Thứ Hai, 17 tháng 9, 2007

Tiếp nhận pháp luật nước ngoài: lý thuyết và thực tiễn trong pháp luật công ty Việt Nam

Lịch sử nhân loại đã chứng kiến nhiều sự tiếp nhận pháp luật nước ngoài để phục vụ cho cải cách và phát triển. Tư tưởng, các quy tắc pháp luật phương Đông và phương Tây cũng đã được vay mượn trong thực tiễn pháp luật của Việt Nam. Công cuộc đổi mới, mà đặc biệt là nhu cầu hội nhập hiện nay của nước ta đòi hỏi nhiều hơn ở việc vay mượn pháp luật nước ngoài. Tuy nhiên, cho đến nay ở Việt Nam, các công trình nghiên cứu về vấn đề này ở còn quá ít ỏi[1]. Bài viết này phân tích lý thuyết hiện đại của việc tiếp nhận pháp luật nước ngoài và mấy vấn đề thực tiễn ở Việt Nam, chủ yếu trong lĩnh vực luật công ty.

I. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn tiếp nhận pháp luật nước ngoài

1. Khoảng nửa thế kỷ gần đây, bên cạnh các nghiên cứu về luật so sánh, khoa học pháp lý thế giới còn chứng kiến sự xuất hiện của các lý thuyết và sự tranh luận về sự cấy ghép pháp luật (legal transplant) hay sự vay mượn pháp luật (legal borrowing) - theo cách gọi thông dụng ở nước ta là “tiếp nhận pháp luật nước ngoài”.

Cấy ghép pháp luật được hiểu là quá trình “di chuyển” của các quy tắc pháp lý hay các chế định pháp luật (hoặc có thể là các học thuyết pháp lý) từ nước này sang nước khác trong quá trình làm luật và cải cách pháp luật[2]. Sự di chuyển này thể hiện ở việc các quy tắc, chế định, học thuyết pháp lý của nước A được nước B tiếp nhận và đưa vào hệ thống pháp luật của mình. Việc tiếp nhận có thể thực hiện ở nhiều cấp độ: quy tắc đơn lẻ, một chế định, một nguyên tắc pháp lý và thậm chí, cả cấu trúc pháp luật.

2. Tính có thể (possibility) của việc tiếp nhận pháp luật nước ngoài đã được tranh luận khá nhiều trong giới khoa học pháp lý thế giới. Từ mấy thế kỷ trước, nhà tư tưởng nổi tiếng người Pháp Montesquieu đã cho rằng, pháp luật của mỗi quốc gia gắn liền với điều kiện tự nhiên, xã hội và con người của quốc gia đó, cho nên nó không thể “sống” trong một môi trường khác[3]. Ông không thừa nhận khả năng của việc tiếp nhận pháp luật nước ngoài. Song, thực tiễn đã chứng minh rằng, quan niệm này không thuyết phục cả về phương diện lý luận lẫn thực tiễn. Trong thế kỷ 20, những học giả hàng đầu trên thế giới đã lên tiếng ủng hộ hoặc phản đối lý thuyết vay muợn pháp luật, như các giáo sư Alan Watson, Otto Kahn-Freund, Pierre Legrand[4]. Giáo sư A. Watson đánh giá cao vai trò của cấy ghép pháp luật trong sự phát triển của một hệ thống pháp luật. Luận điểm cơ bản của A. Watson là các quy tắc pháp luật có thể dễ dàng được tiếp nhận ở một quốc gia khác, cho dù không có một nền tảng thiết chế xã hội tương đồng. Ngược lại, giáo sư Legrand dựa trên quan niệm của Montesquieu phủ nhận khả năng của sự tiếp nhận pháp luật; ông cho rằng sự vay mượn pháp luật là không thể (impossibility)[5]. Còn Kahn-Freund thì nhìn nhận việc tiếp nhận pháp luật nước ngoài một cách thận trọng. Luận điểm cơ bản của giáo sư Kahn-Freund là: (i) có mối liên hệ chặt chẽ giữa luật và các yếu tố chính trị, tư tưởng, văn hóa của mỗi quốc gia và (ii) việc tiếp nhận pháp luật nước ngoài là có thể thực hiện được trong sự cân nhắc các yếu tố nhất định[6]. Quan điểm của ông được nhiều nhà khoa học ủng hộ và có ảnh hưởng nhất định trong các nghiên cứu về vay mượn pháp luật trên thế giới.

3. Lịch sử đã chứng kiến nhiều sự tiếp nhận pháp luật nước ngoài ở tất cả các châu lục. Chẳng hạn, Bộ luật dân sự Napoleon 1804 của người Pháp đã được phát triển từ sự vay mượn nhiều quy tắc pháp lý của luật La mã (Roman law) để rồi sau đó, nhiều nước châu Âu lại vay mượn Bộ luật nổi tiếng này để xây dựng hệ thống pháp luật dân sự của mình[7]. Trong thế kỷ 18-19, pháp luật châu Âu đã theo các đoàn quân viễn chinh của đế quốc Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hà Lan đến “cắm rễ” ở các châu lục khác. Vì thế, chẳng có gì ngạc nhiên khi mà hầu hết các thuộc địa đã chịu ảnh hưởng sâu sắc của pháp luật châu Âu. Hệ thống pháp luật kiểu Anh (English law) đã trở thành hình mẫu pháp luật của các thuộc địa Anh như: Mỹ, úc, Niu Di-lân, Sin-ga-po, ấn Độ, Pa-ki-stan,.. để có hệ thống common law (thông luật) như hiện nay. Những cuộc xâm lược, chiếm đóng đã đưa đến sự cấy ghép pháp luật cưỡng bức vào quốc gia tiếp nhận.

Song, thế giới cũng chứng kiến những sự tiếp nhận pháp luật nước ngoài một cách tự nguyện để phát triển. Nhật Bản là một ví dụ điển hình về sự vay mượn rất thành công pháp luật nước ngoài. Từ thời Minh Trị duy tân cuối thế kỷ 19, người Nhật đã học tập và vay mượn pháp luật của người Pháp, người Đức, người Mỹ. Chúng ta có thể thấy “hình dáng” truyền thống pháp luật của cả civil law (dân luật) và common law (thông luật) của Pháp, Đức, Hoa Kỳ trong hệ thống pháp luật hiện hành của Nhật Bản. Sự vay mượn pháp luật thành công của người Nhật được coi là một trong các yếu tố tạo nên sự phát triển thần kỳ của đất nước này trong hơn một thế kỷ qua[8].

II. Thực tiễn tiếp nhận pháp luật nước ngoài ở Việt Nam

Lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam đã chứng kiến những sự tiếp nhận pháp luật nuớc ngoài quy mô lớn, khi bị cưỡng ép, khi thì tự nguyện. Trước hết, là sự tiếp nhận pháp luật Trung Hoa trong lịch sử của các triều đại phong kiến Việt Nam. Sau một ngàn năm bị cai trị bởi người láng giềng khổng lồ có nền văn minh lâu đời, việc tiếp nhận pháp luật phong kiến Trung Hoa, hệ tư tưởng và các quy tắc pháp luật Trung Hoa vào Việt Nam của các triều đại phong kiến nước ta cũng là điều dễ hiểu[9].

Cha ông chúng ta đã học lấy cái hay, gạn cái dở và sáng tạo thêm để làm cho sự tiếp nhận đó phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam. Bộ luật Hồng Đức của nhà Lê, một đạo luật đậm đà bản sắc Việt Nam, được các nhà nghiên cứu nước ngoài đánh giá cao, đã được thiết kế khác với người Trung Quốc. Có 6 chương trong tổng số 13 chương của nó khác với luật Trung Hoa, và chỉ có 314 trong tổng số 722 điều của bộ luật này được vay mượn từ bộ luật nhà Đường và nhà Minh[10]. Sự vay mượn pháp luật phong kiến và lý thuyết cai trị của người Trung Quốc để xây dựng đất nước của cha ông ta là một sự lựa chọn tỉnh táo và rất khoa học. Bởi lẽ, (i) gần như cả thế giới đều phải thừa nhận rằng, nền văn minh Trung Hoa đã xuất hiện rất sớm trong lịch sử và có nhiều tính trội, tính ưu việt so với nhiều quốc gia khác; chế độ phong kiến Trung Quốc cũng cường thịnh hàng đầu thế giới, thì việc học của kẻ hay lại là sự lựa chọn tỉnh táo; (ii) về thực tiễn, sự vay mượn đó là một yếu tố giúp các triều đại phong kiến Việt Nam lớn mạnh, đủ sức đánh bại các cuộc xâm lăng của chính người Trung Hoa và mở mang bờ cõi xuống phía nam.

Quá trình du nhập pháp luật phương Tây vào Việt Nam theo đoàn quân viễn chinh Pháp từ cuối thế kỷ thứ 19 lại là một quá trình cưỡng bức. Với chế độ cai trị hà khắc phục vụ mục đích bóc lột, những tư tưởng và quy tắc pháp lý tiến bộ mang tính dân chủ, nhân văn của phương Tây đã không được mang đến cho người Việt Nam. Và có lẽ cũng vì thế mà người Pháp đã không mấy thành công khi áp dụng pháp luật của họ vào Việt Nam. Cho đến khi họ phải cay đắng rời khỏi đất nước này, thì tuyệt đại đa số người dân Việt Nam chưa có cơ hội để biết đến nền văn minh pháp lý phương Tây, mà còn lại chỉ là nỗi đau bị bóc lột, áp bức bởi kẻ xâm lược.

Từ những năm 60 của thế kỷ trước, các tư tưởng, học thuyết, quy tắc pháp lý xã hội chủ nghĩa từ Liên Xô, Cộng hoà dân chủ Đức và một vài nước xã hội chủ nghĩa khác, cũng đã được tiếp nhận tự nguyện vào Việt Nam, nhằm mục tiêu xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa. Những chuyên gia pháp luật được đào tạo ở Đông Âu cũng đã có đóng góp trong việc truyền bá, cấy ghép pháp luật của các nước xã hội chủ nghĩa châu Âu, mà chủ yếu là của Liên bang Xô Viết, vào Việt Nam thông qua quá trình làm luật, áp dụng pháp luật và đào tạo pháp luật. Tuy nhiên, chúng ta đã từng tiếp nhận một cách máy móc pháp luật Xô Viết vào nước Việt Nam nghèo nàn, lạc hậu, thiếu thốn mọi thứ trong và sau chiến tranh. Chúng ta đã từng tiếp thu nền pháp luật Xô Viết để xây dựng bản Hiến pháp 1980 đầy tính tư duy bao cấp, giáo điều… để rồi, nhiều quy tắc hiến định đã chỉ đơn thuần là lời tuyên ngôn trong văn bản mà không có tính thực tiễn.

Sự sụp đổ của chế độ XHCN ở châu Âu đã buộc các nước này phải đi tìm và vay mượn pháp luật phương Tây để xây dựng cấu trúc chính trị - kinh tế - xã hội mới. Người Nga cũng đã phải cậy nhờ đến các giáo sư Hoa Kỳ để xây dựng luật công ty của họ, dù không mấy thành công. ở Việt Nam, từ khi bắt đầu công cuộc đổi mới đã có những thay đổi lớn lao trong việc tiếp nhận pháp luật nước ngoài, đặc biệt là trong lĩnh vực pháp luật kinh doanh.

III. Sự tiếp nhận pháp luật nước ngoài trong lĩnh vực luật công ty

1. Nếu như các mô hình công ty đã xuất hiện từ thời trung cổ ở châu Âu và các đạo luật thành văn về công ty đã ra đời ở nhiều nước châu Âu từ thế kỷ 17 - 18[11], thì ở nước ta, mô hình công ty và pháp luật công ty chưa xuất hiện trước khi Việt Nam trở thành thuộc địa của người Pháp vào cuối thế kỷ 19. Cùng với luật dân sự và thương mại, người Pháp đã mang luật công ty của họ vào Việt Nam như một sự cấy ghép pháp luật cưỡng bức trong điều kiện bóc lột và phân biệt đối xử hà khắc của kẻ xâm lược với người bị thống trị. Vì thế, chỉ một bộ phận rất nhỏ các nhà kinh doanh ở các đô thị lớn, mà chủ yếu là người nước ngoài, mới được biết đến luật công ty thời Pháp thuộc. Những quy định về công ty trong Dân luật thi hành tại các Tòa Nam án Bắc kỳ 1931 và Bộ luật Thương mại Trung kỳ 1942 đều là những bản sao của luật công ty Pháp[12]. Những quy định này được chế độ Sài Gòn tiếp tục áp dụng cho đến khi Bộ luật Thương mại Sài Gòn 1972 được Nguyễn Văn Thiệu ban hành có hiệu lực. Song, các quy định về công ty trong Bộ luật này vẫn là sự phát triển các quy định về công ty thời Pháp thuộc.

2. Từ khi đổi mới, đã có ba luật về công ty được ban hành là: Luật Công ty năm 1990, Luật Doanh nghiệp (Luật DN) năm 1999 và Luật DN năm 2005. Có thể nói, lĩnh vực luật về công ty là một điển hình về thành công, ít nhất là cho đến bây giờ, của việc tiếp nhận pháp luật nước ngoài. Luật công ty năm 1990 có nhiều hạn chế do được ban hành trong những năm đầu của công cuộc đổi mới, nhưng nó vẫn chịu ảnh hưởng của luật công ty Pháp[13]. Song, Luật DN năm 1999 và Luật DN năm 2005 đã có sự phát triển vượt bậc về chất lượng, một phần là do kết quả của việc tiếp thu pháp luật nước ngoài. Thành công của Luật DN năm 1999 đã được chứng minh qua thực tiễn. Chúng ta thấy trong Luật DN năm 1999 và Luật DN năm 2005 những quy tắc pháp lý của luật công ty Đức - một trường phái luật điển hình của châu Âu và của mô hình luật công ty Anh - Mỹ[14]. Cũng chẳng có gì ngạc nhiên vì trên thực tế, trường phái luật công ty Đức và Hoa Kỳ vẫn được coi là điển hình và là nguồn cung cấp cho các cuộc cải cách luật công ty của nhiều nước trên thế giới. Có nhiều lý do để lý giải cho việc tiếp nhận này, mà chủ yếu là từ nhóm các nhà soạn thảo và chuyên gia tư vấn cho việc soạn thảo các đạo luật này với mục tiêu thúc đẩy tự do kinh doanh, đổi mới hơn nữa và hội nhập. Trong số các chuyên gia tư vấn nước ngoài, đáng chú ý là các chuyên gia đến từ Tổ chức hỗ trợ kỹ thuật Đức (GTZ), dự án STAR của Hoa Kỳ, UNDP và MPDF.

3. Trong Luật DN năm 1999 và đặc biệt là Luật DN năm 2005, những tư tưởng về tự do kinh doanh của phương Tây đã được tiếp nhận mạnh mẽ. Nó được thể hiện qua các quy định thông thoáng về quyền và thủ tục thành lập, góp vốn vào doanh nghiệp; ngành, nghề kinh doanh; quản trị công ty; quyền tự định đoạt, quyền của công ty và thành viên. Song, nguyên tắc tự do kinh doanh và những quy định thông thoáng này bị hạn chế trong thực tế bởi không ít trở lực hành chính, bởi “giấy phép con”, bởi thái độ quan liêu, cửa quyền của không ít cán bộ công chức có liên quan. Chúng ta không tìm thấy ở các nước phát triển mà chúng ta đã tiếp nhận pháp luật cho việc làm luật doanh nghiệp, những hình thức “giấy phép con” như ở Việt Nam.

Quyền tự do kinh doanh cần được bảo đảm trên nền tảng của một nền hành chính mang tính phục vụ chứ không phải là sự ban phát của cơ chế xin - cho. Đâu đó đã có xuất hiện vài việc gian dối trong việc thành lập và quản trị công ty. Song, không vì thế mà quyền tự do kinh doanh của tuyệt đại đa số bị ảnh hưởng xấu bởi phản ứng tiêu cực của nền hành chính quan liêu, chưa theo kịp đòi hỏi của công cuộc đổi mới. Cuộc đấu tranh giữa việc bỏ hay không bỏ các hình thức đa dạng, biến tướng của “giấy phép con” là một ví dụ điển hình. Sự tiếp nhận pháp luật có thành công hay không, theo giáo sư Kanda and Milhaupt, có quan hệ mật thiết với động cơ và hành động mang tính tích cực của các chủ thể pháp luật của quốc gia tiếp nhận[15]. Hiệu quả của việc tiếp nhận pháp luật nước ngoài phụ thuộc vào động cơ của sự tiếp nhận và thái độ của các chủ thể như các nhà lập pháp, cơ quan nhà nước, bộ máy tư pháp và các tổ chức, cá nhân trong việc thực thi pháp luật.

4. Những quy định về quản trị công ty trong Luật DN 1999 và 2005 cũng chịu ảnh hưởng nhiều của luật công ty Anh - Mỹ. Các nghĩa vụ của người quản lý công ty theo luật công ty Anh - Mỹ đã được tiếp thu rất nhiều trong Luật DN năm 2005 qua các nghĩa vụ về trung thành (loyalty), trung thực (good faith), cẩn trọng (care và diligence), không tư lợi (personal interests)[16]. Tuy nhiên, trung thành, trung thực, cẩn trọng, mẫn cán… chỉ là những khái niệm định tính chứ không định lượng. Thật khó có thể giải thích các nghĩa vụ pháp lý này trong luật thành văn. Trong luật công ty Anh, Mỹ hay úc, các nghĩa vụ này có thể được giải thích bởi các án lệ và hơn nữa là sự phán xét của tòa án trong các trường hợp cụ thể. Còn với Việt Nam, khi mà án lệ chưa được thừa nhận và quyền hạn của thẩm phán bị giới hạn bởi các văn bản quy phạm pháp luật, thì những khái niệm trừu tượng như thế sẽ gặp nhiều khó khăn trong thực tiễn áp dụng.

5. Các quy định về pháp nhân, về xuyên qua chế độ trách nhiệm hữu hạn (piecing the corporate veil) hay vén rèm công ty (lifting the corporate veil) đã được tiếp thu nhiều từ luật công ty Anh - Mỹ. Nhưng, không phải chúng đều đã được hiểu và tiếp nhận đúng vào Việt Nam. Chế độ trách nhiệm hữu hạn của công ty, được tạo lập bởi cái vỏ bọc pháp nhân, có thể bị các thành viên hay người điều hành công ty lạm dụng để chiếm đoạt tài sản của chủ nợ. Vì thế, trong luật công ty Anh, Mỹ, úc, học thuyết về xuyên qua chế độ trách nhiệm hữu hạn (piecing the corporate veil) hay vén rèm công ty (lifting the corporate veil) đã xuất hiện để xử lý những kẻ lạm dụng vỏ bọc pháp nhân để thu lợi bất chính[17]. Còn piecing the corporate veil là khái niệm khá mới mẻ đối với chúng ta. Trong vốn từ vựng tiếng Việt, chưa tìm thấy một thuật ngữ tương đồng. Một số người gọi đó là phá hạn. Tuy nhiên, nói như vậy vẫn chưa phản ánh hết bản chất của vấn đề. Khác với Luật Công ty năm 1990, cả hai luật DN đã thể hiện tư tưởng của học thuyết này trong nhiều điều luật. Piecing the corporate veil hay lifting the corporate veil khác hoàn toàn với doctrine of untra vires (beyond powers) là học thuyết pháp lý để chỉ sự vượt quá quyền hạn. Thật tiếc là cho đến gần đây, có nhà nghiên cứu Việt Nam, vẫn hiểu nhầm ultra vires là phá hạn (piecing corporate veil)[18], tức là nhầm lẫn giữa sự vượt thẩm quyền và xuyên qua chế độ trách nhiệm hữu hạn của công ty trong luật công ty Anh - Mỹ.

Những quy định về công ty hợp danh trong cả Luật DN năm 1999 và Luật DN năm 2005 đã được xây dựng trên cơ sở vay mượn, nhưng còn thiếu tính hợp lý về tư cách pháp lý của công ty và thành viên. ở hầu hết các nước, hợp danh (partnership) không được coi là một loại hình công ty (company hay corporation), mà nó được xem như một dạng hợp đồng đặc biệt. Nó không có tư cách pháp nhân, không phải là chủ thể có thể đi kiện và bị kiện. ở Mỹ, sau nhiều năm tranh cãi, cho đến cuối những năm 1990, một số tiểu bang đã ban hành luật ghi nhận hợp danh cũng là pháp nhân (separate legal entity)[19]. Song, vấn đề này vẫn chưa thuyết phục được chính các giáo sư luật, luật sư và quan tòa ở Mỹ. Luật DN gọi hợp danh là “công ty hợp danh” và Luật DN năm 2005 đã công nhận nó có tư cách pháp nhân theo như mô hình của một số bang ở Mỹ. Nhưng, trong khi Bộ luật Dân sự năm 2005 đã quy định rằng, thành viên của pháp nhân chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn, thì việc tiếp nhận quan niệm về hợp danh là pháp nhân theo luật Mỹ và buộc thành viên hợp danh chịu trách nhiệm vô hạn trong Luật DN năm 2005 có lẽ là một việc làm thiếu khôn ngoan, tạo ra “độ vênh” giữa luật dân sự và luật về tổ chức kinh doanh[20]. Trong luật của một số nước theo hệ thống thông luật, có pháp nhân mà các thành viên là chủ sở hữu của nó vẫn phải chịu trách nhiệm vô hạn. Chẳng hạn, công ty trách nhiệm vô hạn theo luật công ty úc là pháp nhân, nhưng trách nhiệm của thành viên là vô hạn[21]. Sự tiếp nhận pháp luật nước ngoài chỉ thực sự có hiệu quả nếu nó được hiểu đúng và vận dụng nó một cách tỉnh táo, thích hợp.

IV. Một vài kết luận

Tiếp nhận pháp luật nước ngoài có thể được hiểu theo cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Hiểu theo nghĩa hẹp của sự tiếp nhận là thông qua quá trình lập pháp, các quy tắc, học thuyết pháp lý nước ngoài được tiếp nhận và đưa vào các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam. Thứ hai, hiểu theo nghĩa rộng, đó chính là sự tiếp nhận, truyền bá pháp luật và các học thuyết, tư tưởng pháp lý nước ngoài vào Việt Nam. Việc truyền bá, tiếp nhận này có thể thông qua việc: (i) pháp luật của nước đó được dịch và nghiên cứu tại Việt Nam, (ii) đào tạo pháp luật, (iii) trao đổi thảo luận, (iv) công việc làm ăn, kinh doanh, (v) sự đóng góp ý kiến trực tiếp của các chuyên gia nước ngoài.

Tiếp nhận pháp luật nước ngoài là hiện tượng phổ biến trên thế giới. Tiếp nhận pháp luật nước ngoài trong quá trình chuyển đổi, hội nhập hiện nay của Việt Nam là cần thiết, nó vừa mang tính thực tiễn và kinh tế[22]. Là một quốc gia chuyển đổi, việc tiếp nhận pháp luật nước ngoài cũng là một cách thức chuẩn bị, là điều kiện tốt cho hội nhập, làm giảm dần những khác biệt giữa pháp luật nước ta với các mô hình pháp luật điển hình trên thế giới. Càng có nhiều tương đồng trong các thiết chế pháp lý, việc đàm phán và thực hiện các cam kết quốc tế của nước ta sẽ dễ dàng hơn. Pháp luật nước ngoài nên được xem như một nguồn quan trọng cho cải cách pháp luật ở Việt Nam.

Tuy nhiên, một quy tắc pháp luật của nước A khi được tiếp nhận vào nước B không có nghĩa là ở nước B nó có thể phát huy tác dụng như nó từng có ở nước A. Bởi lẽ, hiệu quả điều chỉnh của một quy tắc pháp lý phụ thuộc vào nhiều yếu tố, các điều kiện và cơ chế nhất định. Sẽ là sai lầm nếu cho rằng, cứ sao chép các đạo luật đã thành công của nước khác sẽ giúp tạo nên hiệu quả điều chỉnh pháp luật của quốc gia tiếp nhận. Không phải quốc gia nào, hay lĩnh vực pháp luật nào cũng thể vay mượn pháp luật nước ngoài thành công.

Để tiếp nhận pháp luật nước ngoài thành công, quốc gia tiếp nhận cần phải cân nhắc mối quan hệ giữa các quy tắc pháp lý nước ngoài dự định tiếp nhận với các nền tảng chính trị, xã hội, điều kiện cụ thể của nước mình; đặc biệt là các điểm tương đồng và khác biệt giữa cấu trúc chính trị - xã hội của nước tiếp nhận và quốc gia sẽ được tiếp nhận. Sự tiếp nhận thiếu tính cân nhắc sẽ không mang lại kết quả như mong muốn và làm rối rắm thêm cho hệ thống pháp luật nước nhà. Hiệu quả của sự tiếp nhận pháp luật nước ngoài cũng phụ thuộc vào thái độ của các chủ thể pháp luật liên quan. Các quy tắc và học thuyết pháp lý nước ngoài được tiếp nhận sẽ chẳng mang đến kết quả tốt đẹp, nếu nó không được hiểu và thực hiện đúng đắn trong thực tiễn.

[1] Các nghiên cứu đáng chú ý về vấn đề này, có thể xem thêm: Đào Trí úc và Lê Minh Thông, Sự tiếp nhận các giá trị pháp lý phương Đông và phương Tây đối với sự phát triển các tư tưởng pháp lý Việt Nam, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, 5/1999, tr. 3-16; Phạm Duy Nghĩa, Tiếp nhận pháp luật nước ngoài-Thời cơ và thách thức mới cho nghiên cứu lập pháp, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 5/2002, tr. 50-57.

[2] Xem Loukas A. Mistelis, “Regulatory Aspects: Globalization, Harmonization, Legal Transpants, and Law Reform – Some Fundamental Observations”, International Lawyer, v 34(3), 2000, tr. 1067; Eric Stein, “Uses, Misuses and Non-uses of Comparative Law”, Northwestern University Law Review, 72, 1997, tr. 198.

[3] Xem Alan Watson, Legal Transplants and Legal Reform, 1991, tr. 293; Otto Kahn-Freund, Selected Writings, 1978, tr. 299-301.

[4] Giáo sư Watson (người Mỹ) là một trong những người đi tiên phong trong việc nghiên cứu về vay mượn pháp luật, từng công bố nhiều nghiên cứu nổi tiếng và có ảnh hưởng đến khoa học pháp lý về tiếp nhận pháp luật nước ngoài. Các tác phẩm nổi tiếng của ông được nhiều nhà nghiên cứu trích dẫn, đó là: Legal Transplants: An Approach to Comparative Law (1974), Society and Legal Change (1977), Legal Origins and Legal Change (1991); Còn nghiên cứu nổi tiếng của Giáo sư Otto Kahn-Freund trong lĩnh vực này là: On use and misuse of comparative Law; The modern law review, 1974 và Selected Writings, 1978.

[5] Xem Pierre Legrand, “The Imposibility of “Legal Transplants”, Maastricht Journal of European and Comparative Law 4, 1997.

[6] Xem Otto Kahn-Freud, “On use and misuse of Comparative Law”, Modern Law Review 37, 1994, tr. 27.

[7] Xem Jan Smits, “A European Privat Law as a Mixed Legal System: Toward a lus Commune through the Free Movement of Legal Rules”, Maastricht Journal of European and Comparative Law 5, 1998, tr. 334; Alan Watston, Society and Legal change, Nxb. Scottish academic, Enghland, 1997, tr. 98-111.

[8] Về vấn đề này, có thể xem thêm: Katharina Pistor & Philip A. Wellons, “The Role of Law and Legal Institutions in Asian Economic Development”, Nxb. Oxford University Press, tại Hongkong, 1999.

[9] Xem Đào Trí úc và Lê Minh Thông: sđd, tr. 3.

[10] Xem Đào Trí úc và Lê Minh Thông: sđd, tr. 3.

[11] Xem H. Pamela, R. Ian & S. Geof. Commercial Applications of Company Law, 5th ed, Nxb. CCH Australia Limited, Sydney, 2004, tr. 12-17.

[12] Về vấn đề này, xem thêm Bui Xuan Hai & Gordon Walker, Transitional Adjustment Problems in Contemporary Vietnamese Company Law, Journal of International Banking Law and Regulation 20(11), 2005, tr. 567-568.

[13] Xem John Gillespie, Transplanted Company Law: An Ideological and Cultural Analysis of Market-Entry in Việt Nam (2002) 51 International and Comparative Law Quarterly, tr. 647.

[14] Về cách nhìn của các nhà nghiên cứu nước ngoài đối với vấn đề này, xem John Gillespie, “Importing Law Reform: Vietnamese Company Law as a Case Study” trong “International Corporate Law Annual”, Vol. 2, do Fiona Macmillan chủ biên, 2005, tr. 187-228.

[15] Xem Kanda và Milhaupt, sđd, tr.9-10.

[16] Ví dụ, xem các điều 56, 72, 119 và 126 của Luật Doanh nghiệp năm 2005.

[17] Xem H. Pamela, R. Ian & S.Geof, sđd, tr. 55-59.

[18] Xem Nguyễn Như Phát, Góp ý Dự thảo Luật Doanh nghiệp thống nhất, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, 6/2005, tr. 26

[19] Về vấn đề này, xem phân tích của giáo sư Stephen M. Bainbridge trong “Corporation Law and Economics”, Nxb. Foundation Press, 2002, tr 7-8; và xem thêm The Uniform Partnership Act (UPA) 1997.

[20] Xem thêm và so sánh Điều 130, 135 của Luật Doanh nghiệp năm 2005 và Điều 84, 93 của Bộ luật Dân sự năm 2005.

[21] Xem Điều 9, The Corporations Act 2001 (Cth) của Australia.

[22] Về vấn đề này, có thể xem thêm quan điểm của giáo sư Hideki Kanda và Curtis J. Mihaupt, trong “Re-examining Legal Transplants: the Director’s Fiduciary Duty in Japanese Corporate Law”, Trung tâm nghiên cứu Luật và kinh tế, Law Scholl, Đại học Columbia, Mỹ, 2003, tr. 7
Bùi Xuân Hải - NCLP.ORG.VN

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Bài đăng phổ biến