ThS. PHAN THỊ THÀNH DƯƠNG - Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh
Đến nay cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO (DSB) thực sự trở thành một trong những định chế quyền lực trên thế giới - nhiều phán quyết của cơ quan này đã buộc các bên phải tuân thủ. Riêng đối với các nước đang phát triển, cơ chế giải quyết tranh chấp được áp dụng nguyên tắc đối xử đặc biệt. Điểm chính của cơ chế đặc biệt là các nước đang phát triển có quyền yêu cầu Tổng giám đốc WTO làm trung gian hoà giải, có quyền yêu cầu đại diện một nước đang phát triển trong nhóm chuyên gia xem xét vụ việc, thời gian xem xét có thể kéo dài hơn và có quyền yêu cầu Ban thư ký WTO trợ giúp pháp lý. Chính vì thế, trong những năm gần đây các nước đang phát triển đã sử dụng nhiều hơn cơ chế này.
Điều đó có thể nhận thấy trong số 352 vụ tranh chấp đã được đưa ra giải quyết tại WTO, thì có đến 179 vụ kiện liên quan đến Mỹ (bị kiện 95 vụ), tiếp theo sau là khối EC liên quan đến 130 vụ (bị kiện 54 vụ). Các nước phát triển khởi kiện khoảng hơn 120 vụ. Như vậy là các nước lớn hay nhỏ đều có quyền được kiện và có thể bị kiện như nhau. Các phán quyết của DBS không vì thế mà mất đi tôn chỉ đảm bảo quyền lợi chính đáng cho các nước thành viên, tạo điều kiện cho các bên đàm phán đạt được thỏa thuận thích hợp theo thỏa thuận chung.
Có thể dẫn ra một số vụ kiện điển hình làm minh chứng cho sự công minh trong phán xét của DSB. Như vụ Venezuela kiện Mỹ vào ngày 23/1/1995 về việc phân biệt đối xử đối với xăng dầu nhập khẩu từ Venezuela theo Luật Clean Air của Mỹ được sửa đổi năm 1990. Tiếp đó tháng 4/1995, Brazil cũng đệ đơn lên DSB kiện Mỹ về vấn đề này. Theo đó, Venezuela và Brazil cho rằng Mỹ áp dụng những quy định nghiêm ngặt về thành phần hóa học đối với xăng dầu nhập khẩu so với xăng dầu được tinh lọc trong nội địa, như thế là không công bằng vì xăng dầu của Mỹ cũng không đáp ứng được tiêu chuẩn này. Điều này vi phạm nguyên tắc đối xử quốc gia (NT) và không thể được xem là ngoại lệ theo quy định thông thường của WTO về sức khỏe và môi trường. Hội đồng giải quyết tranh chấp đồng ý với luận điểm của Venezuela và Brazil. Kết quả là Mỹ đã buộc phải đồng ý sửa đổi quy định này trong vòng 15 tháng, đến ngày 26/8/1997 thì Mỹ ban hành quy định mới.
Một vụ kiện khác vào tháng 11/2000 liên quan đến quy định về chống bán phá giá giữa Ấn độ và Mỹ về mặt hàng thép nhập khẩu từ Ấn độ. Theo đó Ấn cho rằng mặt hàng lá thép của mình hợp tiêu chuẩn của Mỹ, nhưng đã bị áp dụng quy định về thuế chống bán phá giá và thuế nhập khẩu bổ sung do kết quả điều tra của Phòng thương mại Mỹ (DOC) là chưa phù hợp với quy định tại Điều 6, 10 của GATT 1994, điều 1,2,3,5,6,12,15,18 và Phụ lục số 2 của Thỏa thuận về chống bán phá giá , điều 18 của Thỏa thuận WTO. Sau khi xem xét hội đồng giải quyết tranh chấp yêu cầu Mỹ phải đưa ra những tiêu chuẩn tuân thủ theo những nghĩa vụ quy định tại Thỏa thuận chống bán phá giá. Kết quả là các bên đã đạt được thỏa thuận bổ sung tuân thủ các phán quyết của hội đồng, cũng như cam kết của các bên.
Ngược lại, cũng có khá nhiều vụ kiện mà nước bị kiện là nước đang phát triển. Các vụ kiện mang mã số WT/DS54, WT/DS55 and WT/DS64 là ví dụ. Trong đó Indonesia bị EC, Nhật và Mỹ kiện lên BSD về việc Indonesia đã áp dụng quy định miễn giảm thuế quan và thuế tiêu thụ đặc biệt đối với việc nhập khẩu xe có động cơ nội địa hóa và linh kiện. Phía khởi kiện cho rằng Indonesia vi phạm nghĩa vụ theo quy định tại Điều I, III của GATT 1994, Điều 2 của Thỏa thuận về TRIMs, điều 3 thỏa thuận SCM. Nhật cho rằng Indonesia vi phạm Điều I.1,III.2, III.4 và điều X.3a của GATT 1994, Điều 2, 5.4 thỏa thuận TRIMs. Theo Mỹ, Indonesia cũng vi phạm điều I,II của GATT 1994, Điều 2 Thỏa thuận TRIMs, Điều 3,6,28 Thỏa thuận SCM và Điều 3,20,65 của thỏa thuận TRIPs. Hội đồng giải quyết tranh chấp đã xác định rằng Indonesia vi phạm Điều I,II.2 của GATT 1994, Điều 2 Thỏa thuận TRIMs, Điều 5c Thỏa thuận SCM nhưng không vi phạm Điều 28.2 Thỏa thuận SCM, nhưng phía khởi kiện đã không chứng minh được Indonesia vi phạm Điều 3 và 65.5 của thỏa thuận TRIPs. Indonesia chấp thuận tuân thủ những khuyến nghị của DBS trên cơ sở đó ngày 24/6/1999 Indonesia đã ban hành chính sách mới về ngành Ôtô.
Thực tế cho thấy, giữa các nước đang phát triển, hay các nước phát triển nếu có tranh chấp thương mại cũng dùng cơ chế này để giải quyết. Chẳng hạn như vụ Achentina kiện Chi lê về quy định tự vệ áp dụng đối với sản phẩm sữa ngày 25/10/2006. Hay như vụ EC kiện Mỹ và Canada về việc quy kết nghĩa vụ của EC đối với thực phẩm biến đổi gen.
Như vậy cơ chế giải quyết tranh chấp trong WTO là nơi bảo vệ những quyền lợi chính đáng, phù hợp với những quy định cuả hiệp định và thoả thuận trong WTO cho tất cả các nước thành viên khi xảy ra những tranh chấp thương mại ở nhiều góc độ như thuế quan, chất lượng hàng hóa, phân biệt đối xử, phá giá, tự vệ, trademark... Được bình đẳng trong cơ chế giải quyết tranh chấp WTO là cơ hội để Việt nam hoàn thiện cơ chế, chính sách thương mại của mình, tăng cường uy tín về chất lượng, giá cả hàng hóa-dịch vụ, mặt khác hỗ trợ Việt nam trong bảo vệ quyền lợi thương mại chính đáng trên thương trường quốc tế.
SOURCE: Báo Pháp luật Việt Nam, Chuyên đề số 2 tháng 12/2007
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét