sự, có tên là công ty trách nhiệm hữu hạn nông nghiệp (EARL), mà công ty này có thể là một thành viên.

Thành viên duy nhất nếu là thể nhân do không có tư cách thương nhân, có thể là một người không có năng lực hành vi dân sự, người chưa thành niên. Trong trường hợp này, việc quản lý công ty sẽ do người thứ ba thực hiện.

Về vốn, tương tự như SARL, kể từ ngày 6/5/2003, vốn pháp định đối với EURL đã bị xóa bỏ. Thành viên duy nhất của công ty thực hiện việc góp vốn bằng tiền mặt, bằng tài sản hay quyền tài sản, không thể góp vốn bằng industrie.

4.2.2 Hoạt động của EURL

- Quản lý

Thành viên duy nhất có thể tự đảm nhiệm chức vụ quản lý công ty. Trong trường hợp này, mặc dù thành viên – người quản lý này là người chủ duy nhất của công ty, nhưng không phải là người có thể làm bất cứ điều gì mà phải tuân thủ sự tách bạch tồn tại giữa những công việc của công ty và công việc cá nhân của mình. Do vậy, thành viên duy nhất này mà trong quá trình quản lý, ngoài khoản tiền lương hàng tháng hợp lệ được “thông qua”, không được rút tiền từ quỹ của công ty. Để đảm bảo tính khả thi của quy định này, pháp luật Pháp đã dự liệu khá cụ thể. Nếu như người quản lý là thành viên duy nhất này đã rút công quỹ, thì chế tài sẽ được tuyên như là đã chiếm đoạt tài sản riêng của một pháp nhân. Trong trường hợp phục hồi khả năng thanh toán hay thanh lý tư pháp, nếu như thành viên duy nhất này đã rút tài sản từ công ty thì chế độ trách nhiệm hữu hạn của EURL sẽ không còn được áp dụng1.

Việc quản lý công ty có thể được đảm trách bởi người thứ ba. Trong trường hợp này, về phương diện pháp lý, người quản lý có tư cách như một người được ủy quyền, trong khi về phương diện thuế và lao động, anh ta có tư cách như người lao động làm công ăn lương. Trong trường hợp EURL được thành lập bởi một pháp nhân, người quản lý nhất thiết phải là một thể nhân không phải là thành viên công ty vì trong công ty trách nhiệm hữu hạn, việc quản lý không thể được đảm nhận bởi một pháp nhân (Bộ luật Thương mại, Điều L.223-18, khoản 1).

- Thông qua quyết định

Quyền hạn của hội đồng công ty được thực hiện bởi thành viên duy nhất của công ty (Bộ luật Thương mại, Điều L.223-21) và khi tiến hành việc này, anh ta không cần phải có nghĩa vụ trriệu tập chính mình (Bộ luật Thương mại, Điều L.223-31). Chính thành viên duy nhất sẽ là người thông qua báo cáo tài chính của công ty, quyết định phân chia lợi nhuận, sửa đổi điều lệ. Nhưng những quyết định này muốn có hiệu lực phải được ghi vào sổ quyết định.

Thành viên duy nhất cũng chính là người thông qua các thỏa thuận mà công ty ký kết. Và tuy là người nắm giữ 100% số vốn của công ty nhưng thành viên duy nhất không thể tùy tiện ký kết hợp đồng với công ty. Chẳng hạn, việc thành viên duy nhất vay tài sản của công ty là một điều bị cấm, trừ phi thành viên duy nhất là một pháp nhân.

5. CÔNG TY HỢP DANH (Société en nom collectif - SNC)

Công ty hợp danh là một loại hình công ty xuất hiện từ rất lâu đời. Các nhà sử học đã chứng minh rằng, những công ty đầu tiên xuất hiện trên thế giới (vào thời Trung Cổ ở Châu Âu) chính là những công ty có nhiều điểm tương đồng với công ty hợp danh và có một số khác tương đồng với công ty hợp vốn đơn giản của Pháp hiện nay. Chính vì sự xuất hiện từ rất lâu đời này, cộng với tính đơn giản trong hoạt động của nó, đã giải thích rằng trong một thời gian rất dài, công ty này như một kiểu mẫu gốc của các công ty.

Công ty hợp danh là công ty có đặc điểm thương mại rõ nét nhất. Giống như công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn, nó là một công ty thương mại, kể cả khi ngành nghề của công ty không là các hành vi thương mại theo luật của Pháp. Nhưng tính thương mại đặc biệt thể hiện ở yếu tố thành viên công ty: các thành viên này nhất thiết phải có tư cách thương nhân, do vậy, những ai không đáp ứng đủ những điều kiện để trở thành thương nhân thì không thể trở thành thành viên công ty hợp danh.

Công ty hợp danh là loại hình công ty mà các thành viên dễ gặp rủi ro nhất: trách nhiệm của các thành viên vừa vô hạn, vừa liên đới với nhau. Mặc khác, nó cũng là công ty có tính đóng nhất: Luật qui định rằng, khi một trong số các thành viên chết, bị phá sản hay bị cấm thực hiện một hoạt động thương mại, công ty sẽ tự động bị giải thể, trừ khi điều lệ của công ty qui định khác (Bộ luật Thương mại, Điều L.221-16). Việc một thành viên cũ ra khỏi công ty hay một thành viên mới vào công ty cũng đòi hỏi phải có sự nhất trí của tất cả các thành viên (Bộ luật Thương mại, Điều L.221-13).

Và cuối cùng, đây là công ty mà luật ít can thiệp và thay vào đó là sự tự do hợp đồng của các thành viên được luật trao cho một phạm vi rất rộng rãi.

5.1 Việc sử dụng công ty hợp danh

5.1.1 Việc sử dụng công ty hợp danh bởi thể nhân

Công ty hợp danh, như chúng ta đã thấy, là một cấu trúc khá rủi ro đối với các thành viên, đặc biệt là nếu chúng ta so sánh nó với công ty trách nhiệm hữu hạn. Người ta sẽ không bao giờ chọn công ty hợp danh để thực hiện chung một hoạt động chuyên nghiệp, trừ khi theo truyền thống như đối với các dược sĩ, hoặc trừ khi người ta không thể nào làm khác đi như những người bán lẻ thuốc lá. Thế nhưng, đâu là lý do khiến ngày nay người ta vẫn thành lập công ty hợp danh?

Trước hết là vì công ty hợp danh thể hiện được tính đảm bảo bí mật, bởi vì nó không phải nộp báo cáo tài chính cho thư ký tòa thương mại, trừ khi tất cả các thành viên là công ty trách nhiệm hữu hạn. Điều này không buộc họ phải phơi bày những tài sản nhạy cảm của mình.

Nhưng chính sự hấp dẫn về thuế mới là điều lý giải cho sự thành công của công ty hợp danh. Nếu như có sự minh bạch về thuế, công ty hợp danh sẽ không bị đóng thuế thu nhập doanh nghiệp; các thành viên phải đóng thuế tương ứng với phần lợi nhuận mà mình có được. Ngược lại, khi kết quả thua lỗ, mỗi thành viên chuyển vào báo cáo thu nhập của mình phần thua lỗ tương ứng của mình trong công ty. Trong một thời gian rất dài, những khoản lỗ từng loại có thể được khấu trừ trên tổng thu nhập. Vì lý do này, công ty hợp danh trở thành một công cụ kỳ diệu để đóng thuế ít hơn. Do vậy mà những người bị đánh thuế cao thường là thành viên của công ty hợp danh.

51.2 Việc sử dụng công ty hợp danh trong khuôn khổ các tập đoàn

Nếu trong sơ đồ tổ chức của các tập đoàn, người ta thấy có nhiều công ty hợp danh, đó là lý do thuế. Khi công ty con thua lỗ, nhờ vào tính minh bạch trong cấu trúc của nó, những khoản lỗ của công ty hợp danh được phép chuyển đến công ty mẹ. Từ cách đó, những khoản lỗ của công ty con được khấu trừ vào kết quả kinh doanh của công ty mẹ và do vậy, công ty mẹ sẽ đóng thuế ít hơn.

5.2 Thành lập công ty hợp danh

Để thành lập công ty hợp danh, số thành viên ít nhất phải là 2. Thành viên có thể là thể nhân hay pháp nhân. Vợ và chồng cũng có thể là các bên của cùng một công ty hợp danh. Các thành viên phải có đầy đủ tư cách thương nhân (Bộ luật Thương mại, Điều L.221 -1) và phải có năng lực hành vi để hành nghề thương mại. Do đó, người chưa thành niên, người đã thành niên nhưng bị mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự, dù có người giám hộ cũng không thể là thành viên của công ty hợp danh.

Về ngành nghề, về nguyên tắc, công ty hợp danh có thể hoạt động trong bất cứ ngành nghề nào, kể cả thương mại hay dân sự. Tuy nhiên, có một số ngành nghề bị cấm hoạt động dưới hình thức công ty này như: bảo hiểm và các nghề tự do được pháp luật điều chỉnh. Chẳng hạn, các bác sỹ và luật sư không thể hoạt động nghề nghiệp của mình trong khuôn khổ công ty hợp danh vì họ bị cấm, một cách trực tiếp hay gián tiếp, có tư cách thương nhân.

Luật không quy định một ràng buộc nào về vốn điều lệ đối với công ty hợp danh: không có vốn tối thiểu, không có thời hạn phong tỏa vốn, không cấm việc góp vốn bằng industrie. Trong loại hình công ty này, vốn điều lệ có chức năng phân chia quyền hạn cho các thành viên công ty hơn là để thực hiện bảo đảm sự cam kết cho các khoản nợ, vì trách nhiệm cá nhân của các thành viên đối với các khoản nợ này đã là sự bảo đảm tốt nhất.

Ngoài ra, các quy định khác liên quan đến quá trình thành lập các công ty nói chung cũng sẽ áp dụng cho công ty hợp danh. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý một đặc thù riêng của công ty hợp danh: Điều L.235 – 2 của Bộ luật Thương mại quy định rằng việc hoàn thành thủ tục đăng báo là bắt buộc và sự không hoàn thành nó có thể dẫn đến chế tài là công ty bị vô hiệu.

5.3 Người quản lý công ty hợp danh

5.3.1 Qui chế đối với người quản lý

Luật chứa đựng các quy định khá chi tiết về qui chế của người quản lý công ty hợp danh, nhưng những quy định này phần lớn chỉ đơn giản là để bổ sung trong trường hợp điều lệ công ty chưa có quy định. Điều đó có nghĩa là các thành viên có một sự tự do rất rộng rãi để tố chức công việc quản lý phù hợp.

Thật vậy, các thành viên sẽ chỉ định một hoặc nhiều người quản lý, hoặc là theo nguyên tắc nhất trí, hoặc là trên cơ sở đa số theo quy định trong điều lệ công ty. Không hề có một quy tắc bắt buộc trong việc chỉ định người quản lý và điều lệ sẽ tố chức việc quản lý theo ý muốn của các thành viên. Tất cả hình thức khác nhau đều có thể được:

- Các thành viên có thể chỉ định một hay nhiều người quản lý, nếu trong điều lệ không quy định thì tất cả các thành viên đều là người quản lý (Bộ luật Thương mại, Điều L.221 – 3, khoản 1);

- Người quản lý có thể là thành viên hay môt người thứ ba;

- Tên của người quản lý có thể được ghi trong điều lệ hoặc không;

- Người quản lý có thể là một thể nhân hay một pháp nhân. Trong trường hợp người quản lý là một pháp nhân, người lãnh đạo pháp nhân quản lý có những nghĩa vụ và trách nhiệm hình sự và dân sự như khi anh ta là người quản lý nhân danh chính mình;

- Người quản lý có thể là người Pháp hay người nước ngoài. Và trong cả hai trường hợp trên, người quản lý phải có thẻ thương nhân nếu công ty hành nghề một hoạt động chuyên nghiệp (professionel).

Cũng như tất cả các công ty khác, việc chỉ định hay chấm dứt chức vụ của người quản lý phải được thông báo đến Phòng đăng ký thương mại và doanh nghiệp.

Phương thức bãi nhiệm người quản lý thông thường do điều lệ quy định. Trong trường hợp điều lệ không quy định, Điều L.221 – 12 của Bộ luật Thương mại sẽ được áp dụng:

- Nếu tất cả thành viên là người quản lý, việc bãi nhiệm một người quản lý phải được quy định trên cơ

sở nhất trí của tất cả các thành viên khác. Điều đó kéo theo sự giải thể công ty, trừ khi điều lệ công ty hay các thành viên quy định khác (theo sự nhất trí). Người quản lý bị bãi nhiệm có thể quyết định rút khỏi công ty và yêu cầu bồi hoàn phần đóng góp của mình;

- Nếu việc quản lý được giao cho một hay nhiều thành viên được chỉ định trong điều lệ, qui tắc bãi nhiệm trên đây cũng được áp dụng;

- Nếu người quản lý là một thành viên không được chỉ định trong điều lệ, anh ta sẽ bị bãi nhiệm theo điều kiện được điều lệ quy định và điều này không kéo theo việc giải thể công ty. Trong trường hợp điều lệ không quy định, quyết định sẽ được thông qua trên cơ sở sự nhất trí của các thành viên khác;

- Nếu người quản lý không phải là thành viên, người này sẽ bị bãi nhiệm theo điều kiện do điều lệ công ty quy định. Nếu điều lệ công ty không quy định, thì sẽ quyết định theo đa số của các thành viên.

Người quản lý cũng có thể bị bãi nhiệm bởi Tòa án, theo yêu cầu của các thành viên, vì lý do chính đáng.

5.3.2 Quyền hạn của người quản lý

Trong quan hệ giữa các thành viên, nếu như trong điều lệ không có những quy định cụ thể về quyền hạn, người quản lý có thể thực hiện tất cả các hành vi quản lý trong lợi ích của công ty (Bộ luật Thương mại, Điều L.221 – 4). Trong quan hệ với người thứ ba, người quản lý sẽ không làm ràng buộc trách nhiệm của công ty nếu như những hành vi của anh ta không nằm trong ngành nghề của công ty. Nếu như có nhiều người quản lý thì mỗi người đều ràng buộc trách nhiệm công ty tương tự nhau. Do vậy, để tránh nhầm lẫn, khi ký kết hợp đồng với công ty, người ta cần phải xác minh tư cách của người quản lý và cả phạm vi ngành nghề của công ty.

5.3.3 Trách nhiệm của người quản lý

Trong trường hợp người quản lý vi phạm pháp luật, vi phạm điều lệ hay có sự sai sót trong quản lý, anh ta phải chịu trách nhiệm dân sự đối với công ty như người thứ ba. Về trách nhiệm hình sự, những tội đặc trưng về việc lạm dụng tài sản của công ty hay khai báo không trung thực về tài chính của công ty chỉ được viện dẫn trong các công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn. Người quản lý công ty hợp danh chỉ chịu trách nhiệm hình sự theo luật chung.

5.4 Thành viên công ty hợp danh

Điều nổi bật trước tiên của thành viên công ty hợp danh là trách nhiệm vô hạn và liên đới của họ. Về tính chất của trách nhiệm này tương tự như các thành viên hợp danh trong công ty hợp danh của Việt Nam. Tuy nhiên, pháp luật Pháp quy định rõ ràng hơn trong vấn đề thực thi trách nhiệm này. Khi công ty có một món nợ, hiển nhiên là chủ nợ phải yêu cầu công ty thanh toán trước tiên; nhưng nếu điều này không thành công, chủ nợ sẽ yêu cầu các thành viên (Bộ luật Thương mại, Điều L.221 – 1). Sau 8 ngày kể từ ngày chủ nợ gửi yêu cầu yêu cầu công ty thanh toán nợ mà công ty vẫn chưa thanh toán, chủ nợ có thể yêu cầu các thành viên thanh toán. Tính liên đới của trách nhiệm cho phép chủ nợ có thể yêu cầu bất kỳ thành viên nào của công ty thanh toán toàn bộ số nợ cho mình. Người “được lựa chọn” chỉ có thể phải thực hiện, không thể yêu cầu chủ nợ phải yêu cầu công ty cũng như không thể đòi chủ nợ chia yêu cầu đến tất cả các thành viên. Hơn nữa, khác với trong công ty dân sự, sự phá sản hay thanh lý tư pháp công ty dẫn đến sự phá sản hay thanh lý thành viên công ty (Bộ luật Thương mại, Điều 624 – 1).

Sau đó, người mà đã trả tất cả khoản nợ có thể quay lại yêu cầu công ty thanh toán lại, anh ta cũng có thể yêu cầu đến các đồng thành viên trong công ty và trong trường hợp này, các đồng thành viên khác phải hoàn lại số nợ cho người đã thanh toán theo tỷ lệ được quy định trong điều lệ công ty hoặc, nếu trong điều lệ công ty không quy định, theo tỷ lệ phần đóng góp vào vốn điều lệ (Bộ luật Dân sự, Điều 1844, khoản 1).

Về chế độ chuuyển nhượng phần vốn góp, phần vốn góp không thể chuyển nhượng được như cổ phần (Bộ luật Thương mại, Điều L.221 – 13). Việc chuyển nhượng sẽ tuân theo những quy định của điều lệ công ty như đối với công ty trách nhiệm hữu hạn.

5.5 Kiểm toán viên

Việc chỉ định kiểm toán viên nội bộ chỉ bắt buộc nếu công ty vượt qua những mức sàn quy định. Và ngay cả trong trường hợp những mức sàn này không đạt được, các thành viên vẫn có thể bổ nhiệm một hoặc nhiều kiểm toán viên để kiểm soát hoạt động tài chính công ty.

6. CÔNG TY HỢP VỐN ĐƠN GIẢN (Société en commandite simple)

Công ty hợp vốn đơn giản có nhiều khía cạnh tương tự như công ty hợp vốn cổ phần, nhưng nó có điểm khác biệt cơ bản với công ty này là ở chỗ vốn của nó không được đại diện bởi những chứng khoán có thể chuyển nhượng. Công ty hợp vốn đơn giản có thời thịnh hành dưới Chế độ cũ của Pháp2, nó cho phép một thương nhân có ý tưởng kinh doanh nhưng không có vốn được tận dụng phần vốn góp của thành viên góp vốn – người nắm giữ vốn nhưng không thể tự tiến hành các hoạt động thương mại do quy chế của mình, như quý tộc, tăng lữ, thẩm phán... Dưới sự lấn át của công ty cố phần và công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp vốn đã trở nên lỗi thời.

Thông thường, những công ty này được ra đời trên cơ sở chuyển đổi từ công ty hợp danh để có thể kết nạp người thừa kế của thành viên hợp danh đã chết làm thành viên hợp vốn do thừa kế này chưa thành niên (nên không có tư cách thương nhân và do vậy không thể là thành viên hợp danh.

Công ty hợp vốn đơn giản, giống như công ty hợp vốn cổ phần, là một công ty bất bình đẳng, cho phép hợp tác giữa những nhà kinh doanh (thành viên hợp danh) và nhà đầu tư (thành viên hợp vốn).

Thành viên hợp danh (có thể chỉ có 1 thành viên hợp danh duy nhất trong công ty), có địa vị pháp lý trương tự như thành viên hợp danh của công ty hợp danh. Họ phải có tư cách thương nhân, có quyền rất lớn trong việc quản lý công ty và phải chịu trách nhiệm vô hạn và liên đới đối với mọi khoản nợ của công ty. Ngược lại, thành viên góp vốn có một vị trí thứ hai trong công ty bởi lẽ họ gánh chịu ít rủi ro hơn. Họ không phải có tư cách thương nhân và trách nhiệm của họ chỉ giới hạn trong phạm vi vốn góp của mình. Và khác với trong công ty hợp vốn cổ phần, thành viên hợp vốn không phải là cổ đông côngty.

Như vậy, có thể nói, công ty hợp vốn đơn giản có bản chất giống như công ty hợp danh mà trong đó có thành viên góp vốn theo Luật Doanh nghiệp năm 1999 của Việt Nam.

CÁC BẠN ĐỌC PHẦN 1 BÀI THEO LINK SAU: http://thongtinphapluatdansu.wordpress.com/2008/02/19/cc-loẠi-hnh-doanh-nghiỆp-phỔ-biẾn-Ở-php/

Chú thích:

1 Giả định này không phải chỉ nằm trên lý thuyết: Ví dụ, như bản án của Tòa phúc thẩm Renné, ngày 08/01/1992.

2 Chế độ cũ (Ancien Régime): từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII, chỉ giai đoạn từ lúc phục hồi quyền lực hoàng gia dười thời Louis XI (1461-1483) và Cách mạng Pháp (1789-1799). Xem thêm: http://www.hku.hk/french/dcmScreen/lang2044/histoire_ancienregime.htm

SOURCE: TẠP CHÍ KHOA HỌC PHÁP LÝ SỐ 5/2006

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Bài đăng phổ biến