Từ sau Cách mạng Tháng tám 1945, quá trình xây dựng Nhà nước Việt Nam đã trải qua hơn 60 năm với nhiều giai đoạn phát triển đặc thù. Ngày nay, quá trình đó đang được phát triển ở một tầm cao mới, với nhiều đòi hỏi và nhu cầu cải cách mới. Trong Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX (2001), Đảng ta đã xác định phải tiếp tục đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của Nhà nước, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế. Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân được Đảng ta đặt ra như một nhiệm vụ chiến lược quan trọng trong thời kỳ tiếp tục đổi mới đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đại hội Đảng lần thứ X cũng đã chỉ rõ: “Đẩy nhanh công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN trên các mặt: Hệ thống thể chế, chức năng, nhiệm vụ; tổ chức bộ máy; cán bộ, công chức; phương thức hoạt động”*. Để biến Nghị quyết của Đảng thành hiện thực sinh động trong đời sống xã hội, chúng ta hãy cùng nhìn lại những gì đã làm được trên lĩnh vực nghiên cứu lý luận và trong hoạt động thực tiễn, từ đó đi đến giải quyết vấn đề đặt ra một cách hiệu quả nhất.
Những thành tựu
Đối với Việt Nam, vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền đang được đặt ra như một tất yếu lịch sử và tất yếu khách quan
Tính tất yếu lịch sử của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền của Việt Nam bắt nguồn từ chính lịch sử xây dựng và phát triển của Nhà nước ta. Ngay từ khi thành lập và trong quá trình phát triển, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã và luôn là một nhà nước hợp hiến, hợp pháp. Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở các quy định của Hiến pháp, pháp luật và luôn vận hành trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật. Các đạo luật tổ chức của Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân và các đạo luật về chính quyền địa phương được xây dựng trên cơ sở các Hiến pháp năm 1946, năm 1959, năm 1980 và năm 1992. Những lần Hiến pháp được sửa đổi và thông qua là những bước củng cố cơ sở pháp lý cho tổ chức và hoạt động của bản thân các cơ quan nhà nước. Vì vậy, có thể nói, quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền của Việt Nam là một quá trình lịch sử được bắt đầu ngay từ Tuyên ngôn độc lập năm 1945 và Hiến pháp năm 1946. Quá trình này đã trải qua hơn nửa thế kỷ và đang được tiếp tục trong thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước.
Tính tất yếu khách quan của việc xây dựng nhà nước pháp quyền của Việt Nam xuất phát từ định hướng XHCN mà mục tiêu cơ bản là xây dựng một chế độ xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Chúng ta ý thức sâu sắc rằng, để xây dựng được một chế độ xã hội với những mục tiêu như vậy thì công cụ, phương tiện cơ bản chỉ có thể là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và một nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Tính tất yếu khách quan ấy còn xuất phát từ đặc điểm của thời đại với xu hướng toàn cầu hóa. Nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục đẩy mạnh cải cách nhà nước, cải cách pháp luật, bảo đảm cho Nhà nước ta không ngừng vững mạnh, có hiệu lực để giải quyết có hiệu quả các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện dân chủ, củng cố độc lập, tự chủ và hội nhập vững chắc vào đời sống quốc tế.
Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân của Việt Nam là một nhà nước vừa phải thể hiện được các giá trị phổ biến của nhà nước pháp quyền đã được xác định trong lý luận và thực tiễn của một chế độ dân chủ hiện đại, vừa khẳng định được bản sắc, đặc điểm của riêng mình
Sự khác nhau cơ bản giữa nhà nước pháp quyền tư sản và nhà nước pháp quyền XHCN nói chung, trong đó có Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam nói riêng, đã được khái quát trên các mặt chính sau đây:
Một là, cơ sở kinh tế của nhà nước pháp quyền XHCN là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Tính định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường không phủ nhận quy luật khách quan của thị trường mà là cơ sở để xác định sự khác nhau giữa kinh tế thị trường trong CNTB và kinh tế thị trường trong CNXH. Do vậy, đặc tính của nền kinh tế thị trường XHCN tạo ra sự khác nhau giữa nhà nước pháp quyền tư sản và nhà nước pháp quyền XHCN.
Hai là, cơ sở chính trị của nhà nước pháp quyền XHCN là chế độ dân chủ nhất nguyên. Tính nhất nguyên chính trị được thể hiện trong việc khẳng định vai trò lãnh đạo của một đảng duy nhất cầm quyền ở Việt Nam. Bản chất của một nền dân chủ không lệ thuộc vào chế độ đa đảng hay chế độ một đảng, mà lệ thuộc vào chỗ đảng cầm quyền đại diện cho lợi ích của ai, sử dụng quyền lực nhà nước vào những mục đích gì trên thực tế. Vì vậy, điều kiện để xây dựng nhà nước pháp quyền không thể là chế độ đa đảng hay chế độ một đảng và không thể coi đó là căn cứ để đánh giá tính chất và trình độ của một nền dân chủ. Sự lãnh đạo của Đảng cộng sản - đảng duy nhất cầm quyền đối với đời sống xã hội và đời sống nhà nước không những không trái với bản chất nhà nước pháp quyền nói chung mà còn là điều kiện có ý nghĩa tiên quyết đối với quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân của nước ta.
Ba là, cơ sở xã hội của nhà nước pháp quyền XHCN là khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Với khối đại đoàn kết toàn dân tộc, nhà nước pháp quyền có được cơ sở xã hội rộng lớn và khả năng to lớn trong việc tập hợp, tổ chức các tầng lớp nhân dân thực hành và phát huy dân chủ. Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN tuy không loại bỏ được sự phân tầng xã hội theo hướng phân hoá giàu nghèo, nhưng có khả năng xử lý tốt hơn mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng xã hội. Những mâu thuẫn xã hội phát sinh trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường do được điều tiết thông qua pháp luật, chính sách và các công cụ khác của nhà nước nên ít có nguy cơ trở thành các mâu thuẫn đối kháng và tạo ra các xung đột có tính chất chia rẽ xã hội. Đây là một trong những điều kiện để bảo đảm ổn định chính trị, đoàn kết các lực lượng xã hội vì mục tiêu chung của sự phát triển. Nhờ vậy, nhà nước pháp quyền XHCN có được sự ủng hộ rộng rãi từ phía xã hội, nguồn sức mạnh từ sự đoàn kết toàn dân, phát huy được sức sáng tạo của các tầng lớp dân cư trong việc thực hiện dân chủ.
Những vấn đề cần giải quyết
Để xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nước ta hiện nay, một trong những nhiệm vụ quan trọng và cấp thiết là chúng ta phải sớm xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Nhu cầu đổi mới tư duy pháp lý đã được đặt ra trong giai đoạn loại bỏ cơ chế pháp lý của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp, xây dựng cơ chế pháp lý cho thể chế kinh tế mới. Ngày nay, một lần nữa nhu cầu đổi mới tư duy pháp lý lại được đặt ra với tính cấp thiết mạnh mẽ, kiên quyết hơn, phù hợp với giai đoạn phát triển mới của đất nước. Tư duy pháp lý mới có thể được phác thảo trên những nét chính sau đây:
Xác định và quán triệt cơ sở lý thuyết cho mô hình luật pháp nước ta trong giai đoạn phát triển đến năm 2010 và giai đoạn tiếp theo
Điều này có nghĩa là chúng ta cần nhanh chóng xác định mô hình luật pháp của nước ta được xây dựng theo lý thuyết nào. Dĩ nhiên, chúng ta không thể áp dụng một cách máy móc các mô hình lý thuyết hiện đang được áp dụng ở các quốc gia trên thế giới. Nhưng chúng ta cũng không thể không tính đến sự ảnh hưởng và chi phối của các lý thuyết này đối với sự vận động của đời sống pháp luật hiện đại. Vì vậy, việc nghiên cứu xây dựng các cơ sở lý thuyết cho mô hình luật pháp của nước ta cần đặt trong mối quan hệ giữa hai yếu tố: Dân tộc và hiện đại.
Cần có các nghiên cứu tổng kết kinh nghiệm lịch sử của các thế hệ người Việt Nam trong tiến trình xây dựng và thực thi các thể chế pháp lý. Các kinh nghiệm xây dựng và thi hành pháp luật trong các giai đoạn lịch sử cho thấy các thế hệ người Việt Nam khá thành công trong việc tiếp thu các giá trị pháp lý nước ngoài, làm nên một bản sắc pháp lý Việt Nam. Xin hãy lấy Quốc triều hình luật thời Lê (Bộ luật Hồng Đức) để suy ngẫm. Bộ luật Hồng Đức, theo đánh giá của sử gia Phan Huy Chú: “Thật là cái mẫu mực để trị nước, các khuôn phép để buộc dân”. Điều cần nhấn mạnh là, mặc dù chịu ảnh hưởng của tư tưởng pháp lý và các quy tắc pháp luật của Trung Hoa thời phong kiến, nhưng Bộ luật Hồng Đức vẫn là bộ luật của người Việt Nam, là sản phẩm văn hóa của người Việt Nam, chứ không phải là sự sao chép máy móc pháp luật của nhà Đường hay nhà Minh. Trong lịch sử, dân tộc ta đã rất thông minh và chủ động trong việc tiếp thu pháp luật nước ngoài để cách tân đất nước. Ngày nay, chúng ta vẫn cần tiếp thu có chọn lọc các giá trị pháp luật nước ngoài một cách chủ động để tiếp tục củng cố và phát triển đất nước.
Nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế trong bối cảnh toàn cầu hoá, bảo đảm sự tương thích của pháp luật quốc gia với các không gian pháp lý có tính quốc tế đang đòi hỏi chúng ta cần phải đẩy mạnh việc đổi mới công tác lập pháp
Một là, đổi mới công tác kế hoạch lập pháp. Kế hoạch xây dựng luật nếu chỉ được tiến hành trên cơ sở đề xuất của các cơ quan hữu quan để tập hợp, cân đối và thông qua sẽ không thể khắc phục được tình trạng không hoàn thành kế hoạch vì không ít dự án luật được đăng ký theo kiểu “giữ chỗ” và trên thực tế, rất khó xây dựng do chưa xác định được đầy đủ tính chất, mục tiêu, đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh. Sự đăng ký văn bản theo kiểu “ghi danh” đã không ràng buộc một cách chặt chẽ trách nhiệm của cơ quan đề xuất dự luật. Để khắc phục tình trạng này, nên chăng, thay vì xây dựng và thông qua kế hoạch xây dựng luật hàng năm và 5 năm thường lệ, Quốc hội chỉ cần thông qua các sáng kiến pháp luật. Cá nhân, cơ quan (theo quy định của pháp luật) nêu sáng kiến pháp luật có trách nhiệm lập luận các căn cứ về sự cần thiết của mục tiêu, đối tượng cần điều chỉnh và tính khả thi của công tác xây dựng văn bản; trên cơ sở đó, Quốc hội thảo luận, thông qua và giao trách nhiệm xây dựng dự thảo cho các cơ quan, tổ chức và cá nhân phù hợp. Hiện nay, nước ta đã gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), công tác xây dựng luật của nước ta trở nên rất khẩn trương, không những phải xây dựng các đạo luật mới đáp ứng yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ mới mà còn phải rà soát lại toàn bộ luật pháp của nước ta để có thể bổ sung, hoàn thiện nhằm đảm bảo sự tương thích của pháp luật nước ta với không gian pháp lý có tính quốc tế theo nguyên tắc: Nhà nước cộng hòa XHCN Việt Nam tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế đã ký kết hoặc tham gia.
Hai là, thay đổi quan niệm về quy mô các đạo luật. Thực tiễn xây dựng luật ở nước ta thời gian qua cho thấy, các đạo luật được xây dựng và thông qua phần nhiều đều có dung lượng khá lớn, các quy phạm và đối tượng điều chỉnh cũng khá lớn. Do vậy, thời gian xây dựng luật phải kéo dài. Để khắc phục tình trạng này, thay vì xây dựng và thông qua các đạo luật có quy mô lớn, nên tập trung xây dựng và thông qua các đạo luật có quy mô điều chỉnh hẹp. Một đạo luật với ít điều khoản sẽ được nhanh chóng xây dựng, đáp ứng kịp thời các nhu cầu điều chỉnh pháp luật, dễ dàng tương thích với không gian pháp lý quốc tế. Tính hữu ích của một đạo luật ít điều khoản không chỉ thể hiện ở sự gọn nhẹ về nội dung, dễ xây dựng, mà còn thể hiện ở việc dễ kiểm soát tính đồng bộ và thống nhất, dễ sửa đổi khi có nhu cầu và dễ áp dụng trên thực tế.
Ba là, tăng cường lắng nghe và tiếp thu ý kiến của nhân dân đóng góp xây dựng các dự thảo luật. Các dự thảo luật một khi được xây dựng ngắn gọn, ít điều khoản sẽ rất dễ dàng cho nhân dân tiếp cận. Sự tham gia đóng góp ý kiến xây dựng pháp luật của đông đảo các tầng lớp nhân dân là điều kiện quan trọng để pháp luật phản ánh đúng ý chí, nguyện vọng của nhân dân, bảo đảm cho pháp luật thật sự là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Cần quy định, việc lấy ý kiến của nhân dân đối với các dự án luật là điều kiện bắt buộc trong quá trình xây dựng dự thảo luật. Đặc biệt, việc tiếp thu ý kiến của nhân dân vào các dự thảo luật phải được thông báo công khai, minh bạch. Có như vậy, nhân dân mới cảm thấy ý kiến của mình được tôn trọng, củng cố được niềm tin của nhân dân vào pháp luật; mặt khác, khi đã được ban hành, luật sẽ nhanh chóng đi vào cuộc sống và phát huy hiệu quả.
* Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, trang 253.
==============================
NGUYỄN DUY QUÍ/ TẠP CHÍ HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC SỐ 7/2007
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét