1. Khái niệm
Kinh doanh bảo hiểm là hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm nhằm mục đích sinh lời, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận rủi ro của người được bảo hiểm, trên cơ sở bên mua bảo hiểm đóng phí bảo hiểm để doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm[1].
Còn bảo hiểm tài sản là loại hình bảo hiểm, theo đó, doanh nghiệp bảo hiểm tiến hành thu phí bảo hiểm của bên mua bảo hiểm và cam kết bồi thường cho bên được bảo hiểm khi tài sản mua bảo hiểm gặp những rủi ro trong phạm vi bảo hiểm dẫn đến tổn thất.
Với những khái niệm trên, hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm được thực hiện trên cơ sở doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận rủi ro của người được bảo hiểm để đổi lại họ được quyền thu những khoản phí nhất định từ người mua bảo hiểm. Khi doanh nghiệp bảo hiểm thu phí của bên mua bảo hiểm cũng đồng nghĩa với việc doanh nghiệp bảo hiểm sẽ phải gánh chịu một mức trách nhiệm đối với người được bảo hiểm tương ứng mức phí bảo hiểm đã thu. Đây là yếu tố để chứng minh rằng, quan hệ kinh doanh bảo hiểm là quan hệ xã hội mang tính chất song vụ, quyền lợi bên này cũng chính là nghĩa vụ của bên kia và ngược lại. Tham gia vào quan hệ bảo hiểm, các bên nhằm mục đích hợp tác với nhau để đạt được những lợi ích nhất định. Để thiết lập nên quan hệ mang tính hợp tác, tương trợ này, bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm phải tuân thủ cam kết: không được cố ý thực hiện những hành vi có thể gây thiệt hại cho phía đối tác. Như vậy, những hành vi lừa dối nhằm gây thiệt hại cho phía bên kia để đạt được những quyền lợi tài chính nhất định trong quan hệ bảo hiểm, chúng ta có thể coi là việc kiếm lời bất hợp pháp.
Theo quy định tại Thông tư 31/2004/TT-BTC của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện Nghị định 118 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm thì: “Trục lợi bảo hiểm là hành vi cố ý lừa dối của tổ chức, cá nhân nhằm thu lợi bất chính khi tham gia bảo hiểm, bồi thường bảo hiểm, trả tiền bảo hiểm và giải quyết khiếu nại bảo hiểm”. Như vậy, nói đến trục lợi bảo hiểm là phải nói đến hành vi của tổ chức, cá nhân được thực hiện một cách cố ý nhằm thu lợi bất chính. Nhận dạng hành vi trục lợi bảo hiểm phải chú trọng đến việc tổ chức, cá nhân tham gia vào quan hệ bảo hiểm (bao gồm bồi thường bảo hiểm, trả tiền bảo hiểm, giải quyết khiếu nại bảo hiểm) nhằm thu lợi bất chính cho mình. Tổ chức, cá nhân được đề cập trong khái niệm trục lợi bảo hiểm trên đây có thể là bên mua bảo hiểm, bên được bảo hiểm hoặc doanh nghiệp bảo hiểm, thậm chí có thể là hành vi gian lận trong bảo hiểm của đại lý bảo hiểm và doanh nghiệp môi giới bảo hiểm. Cho dù là tổ chức, cá nhân nào đi chăng nữa, nhưng nếu muốn thực hiện được hành vi trục lợi bảo hiểm, thì các chủ thể này cũng phải tham gia vào quan hệ kinh doanh bảo hiểm.
Tóm lại, chúng ta có thể khẳng định: Trục lợi bảo hiểm là hành vi kiếm lời bất hợp pháp của các chủ thể tham gia vào quan hệ kinh doanh bảo hiểm.
Tương tự như vậy, trục lợi bảo hiểm tài sản là việc các bên tham gia vào quan hệ bảo hiểm tài sản nhằm thực hiện các hành vi lừa dối để được hưởng quyền lợi tài chính mà lẽ ra mình không được hưởng hoặc hưởng lợi lớn hơn quyền lợi tài chính mà mình được hưởng.
2. Quy định của pháp luật
Quy định pháp luật về nghĩa vụ cung cấp thông tin của bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm trong quan hệ pháp luật bảo hiểm
Cơ sở hình thành nên quy định pháp luật về nghĩa vụ cung cấp thông tin trong quan hệ thương mại nói chung đó là, tất cả các giao dịch kinh doanh cần thực hiện trên cơ sở tin cậy lẫn nhau. Trong thực tế, điều đó có nghĩa là các bên khi tham gia vào các hoạt động kinh doanh không được phép có bất kỳ hành vi gian lận hay mưu toan lừa đảo nào. Điều này không có nghĩa rằng, người bán phải có nghĩa vụ chỉ ra các khiếm khuyết đối với sản phẩm mà họ bán ra, tuy nhiên, khi giới thiệu, thông báo hoặc trả lời câu hỏi, người bán hàng phải đưa ra những câu trả lời trung thực.
Trong quan hệ bảo hiểm tài sản, để đạt được lợi ích của mình, các bên tham gia cần phải tuân thủ triệt để nguyên tắc này. Sở dĩ chúng ta khẳng định như vậy, bởi vì, sản phẩm của hoạt động kinh doanh bảo hiểm mang tính khá đặc thù, là sản phẩm mang tính trừu tượng thể hiện ở việc tại thời điểm giao kết hợp đồng, các bên đều hoàn toàn không thể biết trước được sản phẩm mà hai bên thỏa thuận mua bán có hình thành trong tương lai hay không. Tức là, doanh nghiệp bảo hiểm thì không thể biết được trách nhiệm của mình đối với sản phẩm mình bán ra có phát sinh hay không[2], ngược lại, bên được bảo hiểm cũng không thể biết được tài sản mình mua bảo hiểm có thể bị tổn thất hay không. Như vậy, khác với các giao dịch mua bán thông thường có đối tượng mua bán là hàng hóa, các bên có thể nhìn thấy được hàng hóa mà mình tham gia mua bán, trong bảo hiểm tài sản, yếu tố này sẽ được hình thành trong tương lai, tuy nhiên có thể hình thành hoặc không, phụ thuộc vào việc rủi ro có xảy ra hay không và có trong phạm vi bảo hiểm mà hai bên cam kết hay không.
Ngoài ra, còn phải kể đến một đặc thù: hoạt động kinh doanh bảo hiểm là hoạt động mang tính nghiệp vụ cao, kỹ thuật bảo hiểm tài sản mang tính trừu tượng và khó hiểu. Các quy tắc, điều khoản bảo hiểm chứa đựng những thuật ngữ chuyên ngành thường khó hiểu, nên dẫn đến việc một số khách hàng dù cố gắng đến mấy vẫn không thể hiểu rõ nội dung của nó. Như vậy, nếu thiếu sự cung cấp các thông tin liên quan đến hợp đồng bảo hiểm, bên mua bảo hiểm khó có thể đi đến quyết định giao kết hợp đồng.
Tại Điểm a, Khoản 2 Điều 17 Luật Kinh doanh bảo hiểm (Luật KDBH) quy định: Doanh nghiệp bảo hiểm có nghĩa vụ giải thích cho bên mua bảo hiểm về các điều kiện, điều khoản bảo hiểm, quyền và nghĩa vụ của bên mua bảo hiểm. Khoản 1 Điều 19 Luật KDBH cũng quy định: Khi giao kết hợp đồng bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm có trách nhiệm cung cấp đầy đủ thông tin liên quan đến hợp đồng bảo hiểm, giải thích các điều kiện, điều khoản bảo hiểm cho bên mua bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm phải chịu trách nhiệm về tính chính xác, trung thực của thông tin đó. Ngược lại, bên mua bảo hiểm khi tham gia quan hệ bảo hiểm cũng phải công bố các thông tin liên quan đến tài sản mà mình mua bảo hiểm. Theo quy định tại Điểm b, Khoản 2 Điều 18, Luật KDBH thì: “Bên mua bảo hiểm có nghĩa vụ kê khai đầy đủ, trung thực mọi chi tiết có liên quan đến hợp đồng bảo hiểm theo yêu cầu của doanh nghiệp bảo hiểm”. Và để đảm bảo nguyên tắc trung thực tuyệt đối của hoạt động kinh doanh bảo hiểm, bên mua bảo hiểm cũng phải chịu trách nhiệm về tính chính xác, trung thực của những thông tin mà họ đưa ra. Tuy nhiên, như đã trình bày, chỉ có doanh nghiệp bảo hiểm là người biết rõ nhất sản phẩm bảo hiểm mà mình thiết kế, bao gồm những thông tin nào là cần thiết cho việc hình thành nên quan hệ hợp đồng bảo hiểm, do vậy, pháp luật cho phép bên mua bảo hiểm chỉ phải cung cấp các thông tin liên quan đến hợp đồng bảo hiểm theo yêu cầu của doanh nghiệp bảo hiểm mà thôi. Như vậy, nếu việc không cung cấp thông tin từ phía bên mua bảo hiểm là do doanh nghiệp bảo hiểm không yêu cầu, thì doanh nghiệp bảo hiểm cũng không được áp dụng trường hợp này để đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng theo quy định tại Khoản 2 Điều 19, Luật KDBH về trách nhiệm cung cấp thông tin[3].
Để tránh những tranh chấp xảy ra trong việc thực hiện quy định của pháp luật về nghĩa vụ cung cấp trong quan hệ bảo hiểm tài sản, theo chúng tôi, trước khi giao kết hợp đồng, các bên cần thiết phải lập biên bản ghi rõ những nội dung mà doanh nghiệp bảo hiểm yêu cầu cũng như những thông tin mà bên mua bảo hiểm cung cấp cho doanh nghiệp bảo hiểm. Bởi lẽ, tham gia vào quan hệ kinh doanh bảo hiểm còn có các chủ thể trung gian đó là các đại lý bảo hiểm và doanh nghiệp môi giới bảo hiểm, nếu các chủ thể này - vì quyền lợi của mình mà không chú trọng đến việc thực hiện quy định của pháp luật về nghĩa vụ cung cấp thông tin - có thể gây bất lợi cho doanh nghiệp bảo hiểm và bên mua bảo hiểm. Theo quy định của pháp luật thì đại lý bảo hiểm là chủ thể thay mặt doanh nghiệp bảo hiểm trong việc thu xếp giao kết hợp đồng bảo hiểm[4] còn doanh nghiệp môi giới bảo hiểm là chủ thể thực hiện các công việc liên quan đến quan hệ bảo hiểm theo yêu cầu của bên mua bảo hiểm[5].
Quy định về giới hạn bồi thường
Mục đích của bảo hiểm tài sản là khôi phục lại tình trạng tài chính ban đầu cho người được bảo hiểm ngay sau khi tổn thất xảy ra. Sự khôi phục này được gọi là bồi thường. Trong quan hệ bảo hiểm tài sản, thuật ngữ “bồi thường” đóng vai trò hết sức quan trọng, nó xác định phạm vi trách nhiệm tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm. Bồi thường là cơ chế mà công ty bảo hiểm sử dụng để cung cấp khoản tài chính với mục đích hoàn trả cho người được bảo hiểm những gì đã mất do việc tài sản bảo hiểm gặp tổn thất trong phạm vi rủi ro được bảo hiểm. Như vậy, có thể khẳng định, bồi thường được coi là sự đền bù chính xác về tài chính, đủ để khôi phục tình trạng tài chính ban đầu của người được bảo hiểm như trước khi xảy ra tổn thất.
Trong hợp đồng bảo hiểm tài sản, một trong những nội dung mà các bên không thể bỏ qua, đó là, phải xác định mối liên hệ giữa bồi thường và quyền lợi được bảo hiểm. Mối liên hệ này thể hiện ở quyền lợi tài chính của người được bảo hiểm đối với tài sản bảo hiểm. Khi sự kiện bảo hiểm xảy ra, số tiền mà doanh nghiệp bảo hiểm trả cho người được bảo hiểm không được vượt quá mức độ quyền lợi tài chính của người đó đối với tài sản bảo hiểm. Điều này cũng có nghĩa rằng, người tham gia bảo hiểm tài sản không được kiếm lời qua con đường bảo hiểm, nhiều nhất người bảo hiểm cũng chỉ được bồi thường những gì mình đã mất chứ không thể nhiều hơn những gì đã mất.
Quán triệt nguyên tắc bồi thường trong bảo hiểm tài sản, Luật KDBH đã quy định về căn cứ bồi thường tại Điều 46 như sau: Số tiền bồi thường mà doanh nghiệp bảo hiểm phải trả cho người được bảo hiểm được xác định trên cơ sở giá thị trường của tài sản tại thời điểm, nơi xảy ra tổn thất và mức độ thiệt hại thực tế và số tiền bồi thường mà doanh nghiệp bảo hiểm trả cho người được bảo hiểm không vượt quá số tiền bảo hiểm.
Với quy định về giới hạn bồi thường trên đây, chúng tôi xin có một số nhận xét như sau:
Thứ nhất, pháp luật đã quy định, căn cứ để xem xét bồi thường trong quan hệ bảo hiểm tài sản là “giá thị trường của tài sản được bảo hiểm tại thời điểm, nơi xảy ra tổn thất và mức độ thiệt hại thực tế”[6]. Tuy nhiên, vấn đề xác định giá thị trường là một việc khá khó khăn. Sở dĩ chúng tôi đưa ra nhận xét trên đây vì giá thị trường thường tính được đối với những tài sản còn mới, trong khi đó, tài sản rơi vào trường hợp bảo hiểm phải là tài sản đã qua sử dụng. Vì vậy, việc xác định thiệt hại thực tế xảy ra đối với tài sản bảo hiểm chỉ mang tính ước đoán. Để thực hiện được điều khoản về căn cứ bồi thường, doanh nghiệp bảo hiểm và bên mua bảo hiểm phải thống nhất về cách thức và biện pháp xác định giá trị của tài sản bảo hiểm tại thời điểm và nơi xảy ra tổn thất.
Thứ hai, mục đích của Điều 46 là nhằm để chống trục lợi bảo hiểm trong khi đó lại cho phép các bên thỏa thuận về số tiền bồi thường mà không dựa vào căn cứ bồi thường[7]. Quy định này vô hình trung đã làm giảm tính nghiêm minh của pháp luật. Vì vậy, tại Khoản 1 và 2 Điều 46 nên bỏ cụm từ “trừ trường hợp có thỏa thuận khác trong hợp đồng bảo hiểm” để đảm bảo mục đích chống trục lợi cũng như đảm bảo tính thống nhất và nghiêm minh của pháp luật.
Quy định của pháp luật về bảo hiểm trùng
Bảo hiểm trùng là trường hợp bên mua bảo hiểm giao kết hợp đồng bảo hiểm với hai doanh nghiệp bảo hiểm trở lên để bảo hiểm cho cùng một đối tượng với cùng điều kiện và sự kiện bảo hiểm. Pháp luật không cấm bên mua bảo hiểm mua bảo hiểm trùng cho tài sản bởi vì đây là quyền định đoạt của chủ sở hữu đối với tài sản. Tức là, chủ tài sản được quyền mua bảo hiểm cho tài sản tại nhiều doanh nghiệp bảo hiểm khác nhau với cùng điều kiện và sự kiện bảo hiểm nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình đối với tài sản.
Tuy nhiên, trong quan hệ này, bên được bảo hiểm không được phép lợi dụng yếu tố: phí bảo hiểm phải trả cho một tài sản là rất nhỏ so với giá trị tài sản để yêu cầu bảo hiểm nhiều lần cho tài sản tại nhiều doanh nghiệp bảo hiểm khác nhau nhằm mục đích nhận được khoản tiền bảo hiểm lớn hơn nhiều lần so với giá trị của tài sản bảo hiểm. Để ngăn chặn mục đích trục lợi trong trường hợp này, khoản 2 Điều 44 Luật KDBH quy định: “Trong trường hợp các bên giao kết hợp đồng bảo hiểm trùng, khi xảy ra sự kiện bảo hiểm, mỗi doanh nghiệp bảo hiểm chỉ chịu trách nhiệm bồi thường theo tỷ lệ giữa số tiền bảo hiểm đã thỏa thuận trên tổng số tiền của tất cả các hợp đồng mà bên mua bảo hiểm đã giao kết. Tổng số tiền bồi thường của các doanh nghiệp bảo hiểm không vượt quá giá trị thiệt hại thực tế của tài sản”. Quy định trên có thể được hiểu là, pháp luật không cấm bên mua bảo hiểm mua bảo hiểm nhiều lần cho một tài sản tại nhiều doanh nghiệp bảo hiểm với cùng điều khoản và sự kiện bảo hiểm, nhưng khi mua thì phải có nghĩa vụ thông báo cho các doanh nghiệp bảo hiểm khác biết về điều này. Trên cơ sở các hợp đồng bảo hiểm đã giao kết, các doanh nghiệp bảo hiểm sẽ cùng chịu trách nhiệm trong phạm vi cam kết của mình trên tổng giá trị thiệt hại.
Ví dụ: Ông A có một chiếc xe ôtô hiệu M. Ngày 2/3/2005 ông A mua bảo hiểm vật chất xe (bảo hiểm tài sản) tại doanh nghiệp bảo hiểm B với số tiền bảo hiểm là 1,1 tỷ đồng. Ngày 3/4/2005 ông A lại mua bảo hiểm cho chiếc xe tại doanh nghiệp bảo hiểm C với số tiền bảo hiểm là 900 triệu đồng. Cả hai hợp đồng bảo hiểm trên đều cùng điều kiện và sự kiện bảo hiểm. Ngày 5/8/2005, chiếc xe bị tai nạn (rủi ro xảy ra trong phạm vi bảo hiểm), tổn thất toàn bộ. Giá trị của chiếc xe được định giá tại thời điểm tổn thất là 800 triệu đồng.
Trong trường hợp trên, trách nhiệm của hai doanh nghiệp bảo hiểm được xác định như sau:
-Doanh nghiệp bảo hiểm B phải chịu trách nhiệm bồi thường là: 1,1 tỷ (sồ tiền bảo hiểm đã thỏa thuận giữa doanh nghiệp B và ông A) chia cho 2 tỷ (là tổng số tiền bảo hiểm của hai hợp đồng giao kết với doanh nghiệp bảo hiểm B và C tức 1,1 tỷ cộng với 900 triệu) được tỷ lệ là 55% nhân với giá trị thiệt hại thực tế là 800 triệu. Vậy, số tiền mà doanh nghiệp bảo hiểm B phải bồi thường là 440 triệu đồng.
-Doanh nghiệp bảo hiểm C phải chịu trách nhiệm bồi thường là: 900 triệu chia cho 2 tỷ được tỷ lệ là 45% nhân với giá trị thiệt hại thực tế là 800 triệu sẽ ra số tiền bồi thường là 360 triệu.
Như vậy, từ ví dụ trên đây cho thấy, theo quy định của pháp luật, ông A sẽ không được nhận khoản tiền bồi thường từ các doanh nghiệp bảo hiểm lớn hơn thiệt hại thực tế xảy ra là 800 triệu (cụ thể, cộng cả hai khoản tiền bồi thường từ hai doanh nghiệp bảo hiểm là 440 triệu + 360 triệu = 800 triệu).
Với quy định trên đây, có quan điểm cho rằng, quy định tại điều 44, Luật KDBH có thể dẫn đến cách hiểu rằng, pháp luật không cho phép bên mua bảo hiểm được giao kết hợp đồng bảo hiểm trùng trong bảo hiểm tài sản. Những người theo quan điểm này lập luận rằng, Khoản 2, Điều 44 quy định “Trong trường hợp các bên giao kết hợp đồng bảo hiểm trùng… doanh nghiệp bảo hiểm chỉ chịu trách nhiệm bồi thường theo tỷ lệ giữa số tiền bảo hiểm đã thỏa thuận trên tổng số tiền bảo hiểm của tất cả các hợp đồng bảo hiểm mà bên mua bảo hiểm đã giao kết” thực chất chỉ là giải quyết hậu quả xảy ra, chứ không phải là sự thừa nhận của pháp luật trong việc cho phép giao kết hợp đồng bảo hiểm trùng trong bảo hiểm tài sản. Tuy nhiên, chúng tôi lại không nhất trí với quan điểm trên, bởi lẽ, pháp luật không cấm giao kết hợp đồng bảo hiểm trùng trong bảo hiểm tài sản và mục đích của bên mua bảo hiểm khi tham gia vào quan hệ bảo hiểm tài sản là nhằm chuyển giao rủi ro và để giảm bớt rủi ro, bên mua bảo hiểm có thể mua bảo hiểm cho tài sản của mình tại nhiều doanh nghiệp bảo hiểm khác nhau với cùng một điều kiện và sự kiện bảo hiểm. Sở dĩ họ chọn cách thức này vì bản thân hoạt động của các doanh nghiệp bảo hiểm cũng hàm chứa các rủi ro, nếu một trong các doanh nghiệp bảo hiểm này phá sản thì bên mua bảo hiểm có thể đòi bồi thường ở các doanh nghiệp bảo hiểm còn lại. Yếu tố mà pháp luật cấm ở đây là khi sự kiện bảo hiểm xảy ra, bên mua bảo hiểm không được đòi các doanh nghiệp bảo hiểm bồi thường theo thỏa thuận trong hợp đồng, tức sau khi nhận tiền bồi thường thì số tiền này lớn hơn nhiều lần thiệt hại của tài sản bảo hiểm. Nếu bên mua bảo hiểm giao kết hợp đồng bảo hiểm trùng rồi lập hồ sơ đòi từng doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bồi thường theo từng cam kết để nhận được số tiền lớn hơn giá trị tài sản, thì hành vi này được xem là lừa đảo và sẽ bị xử lý theo quy định của Bộ luật Hình sự.
Quy định về bảo hiểm trên giá trị
Để bảo vệ quyền lợi cho doanh nghiệp bảo hiểm nói riêng và cộng đồng những người tham gia bảo hiểm nói chung, một yêu cầu được đặt ra đối với bên mua bảo hiểm khi tham gia vào quan hệ bảo hiểm tài sản là họ phải có quyền lợi đối với tài sản bảo hiểm và chỉ được mua bảo hiểm cho tài sản trong phạm vi quyền lợi tài chính mà họ có được từ tài sản. ở đây, chúng ta phải hiểu rằng, trong bảo hiểm tài sản, không ai ngoài bên mua bảo hiểm là người biết rõ nhất về giá trị của tài sản mà mình đang sở hữu, do vậy, khi tiến hành bảo hiểm cho tài sản, bên mua bảo hiểm phải trung thực trong việc đưa ra số tiền bảo hiểm. Pháp luật đã quy định, số tiền bảo hiểm là số tiền mà bên mua bảo hiểm yêu cầu bảo hiểm cho tài sản đó[8]. Quy định này cũng có thể được hiểu là, khi bên mua bảo hiểm đã yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm gánh chịu một tổn thất tương ứng với số tiền bảo hiểm thì cũng có nghĩa rằng, bên mua bảo hiểm có quyền lợi tài chính từ tài sản bảo hiểm tương đương với số tiền bảo hiểm.
Như vậy, trong bảo hiểm tài sản, sẽ không thể hình thành nên một giao dịch mà số tiền bảo hiểm cao hơn giá thị trường của tài sản tại thời điểm giao kết hợp đồng. Lý do, bên mua bảo hiểm không thể yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm gánh chịu thay mình một tổn thất mà họ không thể có được, bởi vì, quyền lợi tài chính mà bên mua bảo hiểm thực có chỉ được tính đúng bằng giá thị trường của tài sản. Nếu trường hợp do vô ý, bên mua bảo hiểm nhầm tưởng về giá trị của tài sản mà giá trị này cao hơn giá thị trường của tài sản tại thời điểm giao kết, thì số tiền mà bên mua bảo hiểm nhận được cũng không vượt quá giá thị trường của tài sản được bảo hiểm[9]. Tức là, trong trường hợp này, pháp luật chỉ thừa nhận tính hợp pháp của giao dịch trong phạm vi giá thị trường của tài sản, còn phần vượt quá sẽ vô hiệu. Tuy nhiên, trên thực tế, việc nhầm tưởng này sẽ rất khó xảy ra, bởi lẽ khi một người sở hữu một tài sản có giá trị, họ sẽ phải thường xuyên quan tâm đến các thông tin liên quan đến quyền lợi tài chính của mình đối với tài sản. Đồng thời trước khi tham gia vào một giao dịch với mục đích bảo vệ quyền lợi tài chính đối với tài sản, họ phải là người biết rõ nhất giá trị tài sản cần bảo vệ là bao nhiêu. Vì thế trên thực tế, hợp đồng bảo hiểm tài sản được giao kết trên giá trị thường là do bên mua bảo hiểm cố ý để được hưởng quyền lợi tài chính nhiều hơn mình có. Khi xảy ra trường hợp trên, chúng ta có thể coi đây là hành vi trục lợi. Nếu bên mua bảo hiểm thực hiện hành vi trục lợi thông qua việc cố tình yêu cầu một số tiền bảo hiểm lớn hơn giá thị trường của tài sản thì pháp luật không thừa nhận giao dịch này.
Cụ thể, Khoản 1 Điều 42 Luật KDBH quy định “Hợp đồng bảo hiểm tài sản trên giá trị là hợp đồng trong đó số tiền bảo hiểm cao hơn giá thị trường của tài sản được bảo hiểm tại thời điểm giao kết hợp đồng. Doanh nghiệp bảo hiểm và bên mua bảo hiểm không được giao kết hợp đồng bảo hiểm tài sản trên giá trị”. Việc pháp luật không cho phép giao kết hợp đồng bảo hiểm trên giá trị nhằm ngăn chặn tình trạng trục lợi thông qua việc bên mua bảo hiểm cố ý khai tăng giá trị của tài sản tại thời điểm giao kết hợp đồng, nhằm được hưởng số tiền bảo hiểm lớn hơn giá trị của tài sản.
Về quy định này, chúng tôi xin có một số ý kiến sau:
Thứ nhất, phần cuối Khoản 1, Điều 42 Luật KDBH quy định “Doanh nghiệp bảo hiểm và bên mua bảo hiểm không được giao kết hợp đồng bảo hiểm tài sản trên giá trị” nhưng ở Khoản 2 lại quy định “trong trường hợp hợp đồng bảo hiểm tài sản trên giá trị được giao kết do lỗi vô ý của bên mua bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm phải hoàn lại cho bên mua bảo hiểm số phí bảo hiểm đã đóng tương ứng với số tiền bảo hiểm vượt quá giá thị trường của tài sản được bảo hiểm, sau khi trừ các chi phí hợp lý có liên quan…”. Theo chúng tôi, quy định như trên là không thống nhất giữa khoản 1 và khoản 2, cụ thể ở khoản 1 đã quy định không cho phép thì sẽ không có quy định tại Khoản 2, bởi vì quy định tại khoản 2 là thừa nhận sự tồn tại của hợp đồng bảo hiểm trên giá trị.
Thứ hai, nội dung quy định tại Khoản 2 là không khả thi, bởi vì tiêu chí để xác định thế nào là vô ý và thế nào là cố ý trên thực tế là không có cơ sở, trong nhiều trường hợp chỉ là sự suy đoán chủ quan. Vì vậy, ý nghĩa chống trục lợi của quy định này trên thực tế sẽ rất khó áp dụng, theo chúng tôi, nên bỏ Khoản 2 của Điều 42, tức là không thừa nhận sự tồn tại của hợp đồng bảo hiểm tài sản trên giá trị dù là vô ý hay cố ý, tức là nếu trường hợp các bên có giao kết thì hợp đồng sẽ không phát sinh hiệu lực pháp lý. Tuy nhiên, để bảo vệ quyền lợi của bên mua bảo hiểm trong trường hợp họ giao kết hợp đồng bảo hiểm tài sản trên giá trị là hoàn toàn do lỗi vô ý, pháp luật nên cho phép một biên độ giao động giữa giá thị trường của tài sản tại thời điểm giao kết hợp đồng và số tiền bảo hiểm mà bên mua bảo hiểm yêu cầu bảo hiểm đối với tài sản, biên độ này có thể là (+)(-) 5% để chống trục lợi.
Quy định về nghĩa vụ áp dụng các biện pháp đề phòng, hạn chế tổn thất đối với bên mua bảo hiểm
Như đã nói, bảo hiểm là sự hoán chuyển rủi ro từ người được bảo hiểm sang doanh nghiệp bảo hiểm khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra. Rủi ro dẫn đến sự kiện bảo hiểm phải là những rủi ro mà bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm không lường trước được. Tuy nhiên, điều đó cũng không có nghĩa rằng, một khi có rủi ro xảy ra, con người sẽ hoàn toàn bất lực trước những tổn thất mà nó mang lại. Rủi ro là yếu tố xảy ra ngoài ý muốn của các bên tham gia vào quan hệ bảo hiểm, nhưng ngược lại, khi có rủi ro xảy ra, con người có thể thực hiện những biện pháp nhất định nhằm hạn chế tối đa những tổn thất có thể xảy ra. Con người không thể quyết định được rủi ro có xảy ra hay không, nhưng có thể quyết định được việc giảm bớt những tổn thất do rủi ro mang lại bằng những biện pháp đề phòng, hạn chế tổn thất.
Từ những phân tích trên cho thấy, khi chủ sở hữu tài sản đã mua bảo hiểm cho tài sản thì họ đã chuyển giao những rủi ro của mình sang cho doanh nghiệp bảo hiểm nếu tài sản bảo hiểm gặp rủi ro trong phạm vi bảo hiểm dẫn đến tổn thất. Tuy nhiên, khi mua bảo hiểm, rõ ràng bên mua bảo hiểm cũng không mong muốn tổn thất sẽ xảy ra đối với tài sản, bởi vì, đó là những tài sản thuộc quyền sở hữu của họ. Như vậy, để thể hiện sự không mong muốn này, trong thời gian mua bảo hiểm, họ phải thực hiện các biện pháp đề phòng, hạn chế tổn thất có thể xảy ra đối với tài sản bảo hiểm.
Trong bảo hiểm tài sản, pháp luật cho phép các bên tham gia giao kết hợp đồng được ấn định một số tiền bảo hiểm cho tài sản, số tiền này về nguyên tắc phải tương đương với giá trị của tài sản. Tuy nhiên, trên thực tế, sự tương xứng này không thể mang tính tuyệt đối, bởi vì, số tiền bảo hiểm được xác định căn cứ vào giá trị của tài sản tại thời điểm giao kết hợp đồng, mà đặc trưng của tài sản thì thường hao mòn (giảm giá trị) thông qua quá trình sử dụng. Do vậy, khi tổn thất xảy ra, nếu không còn tài sản để xác định giá trị tại thời điểm xảy ra tổn thất, thông thường doanh nghiệp bảo hiểm sẽ căn cứ vào số tiền bảo hiểm để ấn định số tiền bồi thường và ở một chừng mực nào đó, số tiền bồi thường dựa vào căn cứ này sẽ có lợi cho bên được bảo hiểm. Trước thực tế này, rất nhiều trường hợp, người được bảo hiểm đã nảy sinh ý đồ trục lợi thông qua việc để mặc cho tổn thất xảy ra nhằm hưởng tiền bồi thường từ doanh nghiệp bảo hiểm.
Để ngăn chặn ý đồ trục lợi của bên mua bảo hiểm (người được bảo hiểm), Điều 50 Luật KDBH quy định:
- Người được bảo hiểm phải thực hiện các quy định về phòng cháy, chữa cháy, an toàn lao động, vệ sinh lao động và những quy định khác của pháp luật có liên quan nhằm bảo đảm an toàn cho đối tượng bảo hiểm.
- Doanh nghiệp bảo hiểm có quyền kiểm tra các điều kiện đảm bảo an toàn cho đối tượng bảo hiểm hoặc khuyến nghị, yêu cầu người được bảo hiểm áp dụng các biện pháp đề phòng, hạn chế rủi ro.
- Trong trường hợp người được bảo hiểm không thực hiện các biện pháp đảm bảo an toàn cho đối tượng bảo hiểm thì doanh nghiệp bảo hiểm có quyền ấn định một thời hạn để người được bảo hiểm thực hiện các biện pháp đó; nếu hết thời hạn này mà các biện pháp bảo đảm an toàn vẫn không được thực hiện thì doanh nghiệp bảo hiểm có quyền tăng phí bảo hiểm hoặc đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm.
Như vậy, việc pháp luật cho phép doanh nghiệp bảo hiểm được quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm là biện pháp ngăn chặn người được bảo hiểm thực hiện ý đồ trục lợi của mình. Ngoài ra, liên quan đến nghĩa vụ đề phòng, hạn chế tổn thất đối với tài sản bảo hiểm của người được bảo hiểm, pháp luật còn ngăn chặn mục đích trục lợi trong quan hệ bảo hiểm tài sản thông qua quy định người được bảo hiểm không được từ bỏ tài sản được bảo hiểm[10], trừ trường hợp, người được bảo hiểm từ bỏ tài sản là nhằm để tránh tổn thất chung, vì cứu người hoặc trong trường hợp khẩn cấp… Quy định không được phép từ bỏ tài sản xuất phát từ yêu cầu bảo vệ tài sản để tránh tổn thất xảy ra, dẫn đến việc doanh nghiệp bảo hiểm phải chịu trách nhiệm bồi thường từ hành vi vô trách nhiệm đối với tài sản bảo hiểm của người được bảo hiểm. Đồng thời, quy định này cũng nhằm tránh tình trạng lợi dụng rủi ro để hủy hoại tài sản nhằm mục đích trục lợi của bên được bảo hiểm.
Quy định về nghĩa vụ bồi thường kịp thời cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm của doanh nghiệp bảo hiểm
Mục đích của bên được bảo hiểm khi tham gia quan hệ bảo hiểm tài sản là khôi phục một cách nhanh chóng tình trạng tài chính của mình khi tài sản bảo hiểm bị tổn thất, đây là ý định chính đáng được pháp luật thừa nhận. Hơn nữa, khác với các hoạt động kinh doanh khác, hoạt động kinh doanh bảo hiểm là hoạt động dịch vụ tạo ra sản phẩm vô hình. Mục đích của bảo hiểm là đem lại sự an tâm, an toàn về mặt tài chính cho người tham gia bảo hiểm trước những rủi ro có thể xảy ra. Sản phẩm bảo hiểm là sản phẩm trừu tượng nên không dễ nhìn thấy được và không dễ nhận biết được lợi ích cơ bản, công dụng của sản phẩm. Sản phẩm bảo hiểm nói chung và bảo hiểm tài sản nói riêng là lời hứa, là sự cam kết của doanh nghiệp bảo hiểm: sẽ bồi thường cho khách hàng khi tổn thất xảy ra đối với tài sản bảo hiểm.
Hành vi trây ỳ trong việc bồi thường cho người được bảo hiểm trong bảo hiểm tài sản nhằm mang lại lợi ích cho doanh nghiệp bảo hiểm cần được pháp luật nghiêm cấm. Bởi vì, hành vi này không những gây thiệt hại cho người được bảo hiểm mà còn ảnh hưởng rất lớn đến uy tín kinh doanh của các doanh nghiệp bảo hiểm, tác động xấu đến quá trình xây dựng và phát triển thị trường bảo hiểm nói chung và thị trường bảo hiểm tài sản nói riêng. Tuy nhiên, trên thực tế, trong một số trường hợp, vì lợi ích thiển cận trước mắt của chính doanh nghiệp bảo hiểm hoặc lợi ích cá nhân của mình mà một số nhân viên bảo hiểm đã cố tình dây dưa trong việc thực hiện bồi thường cho người được bảo hiểm. Để ngăn chặn hành vi trục lợi này, pháp luật đã quy định một trong những nghĩa vụ bắt buộc của doanh nghiệp bảo hiểm là “Bồi thường kịp thời cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm”[11]. Ngoài ra, để bảo vệ quyền lợi cho người được bảo hiểm, Điều 29 Luật KDBH quy định: Khi xảy ra sự kiện bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm phải bồi thường theo thời hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm, trong trường hợp không có thỏa thuận về thời hạn thì doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bồi thường trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được đầy đủ hồ sơ hợp lệ về yêu cầu bồi thường. Đây là thời gian ấn định để doanh nghiệp bảo hiểm thực hiện nghĩa vụ bồi thường của mình. Đồng thời quy định này cũng có ý nghĩa ngăn ngừa việc doanh nghiệp bảo hiểm cố tình không đưa điều khoản về thời hạn trả tiền bồi thường trong hợp đồng nhằm kéo dài thời gian thực hiện nghĩa vụ bồi thường để chiếm dụng vốn của người được bảo hiểm.
Tóm lại, trục lợi bảo hiểm tài sản là những hành vi lừa dối nhằm hưởng lợi bất hợp pháp trong quan hệ bảo hiểm tài sản. Hiện nay, hiện tượng trục lợi trong bảo hiểm nói chung và bảo hiểm tài sản nói riêng đang là vấn đề đáng quan ngại, làm ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của thị trường bảo hiểm nói chung và thị trường bảo hiểm tài sản nói riêng. Việc nhận diện các hành vi trục lợi để có cơ chế xử lý phù hợp đóng vai trò hết sức quan trọng cho công cuộc xây dựng và phát triển lành mạnh thị trường bảo hiểm tài sản ở Việt Nam.
[1] Xem Khoản 1 Điều 3 Luật KDBH.
[2] Như đã trình bày, “sản phẩm” mà doanh nghiệp bảo hiểm bán chính là lời hứa là cam kết chi trả tài chính trong tương lai cho người được bảo hiểm nếu tài sản bảo hiểm gặp tổn thất trong phạm vi rủi ro được bảo hiểm.
[3] Theo quy định tại Khoản 2, Điều 19 thì doanh nghiệp bảo hiểm có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm và thu phí bảo hiểm đến thời điểm đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm khi bên mua bảo hiểm có một trong các hành vi sau đây:
-Cố ý cung cấp thông tin sai sự thật nhằm giao kết hợp đồng bảo hiểm để được bồi thường.
-Không thông báo những trường hợp có thể làm gia tăng rủi ro hoặc làm phát sinh trách nhiệm bảohiểm trong quá trình thực hiện hợp đồng bảo hiển theo yêu cầu của doanh nghiệp bảo hiểm
[4] Theo quy định tại Điều 85, Luật KDBH thì Đại lý bảo hiểm thực hiện các công việc: Giới thiệu, chào bán bảo hiểm; thu xếp việc giao kết hợp đồng bảo hiểm; thu phí bảo hiểm…
[5] Xem Điều 90, Luật KDBH
[6] Khoản 1, Điều 46, Luật KDBH
[7] Khoản 1 và Khoản 2, Điều 46 Luật KDBH đều có câu “trừ trường hợp có thỏa thuận khác trong hợp đồng bảo hiểm”.
[8] Xem Điều 41 Luật KDBH
[9] Khoản 2 Điều 42 Luật KDBH quy định: “Trong trường hợp, hợp đồng bảo hiểm trên giá trị được giao kết do lỗi vô ý của bên mua bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm phải hoàn lại cho bên mua bảo hiểm số phí bảo hiểm đã đóng tương ứng với số tiền bảo hiểm vượt quá giá thị trường của tài sản bảo hiểm sau khi trừ các chi phí có liên quan. Trong trường hợp xảy ra sự kiện bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm chỉ chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại không vượt quá giá thị trường của tài sản bảo hiểm”.
[10] Điều 51 Luật KDBH quy định: Trong trường hợp xảy ra tổn thất người được bảo hiểm không được từ bỏ tài sản được bảo hiểm trừ trường hợp pháp luật có quy định hoặc hai bên có thỏa thuận.
[11] Điểm c, khoản 2, Luật KDBH
Nguyễn Thị Thuỷ - NCLP.ORG.VN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét