Thứ Hai, 31 tháng 12, 2007

NHỮNG ĐIỀU CÓ THỂ HỌC TỪ HỆ THỐNG GIÁO DỤC ĐẠI HỌC TẠI MỸ

PHAN VIỆT

Bài viết này tập trung trình bày những cái tinh túy nhất mà tôi quan sát được ở những trường học có chất lượng cao tại Mỹ - những điều có thể áp dụng trực tiếp cho đổi mới giáo dục tại Việt Nam. Vì thế, xin bạn đọc đừng cho rằng rằng tôi quá khen hệ thống giáo dục đại học tại Mỹ. Bài này gồm bốn phần: Đào tạo là để làm việc; Sinh viên; Giáo viên; Các vấn đề khác.

Đào tạo là để làm việc
Đào tạo tại Mỹ, nhìn chung, không nhằm vào việc tạo ra những con người hoàn hảo, những trí thức chung chung; mà nhằm đào tạo người để làm việc chuyên môn trong những ngành cụ thể, với những kỹ năng cụ thể, mục đích cụ thể. Để làm điều này, giáo dục đại học của Mỹ chú trọng ít nhất hai điều sau: (1) nó linh động thay đổi việc đào tạo theo nhu cầu của thị trường lao động; và (2) nó khuyến khích sinh viên học theo hướng chuyên môn hóa, chuyên nghiệp hóa.
Để làm điều thứ nhất, nó có thể co dãn lượng tiền đầu tư và số lượng sinh viên lấy vào cho mỗi ngành lớn và chuyên ngành hẹp trong đó, tùy theo xu hướng phát triển của xã hội. Ví dụ như công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, y tế và vật liệu là những ngành mũi nhọn cho phát triển thì các trường sẽ tăng lượng người nhận cho các ngành này, lấy nhu cầu cao hơn, cấp nhiều học bổng hơn; trong khi đó, nó thu hẹp dần những ngành không còn mấy khả năng ứng dụng như nhân chủng học, sử học, thần học. Hoặc ngành công nghiệp giải trí (phim ảnh, báo chí, thể thao, giải trí nói chung), ngành chăm sóc sức khoẻ tinh thần đang ngày càng bành trướng và là một trong những ngành vẫn tăng trưởng lợi nhuận so với các ngành công nghiệp cũ đang chết dần; thì các trường nói riêng và toàn nền giáo dục nói chung tăng đầu tư cho các ngành đó. Cũng phải nói thêm, điều này thực hiện được là vì các trường học của Mỹ, nhất là trường tư, khá độc lập về tài chính và vận hành không chịu các kiểm soát về khung chương trình bắt buộc hay sử dụng tài chính từ một thứ Bộ hay Sở giáo dục nào; tuy rằng họ cũng có hội đồng kiểm soát riêng.
Để làm điều thứ hai, khi nhận sinh viên vào trường, giáo dục Mỹ áp dụng một mô hình chuyên môn hóa đối với việc học. Thay vì việc dựng một khung chương trình bắt buộc mà tất cả các sinh viên của một ngành học phải theo học giống hệt nhau, các trường Đại học tại Mỹ chỉ yêu cầu sinh viên mỗi ngành học một số lớp cơ bản, có tính nền tảng cho ngành; còn lại, họ được tự do chọn lớp học bổ trợ theo ý họ; sao cho họ có thể củng cố kỹ nhất kiến thức trong chuyên ngành hẹp của mình và trở thành chuyên gia ở lĩnh vực của họ. Lấy ví dụ như trong ngành công tác xã hội; sinh viên sẽ phải học bắt buộc một số lớp về các lý thuyết đưa đến đói nghèo và bất bình đẳng xã hội, về phương pháp nghiên cứu, về phát triển con người, và phải thực tập bắt buộc 2 năm. Nhưng ngoài những đòi hỏi trên, sinh viên sẽ được tự do chọn lớp để học và chọn nơi thực tập sao cho phù hợp nhất. Nếu bạn muốn tập trung vào nhóm đối tượng trẻ em chẳng hạn, bạn có thể học thêm các lớp về sự phát triển sinh lý của trẻ em, về tâm lý trẻ em, về quá trình hình thành nhận thức ở trẻ, về cách mà đứa trẻ học, vân vân... Trong mỗi một lĩnh vực nhỏ này, bạn có thể tự chọn thêm các lớp chuyên sâu; lấy ví dụ như đối với quá trình phát triển tâm lý, bạn lại rẽ nhánh tập trung vào phát triển tâm lý của trẻ bình thường, hay là trẻ bị khuyết tật, hay trẻ nghèo, trẻ sinh trong gia đình mà bố mẹ li dị hoặc liên tục có xung đột. Nói tóm lại là bạn sẽ học tập trung vào một lĩnh vực nhỏ mà bạn có thể ứng dụng để làm việc khi tốt nghiệp.
Sẽ có một vấn đề nảy sinh cho hướng giáo dục này là đôi khi nhà trường không có đủ lớp học và giáo viên cho tất cả các lĩnh vực hẹp trong một ngành. Giả sử như tôi muốn học về thời kỳ thuộc địa tại Việt Nam, tôi sẽ không tìm được lớp học hoặc giáo viên trực tiếp làm về vấn đề này vì, giả sử, khoa sử của trường tôi chỉ tập trung vào mảng lịch sử Mỹ, Châu Âu, Châu Phi và một phần Châu Á (Nhật, Trung Quốc, Ấn Độ) chứ không có Đông Nam Á. Để giải quyết vấn đề này, các trường học khuyến khích sinh viên đăng ký các lớp học độc lập (independent study hoặc independent reading). Theo cách này, sinh viên sẽ tìm một giáo sư gần nhất với lĩnh vực mà mình quan tâm (ví dụ như tôi tìm giáo sư về chính sách thuộc địa của Pháp); sau đó, sinh viên và giáo sư sẽ tự xây dựng danh sách các sách nên đọc, tự xây dựng lịch đọc, lịch gặp gỡ và nói chuyện về chủ đề, vv... Thậm chí, cho một lớp độc lập như thế, sinh viên có thể cùng lúc học với hai, ba thầy để bổ sung kiến thức cho nhau. Theo cách đó, tôi phải tự đọc và học rất nhiều. Nói tóm lại, sẽ không có chuyện sinh viên tốt nghiệp ra giống hệt nhau về các lớp học và chỉ có kiến thức chung chung; mà thường họ có kiến thức định hướng để áp dụng làm việc.
Nhìn lại giáo dục đại học ở Việt Nam mà tôi biết: hãy lấy ví dụ cụ thể là trường Ngoại thương mà tôi theo học từ năm 1995 đến năm 2000. Trong 5 năm, tất cả sinh viên học các lớp giống hệt nhau: một lớp thanh toán quốc tế, một lớp luật trong ngoại thương, một lớp bảo hiểm, một lớp vận tải; một lớp kế toán – tài chính; thậm chí học cả những lớp như Dân số, Giao tiếp quốc tế, vv... Tốt nghiệp ra, nhìn chung sinh viên đều chỉ có kiến thức chung chung giống nhau, một tí về bảo hiểm, một tí về thanh toán quốc tế, một tí về luật, một tí kế toán, một tí về kỹ năng giao tiếp trong đàm phán, vv... Khi đi làm cụ thể, sinh viên rất lúng túng và hầu như sẽ phải tự đào tạo lại. Lẽ ra, chỉ nên có một số lớp bắt buộc; còn lại, sinh viên nếu muốn chuyên sâu vào bảo hiểm hàng hoá trong ngoại thương thì nên chỉ chọn học các lớp chuyên sâu; sinh viên muốn làm về thanh toán quốc tế nên học chuyên sâu vào lĩnh vực đó. Những môn như Dân số, Giao tiếp quốc tế, vv... nên coi là môn tự chọn, ai thích thì học, ai không thích thì mạnh dạn bỏ hẳn; không nên đào tạo ra những người biết chung chung, hoàn hảo chung chung. Như thế, vừa đào tạo được một đội ngũ có chuyên môn chắc ở các lĩnh vực khác nhau, vừa khiến sinh viên tập trung học vào những gì mình thích và không bị phân tán vào những thứ khác. Đây sẽ là một cách hiệu quả để tạo cho sinh viên sự hứng thú trong học tập; đồng thời tập cho họ suy nghĩ về công việc, định hướng sống của mình; cũng như suy nghĩ một cách thực tế, có mục đích với những kiến thức của mình và biết cách tước bỏ những thứ rườm rà.

Ưu việt rõ ràng của mô hình đào tạo để làm việc là nó sẽ liên tục có người khai phá những con đường mới trong lý thuyết và ứng dụng. Ví dụ như trong lúc sinh viên học chuyên sâu một ngành nào đó mà phải dùng tới kiến thức của nhiều lĩnh vực khác nhau, họ sẽ nảy ra những câu hỏi về những vấn đề mới, đưa đến những phát minh mới. Nói cách khác, sự mở đường có thể liên tục được manh nha trong quá trình học và nghiên cứu.

Sinh viên

1. Nâng cao tính tự chủ và quyền của sinh viên:
Giáo dục đại học nói riêng và giáo dục ở Mỹ nói chung chú trọng xây dựng con người có khả năng tư duy độc lập, biết điều mình muốn làm, biết cách suy nghĩ và ra quyết định, biết các quyền và nghĩa vụ của mình; cũng như biết cách thực hành các quyền ấy trong đời sống hàng ngày (ít nhất là tôi thấy biểu hiện của những điều này nhiều hơn rất nhiều so với Việt Nam). Trong giáo dục đại dục, để nâng cao tính tự chủ và quyền sinh viên, các nhà trường xây dựng một quy chế trong đó:

Giáo dục đại học nói riêng và giáo dục ở Mỹ nói chung chú trọng xây dựng con người có khả năng tư duy độc lập.

 

 

 

 

 

 

- Mỗi sinh viên được tự chọn lĩnh vực học, tự chọn lớp học và tự xây dựng lịch học cho mình. Họ không nhất thiết phải tốt nghiệp trong 4 năm, mà chỉ cần hoàn thành một số lượng học trình nhất định; họ có thể hoàn thành nhanh hoặc chậm tùy ý; tuỳ điều kiện; có người học 2 năm, rồi bảo lưu kết quả để đi làm, rồi lại quay lại trường học tiếp.
- Đầu mỗi kỳ học, giáo viên công bố lịch học cụ thể cho cả kỳ học (gọi là syllabus), trong đó ghi rõ các sách phải có cho học kỳ, các nội dung sẽ học với từng ngày lên lớp, và các bài sẽ đọc trong mỗi giờ lên lớp. Giáo viên có thể tải lịch học này lên mạng từ trước học kỳ, để sinh viên biết nội dung lớp học mà quyết định có chọn học hay không (thường sinh viên được khuyến khích đến gặp giáo viên để nói chuyện trước khi kỳ học bắt đầu, để có thể quyết định tốt hơn). Sinh viên thường phải đọc bài trước khi đến lớp và lớp học sẽ mang tính thảo luận, chứ không theo hướng thầy giảng – trò ghi bài.
- Sinh viên được khuyến khích tự học, tự đọc, tự tìm hiểu rất nhiều bên ngoài những gì giảng trên trường. Các bài tập hàng tuần hướng nhiều vào thực hành và kỹ năng phân tích vấn đề, chứ không phải hướng vào việc “thuộc bài”. Ví dụ như bài tập có thể yêu cầu sinh viên phải trực tiếp đi phỏng vấn bên ngoài, đi lấy số liệu để phân tích vấn đề hoặc đọc thêm rất nhiều để viết bài phân tích. Cũng trên khía cạnh này, hầu hết sinh viên Mỹ đều đi làm thêm, trong hoặc ngoài trường. Rất nhiều người làm các công việc bình dân như hầu bàn, đưa báo, lái taxi, khuân vác, bán hàng, vv... và họ thấy rất thoải mái, không có gì phải xấu hổ.
- Sinh viên có thể vay tiền của chính phủ, của trường hoặc các tổ chức tài chính thông qua trường để trả học phí; sau này đi làm, sinh viên sẽ trả lại tiền. Có những sinh viên vay nợ toàn bộ học phí để có thể đi học, tập trung học giỏi; sau khi tốt nghiệp, họ dùng lương trả nợ trong vòng vài năm. Ví dụ, một giáo sư mà tôi quen, mặc dù năm nay đã hơn 40 tuổi, vẫn đang tiếp tục trả nợ tiền học phí từ thời đi học đại học theo kiểu trả từng khoản nhỏ hàng tháng.
- Sinh viên có quyền sử dụng tất cả các cơ sở vật chất trong trường học như thư viện, nhà thể thao, phòng máy tính, lấy giấy chứng nhận điểm học, vân vân... Ví dụ như ở trường tôi (Đại học Chicago – University of Chicago ), mỗi lần vào thư viện, sinh viên tự tra sách, tìm sách trong kho, rồi mượn thoải mái về nhà; sinh viên có thể lấy điểm học bất cứ lúc nào, không mất lệ phí và không cần chữ ký mà có hệ thống chuẩn về việc này.
- Sinh viên được có tổ chức và đại diện để tham gia vào các quyết định của trường học hoặc của khoa, như quyết định về thay đổi chương trình học, quyết định về việc thay hiệu trưởng, quyết định về học phí, về bảo hiểm, về việc xây dựng trường, về các hoạt động xã hội, vân vân...
- Sinh viên có quyền và được khuyến khích trao đổi thẳng thắn với giáo viên; kiến nghị khi có các biểu hiện không lành mạnh ở giáo viên; yêu cầu thay đổi giáo viên không có trình độ chuyên môn, vv...
- Sinh viên có quyền được truy cập hồ sơ về bản thân mình, có quyền xem các nhận xét của giáo viên về bản thân (trừ khi họ ký giấy từ bỏ quyền này) và có quyền kiện khi giáo viên có nhận xét sai hoặc có biểu hiện phân biệt đối xử với mình.
- Cuối mỗi kỳ, sinh viên phải làm một bản đánh giá giáo sư của mình (bảng này không đề tên sinh viên) và điểm đánh giá của các giáo sư được công khai trong trường cho sinh viên xem. Thường trước mỗi học kỳ, khi chọn lớp học, sinh viên hay xem điểm đánh giá giáo viên các năm trước để quyết định.
- Sinh viên có quyền đề cử và bầu các giáo viên giỏi, có tâm huyết vào các chức danh; thay vì để cho nhà trường xét duyệt giáo viên giỏi. Thường cuối mỗi năm học, hiệu trưởng trường hoặc trưởng một khoa gửi thư cho sinh viên toàn trường yêu cầu đề cử giáo viên giỏi. Các sinh viên sẽ viết thư đề cử và ký tên gửi lên hiệu trưởng. Họ công khai các thư này và còn công khai viết thư để vận động trong trường cho giáo viên mà họ kính trọng.

2. Giảm sự coi trọng bằng cấp, điểm, và các thứ hình thức; chú trọng vào con người:

Đây có lẽ là điều mà tôi tâm đắc nhất với hệ thống giáo dục Mỹ nói riêng và hệ thống vận hành của nước Mỹ nói chung: nó chú trọng vào bạn, chính con người bạn – như một cá thể riêng biệt và trọn vẹn; chứ không phải dựa trên những thước đo hình thức chung chung. Điều này được thực hiện thông qua các hoạt động như:
- Việc chọn vào học đại học không thông qua một kỳ thi đại học mà thông qua xét hồ sơ cá nhân, bao gồm học bạ trung học, điểm thi các kỳ thi trắc nghiệm trình độ được chuẩn hoá bởi cơ quan độc lập (SAT), thư giới thiệu của giáo sư hoặc người quản lý, bài tự viết của thí sinh về mục đích và kế hoạch học tập, các tài liệu bổ trợ khác về kinh nghiệm cá nhân, hoạt động ngoại khoá, vv... Hình thức này có thể chưa thực tế ở Việt Nam; tuy nhiên, về lâu về dài, chúng ta nên nghĩ đến việc đánh giá con người dựa trên khả năng và tiềm năng tổng thể thay vì các biểu hiện hình thức và có tính rủi ro cao như thi đại học.
- Không công bố điểm của sinh viên một cách công khai với các sinh viên khác hoặc với giáo viên khác, trừ khi có lí do chính đáng. Nên coi chuyện điểm học là chuyện riêng tư, sinh viên có quyền giữ kín. Điều này để sinh viên có thể có một môi trường bình đẳng với nhau và với giáo viên; tạo cho sinh viên sự tự trọng. Đồng thời, sinh viên phải làm bài liên tục trong kỳ, giữa kỳ và một bài lớn cuối kỳ để tính điểm cho cả học kỳ chứ không theo phương thức “cái chết bất ngờ” như ở Việt Nam (tức là cả kỳ chỉ có một bài thi ở cuối kỳ).
- Không có chính sách ưu tiên với lớp trưởng, cán bộ hoặc con giáo viên. Nếu ai thích làm lớp trưởng hoặc chủ tịch hội sinh viên thì tự ứng cử và sau này sẽ có lợi trong hồ sơ xin làm việc hoặc học bổng; nhưng không đánh đồng hoạt động này với trình độ học hành; do đó không có chuyện cộng điểm cho người hoạt động.
- Sinh viên có quyền chọn học lấy điểm thông thường (A, B, C, D), hoặc chỉ nghe giảng mà không lấy điểm nhưng vẫn có tên môn học trong bảng điểm, hoặc lấy điểm theo chế độ Qua/Trượt (Pass/Fail); như vậy, sinh viên có thể tập trung sức vào những môn mình muốn học

Giáo dục đại học tại Mỹ tạo cho sinh viên môi trường để thực hành quyền làm chủ, nuôi dưỡng cảm giác mình là một người lớn, một công dân ngang bằng với những người khác, có tiếng nói, có sự tự tôn, có các quyền và nghĩa vụ mà mình phải làm. Nó cũng tập cho sinh viên cách tự suy nghĩ, tự ra quyết định và chịu trách nhiệm với các quyết định của mình. Nó tập cho họ sự trung thực, biết rằng sự thực được tôn trọng và do đó mà sống thẳng thắn hơn trong cuộc sống.

và không phải quá lo lắng về điểm ở những môn mình không quan tâm nhiều.
- Nếu sinh viên gặp khó khăn với một môn học dù đã hết sức cố gắng thì có thể nói chuyện với giáo viên để tìm sự giúp đỡ riêng; và miễn là bạn cố gắng, bạn sẽ được đánh giá về cố gắng của bạn. Ví dụ như trong lớp học về phân tích số liệu mà tôi là trợ giảng, có một số sinh viên đã lớn tuổi (trên 50 tuổi), cho nên họ rất chật vật với tính toán và các phần mềm phân tích số liệu mặc dù đã rất cố gắng. Trong trường hợp này, họ sẽ gặp gỡ với giáo sư và trợ giảng hàng tuần để học thêm. Khi xem xét bài làm của họ, chúng tôi thường châm chước các lỗi vì biết họ cố gắng rất nhiều.
- Không quá coi trọng điểm số trong quá trình xét học bổng, xin việc của sinh viên; mà xem xét mỗi người trong hoàn cảnh riêng của họ, xem xét nỗ lực, khả năng và tiềm năng của họ.

SOURCE: TẠP CHÍ TIA SÁNG

6 KIẾN NGHỊ VÈ ĐÀO TẠO TIẾN SĨ Ở VIỆT NAM

TRẦN VĂN THỌ

Trong khi dư luận báo chí và những người hiểu biết cảnh báo về sự lạm phát về văn bằng tiến sĩ, thì những người có trách nhiệm của nhà nước vẫn tiếp tục đưa ra mục tiêu thiếu căn cứ khoa học (cho đến năm 2010 phải có 19.000 tiến sĩ!) và để đạt mục tiêu, đã đưa các chỉ tiêu xuống các cơ sở giáo dục đào tạo mà theo chuẩn mực quốc tế còn rất xa mới đủ năng lực để dạy bậc tiến sĩ. Phải chăng là do Nhà nước có ảo tưởng là cứ tăng số lượng nguời có bằng tiến sĩ là có đủ “nhân tài” gánh vác công cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Còn xã hội thì ngày càng chạy theo bằng cấp, có bằng càng cao càng dễ được đề bạt lên các chức vụ cao hơn.

Gần 10 năm truớc, trên mục “Ý kiến nhà khoa học” (báo Nhân Dân, 7.1997), tôi đã viết rõ những yêu cầu của một luận án tiến sĩ và trình độ học vấn của một người có tư cách bảo vệ luận án. Tôi cũng giới thiệu trường hợp của Đại học Thammasat, một đại học dạy kinh tế lâu đời nhất của Thái Lan. Trong số gần 60 giáo sư, phó giáo sư và giảng viên chính của khoa kinh tế trường nầy, có hơn 2/3 là những người đã học và lấy bằng tiến sĩ từ các nước tiên tiến, phần lớn là từ các đại học hàng đầu của Mỹ, nên về mặt số giáo sư có tư cách hướng dẫn, họ đã có đủ nhưng các điều kiện khác không cho phép nghiên cứu sinh tại Thái Lan cập nhật với các nghiên cứu mới trên thế giới nên họ chưa đào tạo. Vào thời điểm hiện tại, Đại học Thammasat vẫn còn rất thận trọng mặc dù lực lượng giáo sư của họ hùng hậu hơn truớc và họ đã chính thức xây dựng chương trình đào tạo tiến sĩ nhưng mỗi năm cũng chỉ cấp 4 hoặc 5 văn bằng. Một người bạn của tôi đang dạy ở đó giải thích: Vì muốn văn bằng tiến sĩ tại Thái Lan tương đương chất lượng với văn bằng tại các nước tiên tiến nên chúng tôi chủ trương không đào tạo nhiều, nên chỉ những sinh viên giỏi và quyết chí học mới thi đỗ và học đến khi lấy được bằng.
Thật ra Đại học Thammasat không phải là trường hợp cá biệt mà sự nghiêm túc đó rất phổ biến tại các nước. Tôi cũng đã kiến nghị trước mắt cần có kế hoạch tích cực gửi nhiều người đi học ở nước ngoài sau nầy chính những người nầy sẽ đảm nhận việc đào tạo bậc tiến sĩ.

Cái gốc của vấn đề là gì?
Trên báo Tia Sáng số 17 (tháng 9 năm 2003), tôi có viết chi tiết về chuẩn mực của luận án tiến sĩ, về điều kiện học lực của người có tư cách bảo vệ luận án và người có tư cách hướng dẫn nghiên cứu luận án tiến sĩ. Nay xin rút gọn lại thành một đề nghị gồm mấy điểm mà tôi cho là cơ bản nhất:
1/ Cần thống nhất phương châm cơ bản là văn bằng tiến sĩ đào tạo ở Việt Nam (VN) phải tương đương chất lượng với văn bằng tại các nước khác. Không thể cho rằng trình độ phát triển kinh tế, xã hội VN còn thấp thì phải chấp nhận văn bằng có giá trị thấp.
2/ Nhà nước không giao chỉ tiêu đào tạo đến các viện, các truờng, và không tạo điều kiện cho quan chức đi học tại chức để lấy bằng tiến sĩ (quan chức nhà nước chỉ cần có bằng đại học, không xem học vị thạc sĩ hay tiến sĩ là tiêu chuẩn để đề bạt).
3/ Tạm ngừng các chương trình đào tạo tiến sĩ tại các viện, các trường cho đến khi có chính sách mới, đồng thời tiến hành lập các hội đồng thẩm định gồm những nhà khoa học có uy tín trong và ngoài nước với nhiệm vụ thẩm định, đánh giá tư cách đào tạo tiến sĩ của các trường, các viện và các giáo sư. Công khai trên báo đài tên tuổi, thành tích khoa học của những thành viên trong các hội đồng thẩm định.

----------------------------------------------------

Hiện nay Bộ Giáo dục và Đào tạo đang có kế hoạch cải thiện chương trình đào tạo tiến sĩ. Đó là ý định tốt. Tuy nhiên, không thể chỉ sửa đổi các tiêu chuẩn, điều kiện liên quan đến luận án, đến quy trình đánh giá luận án và đưa chỉ thị mới xuống các cơ sở đào tạo hiện nay là cải thiện được tình hình. Phải giải quyết cái gốc của vấn đề.

---------------------------------------------------

4/ Sau chừng nửa năm hoặc một năm hoạt động của các hội đồng thẩm định, công bố danh sách các trường, các viện và tên các giáo sư đã qua thẩm định và được thừa nhận có tư cách đào tạo tiến sĩ. Các cơ quan này được phép tiếp tục các chương trình đào tạo tiến sĩ.
5/ Những nghiên cứu sinh đã được nhận vào các viện, các trường không đủ tư cách đào tạo tiến sĩ phải thi lại vào các viện, các trường có tư cách đó.
6/ Khuyến khích những “tiến sĩ” đã lấy bằng tại các cơ sở không đủ tiêu chuẩn mạnh dạn xin bảo vệ lại tại những viện, những trường có đủ tiêu chuẩn đào tạo. Trong tương lai, những tiến sĩ chân chính sẽ ghi thêm chi tiết về nơi được đào tạo trong danh thiếp hoặc trong các giấy tờ liên hệ, và như vậy những tiến sĩ không đủ tiêu chuẩn phải bảo vệ lại hoặc tự đào thải.
Những đề nghị này tập trung giải quyết trên căn bản vấn đề tiêu chuẩn của các cơ sở đào tạo và của các giáo sư, phó giáo sư và hẳn sẽ gặp phải sự phản kháng của những cơ cở và của những người không đủ tiêu chuẩn. Nhưng không thể có phương pháp nào khác để giải quyết tình trạng hiện nay.
Dư luận phê phán “chợ luận án”, lên án người đi mua và bán luận án nhưng tôi lấy làm lạ là không ai đặt câu hỏi “làm sao những người mua luận án đã bảo vệ thành công và lấy bằng tiến sĩ? Họ đã bảo vệ tại đâu, ai ở trong hội đồng chấm luận án ấy? Làm sao nhờ người khác thi hộ để được ghi danh học tiến sĩ mà giáo sư hướng dẫn sau đó không phát hiện được? Chung quy cái gốc vẫn là ở cơ sở đào tạo và ở người hướng dẫn làm luận án.
Tiến sĩ ở VN hiện nay quá nhiều. Ít nhất là trong bộ máy nhà nước và trong giới doanh nghiệp, số người có bằng tiến sĩ ở VN nhiều hơn hẳn ở Nhật Bản là nước đông dân hơn nhiều và có thu nhập đầu người gấp 75 lần VN. Nếu đề án 6 điểm này được thực hiện thì mỗi năm số người lấy được bằng tiến sĩ tại VN sẽ ít hẳn đi, nhưng thay vào đó, ta sẽ không còn thấy tình trạng học vị tiến sĩ xuất hiện tràn lan trên báo, trên các tạp chí, trong bản ghi chương trình của những hội thảo thông thường của các cơ quan trong nước. Và đó là trạng thái bình thường ở giai đoạn phát triển hiện nay của đất nước ta./..

SOURCE: TẠP CHÍ TIA SÁNG

Thứ Bảy, 29 tháng 12, 2007

CÂU CHUYỆN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHÓAN VIỆT NAM

NGUYỄN VĂN MINH

Rửa tiền Có hay không chuyện rửa tiền trên sàn chứng khoán Việt Nam? Có. Và đó không phải là ý kiến riêng của tôi mà chính ông Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Phùng Khắc Kế đã cảnh báo. Đây cũng là chuyện bình thường. Khu vực kinh tế ngầm ở Việt Nam, theo một nghiên cứu của WB, có thể đạt tới giá trị 50% GDP, tức không dưới 25 tỷ USD1. Đã ngầm nghĩa là tiền không sạch, nên nhu cầu rửa là chuyện tất nhiên.

Nguyên tắc cơ bản trong đầu tư tài chính là phải sinh lời: tiền đẻ ra tiền. Chính vì vậy mà các nhà đầu tư tìm mọi cách, huy động mọi nguồn lực để xác định cho mình một chiến lược đầu tư hợp lý. Nhưng rửa tiền thì không theo nguyên tắc này. Người ta sẵn sàng mất một nửa để biến tiền bẩn thành sạch. Thử hỏi bạn sẽ buôn bán như thế nào với người có rất nhiều tiền, nhưng cốt yếu đi buôn là để tiêu tiền chứ không làm tiền. Thị trường sẽ biến động liên tục, thất thường không theo một qui luật nào. Và người chịu thiệt hại nhiều nhất chính là các nhà đầu tư nhỏ lẻ. Họ thiếu thông tin, họ mua bán theo phong trào, nhưng khổ nhất là họ phải kết bè, kết bạn với những người không cùng mục đích kinh doanh.
Mới đây, khi Thủ Tướng chính thức có yêu cầu tăng cường công tác kiểm tra, xử lý vi phạm, kiểm soát nguồn vốn đầu tư, tăng tính công khai minh bạch, ngăn chặn có hiệu quả các hiện tượng lừa đảo, đầu cơ, thị trường đã có phản ứng tích cực – chỉ số VN-Index liên tục giảm trong sáu phiên liền (từ 19-03 đến 28-03), chấm dứt mối lo ngại về độ nóng không đáng có bấy lâu nay. Nhưng chúng tôi chỉ lo, khi ta thiết lập được các thể chế, chế tài đủ mạnh, ngăn chặn được tiêu cực thì tiền cần rửa người ta đã rửa xong.

Chứng khoán và ngân hàng, tuy hai mà một

Ai cũng biết chứng khoán và ngân hàng là hai kênh huy động vốn hiệu quả cho nền kinh tế. Điểm khác biệt cơ bản là khi gửi tiền vào ngân hàng – chúng ta đang trao quyền quyết định đầu tư đồng vốn của mình cho một người hoặc một nhóm người (Tổng Giám đốc hay Hội đồng quản trị của ngân hàng); còn khi tham gia thị trường chứng khoán (TTCK)– chính chúng ta sẽ là người quyết định số phận đồng vốn của mình. Vì thế qui mô huy động vốn cũng như khả năng chia sẻ rủi ro trên TTCK sẽ cao hơn nhiều. Nền kinh tế tựa lưng vào TTCK sẽ vững chãi hơn nền kinh tế chỉ có hệ thống ngân hàng. Như vậy, từ nay chúng ta có thể yên tâm vì nền kinh tế Việt Nam đã có cả ngân hàng lẫn TTCK. 
Không hẳn như vậy. Thay vì là đối trọng chiến lược của TTCK, hệ thống ngân hàng thương mại hiện nay đang bị guồng quay lợi nhuận của chứng khoán cuốn theo. Ngân hàng đang trở thành người chơi đắc lực trên thị trường. Ngân hàng có tên tuổi thì đua nhau phát hành cổ phiếu, tăng vốn điều lệ; ngân hàng chưa có tên tuổi thì đua nhau đổi tên – đẹp hơn, kêu hơn, tung hoành ngang dọc trên thị trường OTC; ngân hàng đang thai nghén thì đua nhau tăng tốc cho sớm ra đời (chỉ tính đến cuối tháng 3-2007 đã có hơn 10 bộ hồ sợ nộp NHNN xin mở NHCPTM)2. Dường như người ta đang quên mất nhiệm vụ chính của ngân hàng là cung cấp dịch vụ tài chính phục vụ cộng đồng và điểm tựa về vốn cho nền kinh tế. Trong khi áp lực cạnh tranh ngày càng lớn. Theo các cam kết gia nhập WTO, kể từ ngày 01-04-2007, các ngân hàng có 100% vốn nước ngoài bắt đầu được hoạt động tại Việt Nam, được đối xử bình đẳng và được thực hiện phần lớn các nghiệp vụ như ngân hàng trong nước. Thiết tưởng, đây là lúc các ngân hàng Việt Nam phải vắt chân lên cổ mà chạy: mở rộng chi nhánh, tăng cường dịch vụ, nâng cấp chất lượng phục vụ... Đằng này, có vẻ như lợi ích của một nhóm người (một nhóm cổ đông nào đó) đang lấn át lợi ích cộng đồng. Cứ tưởng rằng, phát triển TTCK, nền kinh tế có thêm một chân cho vững, ai dè chân cũ lại dẫm lên chân mới – nguy cơ vấp ngã quá cao, làm sao yên tâm đây.

Bản sắc của thị trường
Người Việt mình làm gì cũng có bản sắc riêng, chơi chứng khoán cũng vậy. Lịch sử chứng khoán thế giới chưa từng ghi nhận một trường hợp nào mà thị trường biến động kỷ lục như ở ta. Chỉ riêng năm 2007, tính đến ngày 12/03 - VN-Index đã kịp tăng 56%, và ngay hai tuần tiếp sau đó đã cũng kịp giảm 12,5%. Thế mà mọi người xem đây là hiện tượng “hết sức bình thường” – thị trường chỉ điều chỉnh chút đỉnh cho phù hợp với thực tế. “Chút đỉnh” này đã kịp làm lao đao hàng loạt các nhà đầu tư nhỏ. Rõ ràng đây là những dấu hiệu của một thị trường tiềm ẩn quá nhiều rủi ro. Và nguyên nhân chính là tình trạng làm giá, thông tin nội gián, móc nối trục lợi. Có lẽ chưa một nơi nào mà các đại gia chứng khoán có thể thao túng và điều khiển thị trường dễ dàng như ở ta trong thời gian qua. 
Chưa hết, cứ phải lên sàn bạn mới cảm nhận đủ sự khác biệt. Đầu giờ sáng, người ta chen nhau nộp tiền. Vào thời cao điểm, nhà đầu tư ùn nhau đặt lệnh mua bán, ngồi phệt cả ra nền nhà để xem các con số nhảy nhót, hay bày tiền tràn lan ra sàn mà đếm. Lúc lên giá thì đua nhau mua, lúc xuống sàn thì tìm không ra mẫu đơn để đặt lệnh bán. Nhộn nhịp và tấp nập. Tuy nhiên, quan sát cảnh này, không thể dứt bỏ được cảm giác, dòng người đang là con rối trong tay những kẻ điều khiển vô hình. Họ là ai? Là các đại gia? Là những nhà đầu tư nước ngoài? Là ai khác nữa? Hay là chính chúng ta đang tự biến mình thành con rối cho các con số giật dây?
Có lẽ vì thế mà gần đây, nhiều người đã lên tiếng nhận xét về tính phong trào, tính bầy đàn của thị trường chứng khoán Việt Nam. Tôi thì không nghĩ vậy. Chợ quê dĩ nhiên không thể bằng chợ phố: hàng hóa ít hơn, nghèo nàn về chủng loại, cách buôn bán, lối tổ chức cũng không thể nào so sánh. Nhưng chợ quê cũng có những nét đẹp mà chợ thành phố không thể nào có được, đó là chưa kể nếu đem so về giá trị đối với cộng đồng thì chưa biết chợ nào “ăn” chợ nào. Đơn giản là vì cộng đồng thế nào sẽ sản sinh ra chợ thế ấy. Nền kinh tế thị trường của chúng ta mới bước sang tuổi 20. Chứng khoán Việt Nam vừa lên bảy. Người chơi chứng khoán thì qua một đêm – nghiễm nhiên trở thành nhà đầu tư, cơ quan quản lý nhà nước vừa làm vừa dò dẫm. Trong khi ở các nước tiên tiến kiểu thị trường này đã có cách đây hàng trăm năm (TTCK Philadelphia ra đời năm 1754, New York - 1792, London –1801, Tokyo - 1878), nên chúng ta có ngây ngô, nhà quê trước họ cũng là chuyện bình thường.
Nhưng quan trọng hơn tất cả, theo tôi, chính sự ngây thơ của chứng khoán đang thổi vào đời sống tinh thần xã hội một làn gió mới, một niềm tin mới. Tin rằng, không chỉ có chốn quan trường mới có thể làm nên phú quí. Vẫn còn nhiều con đường khác, sự giàu có và thành đạt thực sự đang ở rất gần, hoàn toàn nằm trong tầm với của rất nhiều người, đặc biệt là những người trẻ tuổi có tri thức. Và niềm tin đã thôi thúc dòng người sáng sáng từ thứ 2 tới thứ 6 nối đuôi nhau lên sàn tìm cơ hội. Và tôi hiểu rằng niềm tin này với ai đó (không phải là với tất cả) là hoàn toàn không ngây thơ chút nào.
------------------
1 Stoyan Tenev, Amanda Carlier, Omar Chaudry, Nguyễn Quỳnh Trang. "Hoạt động không chính thức và môi trường kinh doanh ở Việt Nam". IFC, Ngân hàng Thế giới và MPDF. Hà Nội, Thông tấn, 2003. tr. 18
2 Hàng loạt NH cổ phần nông thôn trước đây tưởng như đã giải thể, nay đã được các tập đoàn kinh tế lớn đổ vốn và nâng cấp thành NH đô thị, mở rộng quy mô, mạng lưới hoạt động. NH TMCP Nông thôn Đồng Tháp Mười đã công bố chuyển đổi mô hình hoạt động thành NH đô thị và đổi tên thành NH TMCP Xăng dầu Petrolimex (PG Bank). Nhiều tập đoàn lớn trong nước cũng đã góp vốn để trở thành cổ đông chính của các NH. NHTMCP Sài Gòn - Hà Nội (SHB) đã thỏa thuận hợp tác chiến lược toàn diện với Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV) và Tập đoàn công nghiệp Cao su Việt Nam (VRG). Ngân hàng Phát triển nhà Đồng bằng sông Cửu Long (MHB) cũng đã ký thoả thuận hợp tác chiến lược với VNPT. EVN và Petro VN hiện đã có cổ phần lớn trong NH cổ phần An Bình (ABBank) và Toàn Cầu (G-Bank). Nhiều NHTMCP cũng thi nhau đổi tên cho “đẹp” hơn như NHTMCP Nông thôn Ninh Bình đổi thành NHTMCP Toàn Cầu (G-Bank); NHTMCP Nông thôn Sông Kiên đổi thành NHTMCP Nam Việt (Navibank) – cổ phần của các ngân hàng này hiện giao dịch rất sôi động trên thị trường OTC.

SOURCE: TẠP CHÍ TIA SÁNG

TƯ HỮU HÓA THEO CÁCH NGA VÀ BÀI HỌC CHO CHÚNG TA

NGUYỄN VĂN MINH

Gần đây nói tới việc đẩy nhanh quá trình tư nhân hóa, giảm tỉ trọng cổ phần của nhà nước trong các doanh nghiệp cổ phần. Vì vậy việc tìm hiểu kinh nghiệm tư hữu hóa (THH) của nước Nga là một việc hết sức cần thiết và có ý nghĩa thiết thực.

Trước hết, cần phải nói ngay, THH và cổ phần hóa là hai khái niệm khác nhau. Cổ phần hóa là quá trình chuyển đổi cơ cấu quản trị: từ doanh nghiệp nhà nước sang doanh nghiệp cổ phần. Còn THH là quá trình chuyển đổi sở hữu: từ sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể sang sở hữu tư nhân. Như vậy, cổ phần hóa và THH sẽ có điểm gặp nhau khi quá trình thay đổi cơ cấu quản trị làm chuyển đổi cơ cấu sở hữu từ nhà nước sang tư nhân. Hiện nay, quá trình tư nhân hóa ở nước ta chưa diễn ra mạnh mẽ, nhưng đây sẽ là một làn sóng tất yếu trong tương lai không xa. Vì không cần chứng minh thì ai cũng biết sở hữu tư nhân là động lực cơ bản để phát triển kinh tế thị trường.

Tư hữu hóa ở Nga
Nhận thức rõ điều này, Chính phủ Nga ngay trong giai đoạn đầu cải cách 1990-1994  đã xem THH là một trong 4 nhiệm vụ cơ bản. Tuy nhiên, ngay từ đầu công cuộc THH ở Nga đã gây nhiều tranh cãi. Các nhà cải cách đứng trước hai lựa chọn. Một, sẽ tiến hành THH từ từ, từng bước, trao tài sản vào tay chủ sở hữu mới, thực sự sử dụng tài sản hiệu quả, với giá cao nhất có thể. Hai, tiến hành THH “chớp nhoáng”, nhanh chóng, phân phát không tài sản quốc hữu cho toàn dân. Dĩ nhiên, ai cũng hiểu cách làm thứ nhất sẽ mang lại cho quốc gia nhiều lợi ích hơn, nhưng nó lại đòi hỏi thời gian và một hệ thống chính trị ổn định. Cả hai thứ mà vào thời điểm đó (1990-1991) nước Nga non trẻ đều không có. Dưới nhiều áp lực về kinh tế, chính trị, thậm chí không ngoại trừ động cơ cá nhân và tác động mạnh mẽ của phương Tây, các nhà cải cách trẻ ở Nga đã quyết định lựa chọn phương án hai.
Kết quả là từ năm 1992-1994 trên toàn Nga đã có 125.514 doanh nghiệp nhà nước đăng ký THH, trong đó đã thực hiện chuyển đổi sở hữu được 88.814 doanh nghiệp. Nhà nước thu về 760 tỷ rúp (tương đương - 3.7 tỷ USD với giá cuối năm 1992) – một con số quá ít ỏi so với giá trị thực của tổng tài sản đã đưa ra chào bán. Sở hữu của nhà nước được chia nhỏ cho một nhóm người, tạo nên một giới kinh tế thượng lưu bao gồm các nhà tài phiệt và các ông trùm kinh tế “đen”. Có thể nhận thấy rõ điều này khi phân tích dữ liệu về thu nhập và tích luỹ xã hội. Theo đó 5% dân số thuộc tầng lớp giàu và rất giàu chiếm 73% tích luỹ toàn xã hội và 80% ngoại tệ lưu hành dưới dạng tiền mặt. Chênh lệch trong thu nhập giữa tầng lớp giàu – nghèo có lúc lên đến hàng nghìn lần (1360 lần theo số liệu năm 1997). Việc hóa giá các tài sản quốc gia, cố tình tạo quá trình phá sản ảo để giảm giá thành các nhà máy, tổ hợp kinh tế nhà nước đã trở thành bước đi quen thuộc của quá trình THH. Ví dụ: Tập đoàn khí đốt lớn nhất thế giới ROS “Gazprom” được định giá khoảng 300 tỷ rúp (tương đương 12 tỷ USD, trong khi giá của công ty Mỹ tương đương “Chevron Corp.” là 123 tỷ); ngân hàng tín dụng “Sberbank”, với hàng nghìn chi nhánh trên khắp nước Nga được đánh giá bằng 230 triệu USD, trong khi chi phí ngân hàng này bỏ ra để xây dựng trụ sở chính tại đường 60 năm Cách mạng tháng 10, Matxcơva (chỉ là một trong hàng nghìn trụ sở) đã vượt quá con số 300 triệu USD (!!!).
Điều đáng lưu ý là quá trình THH đã đưa đến kết cục: toàn bộ số lợi tức từ sử dụng tài nguyên thiên nhiên của Nga tập trung trong tay các nhà tài phiệt, các tập đoàn tài chính thân Chính phủ hoặc các tổ chức kinh tế “đen” – lực lượng này chiếm khoảng 7-10% dân số đất nước.

Bài học cho Việt Nam
Tất nhiên, hoàn cảnh kinh tế, chính trị của nước ta hôm nay khác nhiều so với nước Nga vào những năm 1990. Nhưng không phải vì thế mà chúng ta không học hỏi được gì từ những kinh nghiệm xương máu trong quá trình THH của nước Nga xa xôi. Những bài học đó là gì?
THH chỉ là công cụ chứ không thể là mục đích. THH trên con đường phát triển kinh tế thị trường, tự do hóa thương mại và hội nhập quốc tế là công việc tất yếu cần làm. Nhưng THH chỉ là một trong số nhiều công cụ để chúng ta tìm và tạo cho được các chủ sở hữu làm việc hiệu quả vì lợi ích cộng đồng. Việc chúng ta quên đi nhiệm vụ chính của quá trình THH là tìm cho được chủ sở hữu có đủ năng lực sử dụng tài sản quốc gia hiệu quả nhất là một sai lầm nghiêm trọng.
Muốn THH thành công cần thiết lập được một cơ chế định giá tài sản minh bạch và công khai. Việc hàng nghìn doanh nghiệp nhà nước của Nga đã được định giá thấp hơn hàng chục lần so với giá trị thực khi đem ra đấu giá là một minh chứng hùng hồn. Điều này đặc biệt quan trọng đối với hoàn cảnh kinh tế nước ta hiện nay. Các bạn chắc còn nhớ kết quả xếp hạng về chỉ số minh bạch của thị trường bất động sản (REIT-2006) do LaSalle Investment Management/Jones Lang LaSalle công bố cách đây không lâu. Theo đó, Việt Nam được xếp vào hàng thấp nhất của khu vực châu Á- Thái Bình Dương, đạt 4.69 điểm – thuộc loại không minh bạch (hạng dưới cùng của bảng xếp hạng). Mà bất động sản chỉ là một lĩnh vực trong vô số các lĩnh vực “nhạy cảm” khác còn chưa có điều kiện và khả năng để xếp hạng như: đầu tư, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm...
Tích lũy tư bản và trách nhiệm đối với lợi ích cộng đồng. Nếu chính phủ không hình thành được một cơ chế kiểm soát hữu hiệu thì có thể dễ dàng hình thành lên một lớp chủ sở hữu tư nhân mới, giàu có nhưng chỉ biết lo cho túi tiền của mình và hoàn toàn vô trách nhiệm (nếu không nói là quay lưng lại) với sự phát triển của cộng đồng. Điều này đặc biệt rất dễ xảy ra nếu một lúc nào đó chúng ta quyết định THH các doanh nghiệp khai thác tài nguyên thiên nhiên. Lợi tức có được từ khai thác khoáng sản sẽ không quay lại phục vụ cộng đồng mà thông thường sẽ được chuyển ra nằm im tích lũy ở các ngân hàng nước ngoài.
Chỉ giao tài sản vào tay những người chủ hiểu, quí trọng và biết cách ứng xử với tài sản.  Mơ ước sau một đêm sẽ hình thành hơn 40 triệu chủ sở hữu của A. Chubaiz đã không thể thành hiện thực, bởi một lý do hết sức đơn giản. Làm chủ cũng là một nghề, mà là một nghề không đơn giản. Muốn làm chủ hiệu quả thì ngoài rất nhiều yếu tố cần thiết khác, người chủ trước hết phải biết quí trọng và hiểu được giá trị tài sản mà mình đang sở hữu. Và quan trọng hơn chính anh ta phải bỏ sức lao động ra để có được tài sản đó.
Quan hệ giữa nhóm lợi ích, giới quan chức và người dân. THH là một quá trình phức tạp, liên quan đến những tài sản khổng lồ. Lợi ích càng nhiều, nhóm lợi ích càng đa dạng và phong phú. Kết quả THH sẽ biến dạng hoàn toàn nếu các nhóm lợi ích cá nhân này phối hợp chặt chẽ, cùng chia sẻ quyền lợi với giới quan chức tham nhũng. Tài sản quốc gia sẽ dễ dàng trao không một cách đàng hoàng vào tay chủ sở hữu mới bất chấp lợi ích cộng đồng. Quá trình THH ở Nga đã diễn ra gần như thế và kết quả thế nào thì các bạn đã thấy. Và đây cũng là điều mà chúng ta lo ngại nhất. Nền kinh tế thiếu minh bạch, tham nhũng không thể đẩy lùi, vận động hành lang trục lợi ngấm ngầm nhưng mạnh mẽ... đó là những dấu hiệu của một môi trường không thuận lợi chút nào cho quá trình THH.
Có thể thấy, quá trình THH ở nước ta hiện nay đang đi theo một lộ trình khác hẳn với nước Nga. Nhưng như thế không có nghĩa là chúng ta sẽ không gặp phải những vấn đề như người Nga đã từng gặp.

SOURCE: TẠP CHÍ TIA SÁNG

CÔNG TY GIA ĐÌNH KHÔNG QUYỀN NĂNG THẾ TỤC

TRẦN NGỌC THƠ

Khái niệm công ty gia đình “không quyền năng thế tục” trong bài viết này được hiểu theo nghĩa như một dạng công ty gia đình chân chính. Nó khác với khái niệm công ty gia đình mà báo chí trong nước thường dùng trong thời gian qua với hàm ý như là hệ quả tất yếu của một lỗ hổng chính sách trong các quy định pháp luật hiện hành.

Nếu xét theo quá trình phát triển, hầu hết các công ty gia đình trên thế giới đều bắt đầu với một doanh nhân sáng lập, họ kiêm luôn các công việc quản trị, là chủ sở hữu tuyệt đối và điều hành luôn doanh nghiệp. Khi quy mô kinh doanh ngày càng mở rộng, tính phức tạp ngày càng tăng lên và quyền sở hữu truyền lại qua nhiều thế hệ, tỷ lệ sở hữu của các thành viên gia đình có khả năng ngày càng không được tập trung như trước đây. Hệ thống quản trị gia đình lúc bấy giờ phức tạp hơn nhiều, gắn liền với hệ thống quản trị doanh nghiệp. Thường thì trong giai đoạn này, công ty đã trở thành công ty cổ phần. Mặc dù vậy, các thành viên gia đình vẫn nắm giữ cổ phần tập trung và kiểm soát được hoạt động của công ty.
Như vậy, có thể hiểu công ty gia đình là dạng công ty mà quyền sở hữu tập trung vào một hoặc một số thành viên trong gia đình. Ở một mức phát triển cao, công ty gia đình hàm ý đến các công ty “gia tộc”. Các công ty gia tộc có thể hoạt động dưới dạng một công ty cổ phần. Như Hàn Quốc, chẳng hạn, có các công ty gia tộc Samsung, Hyundai v.v. (gọi là các Chaebol). Các công ty gia tộc này có tới hàng trăm công ty con là công ty cổ phần, nhưng các công ty con này đặt ra điều lệ và khuyến khích mua lại cổ phần lẫn nhau để ngăn cản các nhà đầu tư bên ngoài tham gia vào công ty. Tài sản quý nhất của công ty gia đình là danh tiếng, là truyền thống và bản sắc độc đáo riêng của dòng tộc, họ không dễ gì để cho các thành viên ngoài gia đình sở hữu phần lớn cổ phần.
Do kiểm soát được quyền sở hữu, công ty gia đình có thuận lợi cơ bản là có thể dễ dàng đưa ra các quyết định có lợi cho dài hạn, điều mà các công ty cổ phần đại chúng (CTCP) có thể không dễ gì đạt được, do phải chạy theo các quyết định ngắn hạn để phục vụ quyền lợi trước mắt của một số cổ đông nào đó. Chẳng hạn như Joerg Bucherer, người được mệnh danh là ông vua của đồng hồ Thụy Sĩ, là thế hệ thứ ba của gia đình và chủ tịch hội đồng quản trị của công ty. Ông chỉ có một mục tiêu rất cụ thể và rõ ràng: phải trở thành người quản lý cao cấp để kế tục mục đích và triết lý kinh doanh của dòng họ Bucherer.
Thêm nữa, công ty gia đình ít khi gặp phải vấn đề rắc rối hơn so với CTCP, đó là vấn đề mâu thuẫn giữa ông chủ và người quản lý (các giám đốc là người làm thuê). Trong CTCP, do ông chủ sở hữu không có quyền quản lý, mà quyền này giao cho các giám đốc để tránh tình trạng vừa đá bóng vừa thổi còi. Chính vì sự tách rời giữa quyền sở hữu và quyền quản lý như thế, cho nên nảy sinh ra các mâu thuẫn mục tiêu trong một CTCP. Có khả năng mục tiêu của những người làm thuê (các giám đốc) không đồng nhất với mục tiêu của ông chủ. Ví dụ, những giám đốc chỉ có mục tiêu là làm sao mau chóng nổi tiếng (để chuyển sang công ty khác) và vì thế có thể họ chỉ lao vào các dự án mang lại đầy rủi ro cho các ông chủ. Vì vậy CTCP phải tốn kém rất nhiều thời gian, công sức và chi phí để giám sát các mâu thuẫn như thế, như chi phí kiểm toán, chi phí để thiết lập hệ thống kiểm soát nội bộ hữu hiệu... rất tốn kém.
Công ty gia đình ít gặp phải những rắc rối đến như thế và đó là thuận lợi để tăng khả năng cạnh tranh và triển khai thuận lợi các chiến lược phát triển dài hạn. Quản lý trong các công ty gia đình hướng tới sự đồng thuận, chứ không phải là theo đuổi một hệ thống giám sát đầy tốn kém như trong các CTCP.
Mặc dù vậy công ty gia đình không phải không có nhược điểm. Do bị kiểm soát bởi một nhóm nhỏ các thành viên gia đình, các thành viên có khả năng không theo kịp với những diễn biến của thị trường trong một thế giới ngày càng bất ổn để có thể thiết lập những chiến lược kinh doanh mới, hoặc những chương trình phòng ngừa và quản trị rủi ro hữu hiệu. Nói cách khác, công ty gia đình ít phải chịu sự kiểm soát của thị trường và của các cổ đông, vì thế có thể họ không dễ dàng tự nhận thấy hết các khuyết tật của mình.
Đó chính là nguy cơ tiềm ẩn của công ty gia đình. Ngoài ra, công ty gia đình cũng chịu nhiều rủi ro hơn, do phải luôn theo đuổi những dự án truyền thống và khó có điều kiện để đa dạng hóa rủi ro. Trong khi đó, các nhà đầu tư ở các CTCP dễ có điều kiện đa dạng hóa rủi ro của mình hơn bằng cách nắm giữ cùng lúc nhiều tài sản ở các thị trường khác nhau (chứng khoán, bất động sản, ngoại tệ), hoặc có thể họ sẽ bán cổ phiếu đi nếu CTCP hoạt động có vấn đề.
Các công ty gia đình có tổ chức khép kín nên vấn đề minh bạch thông tin không cao, hiện tượng các công ty con mua bán cổ phiếu bất hợp pháp diễn ra rất khó kiểm soát. Tình trạng lập sổ đen trong các công ty gia tộc để hối lộ các quan chức chính phủ cũng phổ biến không kém.
Đối với Việt Nam, việc phát triển công ty gia đình cần phải được nhà nước chú ý nhiều hơn nữa để có những chính sách hợp lý nhằm phát triển hơn nữa đối với loại hình công ty này. Nhưng trước hết, để có thể tồn tại trong đấu trường WTO, một trong những vấn đề có tính sống còn là các doanh nghiệp phải biết cách tạo ra những khác biệt, mà đây lại chính là ưu thế của công ty gia đình. Kinh nghiệm từ các quốc gia trên thế giới cho thấy muốn tạo ra những khác biệt thì ngoài việc phải có một triết lý và mục tiêu kinh doanh rõ ràng, điều quan trọng nhất là những người dự kiến kế thừa trong gia đình phải được trang bị một hệ thống các kiến thức hoàn chỉnh từ học nghề (kỹ thuật), sản xuất, thương mại đến quản lý tài chính và điều hành doanh nghiệp.
Chắc do nhận thức được tầm quan trọng của kiến thức nên ngay từ những ngày đầu của chương trình đào tạo 1000 Giám đốc liên kết giữa Đại Học Kinh Tế TP.HCM và Ủy Ban nhân dân TP.HCM cách đây gần 10 năm cho đến nay, chỉ thấy toàn là các gia đình Gạch, Gốm sứ, Bánh kẹo, Nước mắm, Nước tương... từ anh, em, vợ chồng đều đi học đông đủ, sau đó họ lại còn tiếp tục bỏ tiền túi ra tận nước ngoài học tập nữa chứ. Chẳng bù lại hầu như không có ai trong hằng hà vô số giám đốc các DNNN Rượu bia, Gia súc... lai vãng đến các lớp học này (chỉ có khoảng 1% giám đốc DNNN là đến học).
Thật tự hào đối với những doanh nhân ở các công ty gia đình. Nguời ta không nhắc đến các vị này như là những tỷ phú sở hữu bao nhiêu bất động sản hay họ có bao nhiêu tiền, mà những doanh nhân này được người đời nhớ đến ở chỗ họ đã tạo ra cho đời những thương hiệu là niềm tự hào của dân tộc, là nói đến những bức tranh thêu hay những viên gạch đậm tình quê hương, là nói đến bản sắc và tính cần cù của một dân tộc chịu thương chịu khó.
Nhắc đến các doanh nhân này là nhắc đến nhiều đời gia tộc trước đây của họ, thật vô cùng tự hào khi so với nhan nhản các “công ty gia đình” hiện nay ra đời là sân sau của ông này bà nọ, hay chỉ là “thứ phẩm” của một thứ quyền năng thế tục nào đó./.

SOURCE: TẠP CHÍ TIA SÁNG

CÁC KIỂU ĐẠO ĐỨC TRONG LỊCH SỬ, QUAN HỆ GIỮA ĐẠO ĐỨC VỚI CÁC HÌNH THÁI XÃ HỘI KHÁC

TS. Đinh Ngọc Quyên, ThS Hồ Thị Thảo, TS Lê Ngọc Triết

CÁC KIỂU ĐẠO ĐỨC TRONG LỊCH SỬ, TÍNH KẾ THỪA CỦA SỰ PHÁT TRIỂN ĐẠO ĐỨC.

Đạo đức là hình thái ý thức xã hội, là tổng hợp những nguyên tắc, qui định, chuẩn mực nhằm định hướng con người tới cái chân, cái thiện, cái mỹ, chống lại cái giả, cái ác, cái xấu…

Đạo đức nảy sinh do nhu cầu đời sống xã hội, là sản phẩm của lịch sử xã hội, do cơ sở kinh tế - xã hội quyết định.

Ngay từ chế độ cộng sản nguyên thủy ý thức của con người mong muốn đã được hình thành, từ đó được phát triển hoàn thiện dần trên cơ sở phát triển của hình thái kinh tế - xã hội nối tiếp nhau từ thấp đến cao.

Đạo đức trong xã hội cộng sản nguyên thủy.

Ý thức đạo đức phụ thuộc vào những điều kiện sinh hoạt vật chất, phương thức tìm kiếm và phân phối những phúc lợi cần thiết đến trình độ thỏa mãn nhu cầu sinh hoạt của con người.

Dưới chế độ công xã nguyên thủy, dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Tài sản cá nhân của người nguyên thủy chỉ là một số công cụ và đồ tiêu dùng của mỗi người chế tạo lấy.

Trong xã hội không có sự phân chia giai cấp, không có hiện tượng người bóc lột người, không có đầu óc làm giàu. Họ cùng nhau hái quả, đánh bắt cá, làm nhà, kỷ luật và quy tắc lao động được duy trì bằng sức mạnh của phong tục, tập quán, của dư luận xã hội, bằng uy tín và sự tôn kính đối với người tộc trưởng hay người phụ nữ.

Gắn liền với đời sống tinh thần là tôn giáo nguyên thủy, được sinh ra từ những hiểu biết hết sức mông muội, tối tăm và nguyên thủy của con người về bản thân họ và về tự nhiên bao quanh họ.

Tôn giáo nguyên thủy can thiệp vào toàn bộ hoạt động của công xã thị tộc và trở thành yếu tố cấu thành hoạt động thực tiễn và ý thức của người nguyên thủy. Trong những điều kiện đó, các dấu hiệu đạo đức xuất hiện.

Ví dụ: các qui định trong săn bắn (do kinh nghiệm đã tích lũy được) không những có ý nghĩa đối với nhu cầu sinh sống, còn đối với các yêu cầu tương trợ, đoàn kết cộng đồng cũng như việc giữ gìn tình ruột thịt trong thị tộc.

Như vậy, đạo đức ra đời rất sớm, xuất phát từ chính các hoạt động chung của thị tộc với những chế độ tự nhiên của chúng.

Nó có những đặc điểm sau:

- Tính cụ thể ­- cảm tính, trực quan và kinh nghiệm của đạo đức nguyên thủy.

Việc coi trọng, tuân thủ các hành vi giao tiếp, ứng xử và hoạt động cụ thể của cộng đồng là biểu hiện ý thức đạo đức của người nguyên thủy. Mọi thành viên thực hiện bất kỳ một hành vi đạo nào bao giờ cũng theo thói quan, đối với họ việc bắt chước các mẫu hoạt động đạo đức là một yêu cầu bắt buộc. Nhờ đó các tập quán, phong tục, các điều cấm kị, lễ nghi, các định kiến, dư luận xã hội đã tồn tại rất dai dẳng trong các hiện tượng cụ thể - cảm tính.

- Các bộ lạc còn lại đến nay ở Châu Mỹ, Châu Phi còn giữ nguyên truyền thống không cãi cọ nhau, biết nghe lời người lớn tuổi và xem đó là cái thiện. Ngược lại bất kỳ hành vi nào không theo đúng phong tục, tập quán đều bị xem là ác.

- Trình độ phát triển rất thấp về kinh tế - xã hội và văn hóa của con người nguyên thủy đã làm cho họ có một số đặc điểm gần giống như một loài động vật như hoạt động ăn thịt người ở thời kỳ đầu của chế độ công xã nguyên thủy, hoạt động đó chỉ mất khi nền kinh tế và văn hóa của xã hội phát triển cao hơn, và chỉ đến đó nó mới trở thành một việc thất đức.

- Tính hợp tác, tính công bằng, thông cảm, tương trợ của đạo đức nguyên thủy.

Trong điều kiện sản xuất thấp kém, sự hợp tác là yếu tố hàng đầu tạo nên hiệu quả trong lao động tập thể.

Sự hợp tác ở đây là hợp tác giản đơn trong điều kiện kinh tế tự nhiên chưa có sự khác biệt giữa lợi ích cá nhân với cá nhân, cá nhân với cộng đồng.

Tính công bằng – bằng nhau không chỉ trong hưởng thụ mà còn trong tất cả quan hệ khác. Tất cả những gì có ích cho bộ lạc được coi là điều thiện, có hại bị coi là điều ác.

Điều này tạo ra sự ổn định hợp lý và bình đẳng xã hội trong điều kiện con người chưa sản xuất ra sản phẩm dư thừa, đời sống còn quá thấp. Khả năng tồn tại của đạo đức giai cấp cũng như của đạo đức có ý nghĩa nhân loại phổ biến có cơ sở ở nguyến tắc này.

Đạo đức trong xã hội chiếm hữu nô lệ

Sự xuất hiện của giai cấp dẫn tới sự tan vỡ của ý thức đạo đức thống nhất trong nội bộ cộng đồng xã hội. Nhưng so với chế độ công xã nguyên thủy, thì xã hội chiếm hữu nô lệ tiến hơn một bậc.

Phù hợp với sức sản xuất tiến bộ hơn của chế độ chiếm hữu nô lệ là quan hệ sản xuất mới, mà cơ sở là chủ nô chiếm hữu tư liệu sản xuất và người nô lệ. Loài người đã bắt đầu hình thành một nền đạo đức mới. Cụ thể là:

- Tính chất đối kháng đạo đức:

Đó là đạo đức của nô lệ và đạo đức của chủ nô, hai nền đạo đức này đối lập với nhau về cơ bản. Những tư tưởng của giai cấp thống trị là những tư tưởng thống trị, giai cấp nào là lực lượng vật chất thống trị trong xã hội thì cũng là lực lượng tinh thần thống trị.

Tầng lớp người có đặc quyền, đặc lợi cho phép mình được là người “có đức hạnh, người thượng lưu, quí tộc” còn những người nô lệ là những người “không có phẩm hạnh, người thấp hèn, hạ đẳng”.

Sự nô dịch của số ít (do giàu có mà trở thành mạnh) đối với số đông (do nghèo khổ mà trở thành yếu) giờ đây được bảo đảm bởi một lực lượng xã hội mới – nhà nước, tình trạng bình đẳng nhường chỗ cho đẳng cấp. Nó quy định nội dung cơ bản của đạo đức, đẩy tới hai cực đối lập gay gắt: chủ - tớ, trên – dưới, mệnh lệnh – phục tùng.

Tính chất đó quy định các nội dung khác nhau của quan niệm về tốt – xấu trong giai cấp này hay giai cấp kia. Cuộc sống tôi tớ chỉ được đánh giá ngang với giá trị của các vật dụng, các con vật.

Chế độ nô lệ dạy người nô lệ phải phục tùng tuyệt đối. Những đạo đức cao cả của người nô lệ như: lòng dũng cảm, chí khí, nhân phẩm…đã bị chủ nô xem như lời thách thức, sự bất kính.

  • Tính mâu thuẫn của “phẩm hạnh” trong đạo đức chiếm hữu nô lệ:

Trong xã hội chiếm hữu nô lệ đạo đức của kẻ chiếm hữu nô lệ và đạo đức của người bị nô lệ tạo thành hai mặt của một mâu thuẫn lớn nhất, tập trung nhất đầu tiên trong văn hóa tinh thần nhân loại.

+ Chế độ chiếm hữu nô lệ, việc phân công lao động, phát triển sản xuất và đẻ ra một nền văn hóa vĩ đại của thế giới cổ đại – nền văn hóa Hy Lạp – đứng về phía bản thân người nô lệ, Ănghen đã nói – chế độ nô lệ với ý nghĩa nhất định vẫn là sự tiến bộ, tù binh chiến tranh trở thành nguồn lớn những nô lệ, họ được bảo tồn không bị giết, không bị ăn thịt như trước nữa.

+ Mặt trái của sự tiến bộ đó là đông đảo quần chúng nhân dân chưa hề biết áp bức và bóc lột giai cấp là gì, giờ họ bổng nhiên trở nên bị áp bức.

Bọn chủ nô có quyền mua bán, quyền sinh sát, đe dọa nô lệ bằng roi vọt, chúng thường xích nô lệ vào nơi làm việc hoặc công cụ lao động. Pháp luật và đạo đức của chủ nô tha hồ hành hạ, giết chóc nô lệ. Chúng gây chiến tranh để chiếm thêm đất đai, bắt tù binh để tăng thêm nô lệ, cảnh giác và thẳng tay đàn áp đối với sự phản kháng chống đối của nô lệ.

+ Cùng với sự xuất hiện giai cấp, phụ nữ cũng mất quyền bình đẳng trước kia và trở thành nô lệ của người chồng. Chế độ một vợ một chồng là một bước tiến của lịch sử, nó ra đời trên cơ sở chế độ tư hữu chiến thắng chế độ công hữu, nhưng nó mang theo một điều không thể tránh khỏi: sự nô dịch phụ nữ, nạn mãi dâm…

Đạo đức trong xã hội phong kiến

Chế độ phong kiến dựa trên cơ sở sở hữu ruộng đất lớn. Khác với nô lệ, người nông dân có công cụ sản xuất riêng và có nền kinh tế riêng dựa vào lao động cá nhân và đem lại cho họ những điều kiện sinh sống cần thiết. Bọn địa chủ vẫn có quyền điều nông dân ra khỏi lãnh đại của mình, nhưng không có quyền giết họ.

Đó là một bước tiến của đạo đức xã hội, thật ra địa vị người nông dân cũng chẳng hơn bao nhiêu so với nô lệ. Sự phụ thuộc về kinh tế và sự cưỡng ép trực tiếp đã buộc họ phải cày cấy ruộng đất của địa chủ và làm trăm nghìn công việc có lợi cho giai cấp phong kiến.

Ở đây, tồn tại nhiều kiểu đạo đạo đức, có cả đạo đức của chính giai cấp phong kiến lại có đạo đức của giai cấp nông dân và nhân dân lao động.

Đạo đức thống trị trong xã hội phong kiến trước hết và đạo đức học của gai cấp phong kiến. Tuy nhiên, tư tưởng đạo đức học ở phương Tây thường xuất phát từ những tín điều của tôn giáo.

Ở phương Đông đạo đức học không hoàn toàn lệ thuộc vào tôn giáo mà thường xuất phát từ quan hệ giữa người và người được nhìn qua lăng kính của học thuyết nho giáo. Yêu cầu chung của đạo đức thống trị là bầy tôi phải trung với vua, chư hầu phải trung với thiên tử, nông dân phải trung với địa chủ.

Đạo đức trong xã hội tư bản:

Chế độ tư bản là một bước tiến của xã hội, vì nó đập tan xiềng xích của chế độ nông nô, xóa bỏ tình trạng cát cứ của phong kiến, mở ra thị trường trong nước và thế giới, phát triển sản xuất, thúc đẩy khoa học kỹ thuật tiến lên.

Sự thay thế quan hệ sản xuất phong kiến bằng quan hệ sản xuất tư bản dẫn đến biến đổi cả hệ thống đạo đức xã hội. Chủ nghĩa cá nhân tư sản là nguyên tắc cơ bản của đạo đức tư sản. quan hệ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa đã kích thích các nhà tư bản làm giàu và đã định hướng trong ý thức và hành vi đạo đức của họ. Họ coi việc làm giàu với mọi cách và mọi giá là hoạt động chính, là mục đích cao nhất của cuộc sống.

Trong quá trình tích lũy tư bản, với máu và mồ hôi sự bóc lột lao động làm thuê, chủ nghĩa cá nhân đã chiến thắng quan hệ chật hẹp đẳng cấp phong kiến dưới khầu hiệu cách mạng tư sản là tự do, bình đẳng, bác ái.

Sự hoạt động tích cực của nền kinh tế công nghiệp có tác động mạnh mẽ đến tính cách cá nhân con người. Lênin nhận xét, trong thời kỳ thiết lập tư bản chủ nghĩa, con người được giải phóng và phát triển, đó là một tiến bộ vĩ đại.

Nhưng sự bình đẳng ở đây chỉ là sự bình đẳng hình thức chứ không phải là bình đẳng trong thực tế cuộc sống xã hội. Nhà tư bản bốc lột người công nhân trên cơ sở bốc lột giá trị thặng dư bằng nhiều thủ đoạn khác nhau.

Sự che đậy mối quan hệ bản chất của xã hội tư bản bằng những “hình mẫu đạo đức tất yếu” của gia cấp tư sản để mọi người noi theo là “hết sức lộ liễu”, làm sao có sự bình đẳng trong quan hệ và thực tiễn đạo đức khi mà xã hội còn tồn tại và thừa nhận quan hệ bóc lột giá trị thặng dư và bằng những thủ đoạn đê hèn, tàn bạo.

Vấn đề trách nhiệm đạo đức cá nhân chỉ là sự “bắt buộc” từ phía xã hội chứ không là từ ý muốn bên trong của cá nhân, nên trách nhiệm đạo đức cũng trở thành thuần túy hình thức phô trương bên ngoài nhằm che đậy sự giả dối bên trong.

Đó là lý do dẫn đến tình trạng biệt lập nhân cách, một trạng thái tâm lý lạnh lẽo, xa lánh nhau, thậm chí trở nên thù ghét nhau.

Tóm lại, xã hội tư bản đã làm cho lực lượng sản xuất phát triển nhanh, cùng nền sản xuất nhỏ phân tán được xã hội hóa ngày càng cao, phân công lao động phát triển, năng suất lao động có hiệu quả rõ rệt. Ngoài những mặt tích cực đó, giai cấp tư sản đã để lại cho xã hội không ít những hậu quả tiêu cực: vấn đề công lý và nền đạo đức trong xã hội không được đảm bảo bình thường, con người trở nên ích kỷ, đạo lý trong xã hội ngày càng suy giảm.

Đạo đức cộng sản chủ nghĩa.

Đạo đức trong xã hội tư bản bao gồm nhiều kiểu đạo đức khác nhau. Đạo đức của giai cấp tư sản, đạo đức của giai cấp công nhân, đạo đức của những lực lượng xã hội khác các kiểu đạo đức này thường xâm nhập vào nhau, đan xen và không ngừng đấu tranh với nhau, tạo nên con đường phát triển xã hội trên cơ sở khẳng định mặt tích cực, tiến bộ, triệt tiêu mặt lạc hậu, mở rộng khả năng phát triển đạo đức trong tương lai của một xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa.

Khi chủ nghĩa xã hội đã thắng lợi và các giai cấp bóc lột trong xã hội đã bị tiêu diệt, thì đạo đức cộng sản cũng được toàn dân thừa nhận, nó trở thành đạo đức thống trị.

Đạo đức cộng sản là giai đoạn cao nhất trên con đường tiến lên của đạo đức loài người. So với đạo đức tiên tiến trước đây, đạo đức cộng sản là một thứ chất mới. Nó biểu hiện những đặc điểm mới vì bộ mặt tinh thần của những con người đã tiêu diệt thế giới bóc lột và đã lập nên chủ nghĩa cộng sản.

MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẠO ĐỨC VỚI MỘT SỐ HÌNH THÁI Ý THỨC XÃ HỘI KHÁC.

Đạo đức là một hình thái ý thứa xã hội đặc thù, là sự phản ánh tồn tại xã hội, là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng như chính trị, pháp luật, tôn giáo, khoa học, nghệ thuật.

Mối quan hệ giữa đạo đức và chính trị.

Chính trị là mối quan hệ giữa các giai cấp đối với vấn đề nhà nước, đứng về mặt lịch sử chính trị chỉ xuất hiện khi có nhà nước còn đạo đức xuất hiện rất sớm cùng với sự xuất hiện xã hội loài người.

Trong xã hội có giai cấp, đạo đức cũng như chính trị đều là sản phẩm của một cơ sở kinh tế xã hội nhất định. Do đó giữa đạo đức và chính trị có quan hệ chặt chẽ với nhau, dưới những hình thức khác nhau, đạo đức là chính trị biểu hiện lợi ích kinh tế của một giai cấp nhất định và phục vụ mục đích của nó. Nhiều khi các quan hệ đạo đức thường lẫn vào chính trị, ngược lại có những quan điểm chính trị phản ánh những giá trị đạo đức.

Đối với giai cấp và nhà nước tiên tiến thì nó thường gắn liền với những quan điểm đạo đức tiến bộ, ngược lại giai cấp suy tàn thì gắn liền với quan điểm đạo đức lạc hậu, bảo thủ kiềm hãm sự phát triển của xã hội.

Đạo đức chúng ta ngày nay, đạo đức tiên tiến là đạo đức của giai cấp vô sản, đạo đức phục vụ cho sự nghiệp thắng lợi của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.

Sự thống nhất biện chứng giữa chính trị và đạo đức còn được thể hiện cụ thể trong việc xây dựng con người mới, trong đó tài và đức phải kết hợp chặt chẽ và lấy đức làm gốc.

Mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật.

Ý thức đạo đức và ý thức pháp luật có mối quan hệ biện chứng với nhau và có chức năng chung là điều chỉnh các mối quan hệ xã hội nhằm bảo toàn và phát triển xã hội. Tuy nhiên giữa chúng có những điểm khác nhau

Pháp luật thường được thực hiện thông qua nhà nước, do nhà nước soạn thảo, phổ biến và thi hành trong toàn xã hội. Còn đạo đức được bảo đảm do lương tâm con người do sự phê phán của dư luận xã hội.

Phạm vi đạo đức có nội dung bao quát và rộng hơn pháp luật. Luật pháp điều chỉnh một số mặt của đời sống xã hội, đạo đức xâm nhập vào tất cả các hoạt động xã hội, trong mọi quan hệ kể cả đối với chính bản thân mỗi người.

Trong thực tế có những hiện tượng pháp luật trừng trị nhưng đạo đức không lên án và có hiện tượng đạo đức lên án nhưng pháp luật không trừng trị.

Luật pháp căn cứ vào kết quả hành vi còn đạo đức căn cứ vào động cơ hành vi.

Để đảm bảo cho luật pháp được chấp hành nhà nước áp dụng chủ yếu các hình thức cưỡng bức hình phạt, còn đạo đức thì được bảo đảm bằng giáo dục, thuyết phục, ủng hộ hoặc lên án của dư luật xã hội và sự kiểm soát của lương tâm con người.

- Quan hệ giữa đạo đức với luật pháp:

Đạo đức và pháp luật phù hợp với nhau khi ý chí của giai cấp thống trị phù hợp với lợi ích xã hội và cộng đồng dân cư. Trong xã hội có giai cấp đối kháng thì đạo đức và pháp luật thường có mâu thuẫn với nhau vì đạo đức phản ánh quan hệ lợi ích của quần chúng nhân dân lao động còn pháp luật bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị mà lợi ích của hai giai cấp đối kháng luôn mâu thuẫn với nhau.

Quan hệ giữa đạo đức và tôn giáo.

- Tôn giáo là một khái niệm huyền ảo và sai lệch của con người về hiện thực, trong khái niệm đó lực lượng ngoại giới (lúc đầu là lực lượng siêu tự nhiên về sau lại thêm lực lượng xã hội) chi phối đời sống hàng ngày của con người bằng hình thức siêu trần thế, siêu tự nhiên.

- Tôn giáo và đạo đức đều hướng con người tới những lý tưởng sống thiện, nhân đạo, tránh cái ác. Tuy nhiên chúng khác nhau về bản chất.

- Về mặt lịch sử, đạo đức xuất hiện cùng với sự xuất hiện xã hội loài người, trước rất lâu so với sự ra đời của các tôn giáo. Như vậy, đã có một giai đoạn lịch sử rất dài, đạo đức tồn tại không có tôn giáo. Điều đó cho thấy đạo đức không thể bắt nguồn từ tôn giáo và nó tồn tại như một đời sống tinh thần khác với niềm tin tôn giáo.

- Đạo đức phản ánh chân thực những nhu cầu khách quan, hiện thực còn tôn giáo lại phản ánh thế giới một cách hư ảo với những khát vọng tự giải thoát trong thế giới tinh thần mà hiện thực tỏ ra hoàn toàn bất lực.

- Đạo đức và tôn giáo đều thấy được nỗi đau khổ của con người và hướng tới việc phấn đấu làm giảm nỗi đau khổ ấy để con người đi đến hạnh phúc. Nhưng đạo đức xem nỗi đau khổ của con người trong tính lịch sử hiện thực của nó và tin tưởng chắc rằng chính con người là động lực duy nhất giải thoát con người khỏi nỗi đau khổ và tự xây dựng hạnh phúc của mình trong đời sống hiện thực thông qua hoạt động lao động của mình. Còn tôn giáo tin rằng, chỉ có những lực lượng siêu nhiên, thần linh, thượng đế mới có khả năng cứu vớt con người ra khỏi nỗi đau khổ và điều đó chỉ có thể xảy ra trong thế giới khác, thế giới sau cái chết (phủ nhận vai trò của con người trong việc sáng tạo ra giá trị đạo đức của mình).

- Trong điều kiện nước ta Đảng và Nhà nước ta luôn tôn trọng tự do tín ngưỡng của nhân dân. Mỗi công dân đều có quyền tham gia hoặc không tham gia thực hiện tín ngưỡng của mình, đều có quyền tham gia hoặc không tham gia vào bất cứ tôn giáo nào. Các hoạt động tôn giáo đều được pháp luật bảo vệ và hoạt động theo hiến pháp.

Để đảm bảo cho các tôn giáo thực hiện được những lý tưởng tôn giáo chân chính của mình, phục vụ sự nghiệp xây dựng đất nước và phụng sự tín ngưỡng tôn giáo, pháp luật nước ta nghiêm cấm việc lợi dụng tôn giáo để kích động nhân dân gây rối loạn trật tự xã hội nhằm thực hiện các mưu đồ chính trị đen tối.

Mối quan hệ giữa đạo đức và nghệ thuật.

Nghệ thuật là một hình thái ý thức xã hội, nó phản ánh tồn tại xã hội. Trung tâm mà nghệ thuật phản ánh là phản ánh cái đẹp, nghệ thuật là nơi hội tụ cái đẹp. Nghệ thuật đem lại cho con người những khoái cảm thẩm mỹ, những giá trị tinh thần.

Do vậy, giữa đạo đức và nghệ thuật có mối quan hệ chặt chẽ nhau. Cái đẹp là hiện tượng của cái thiện và chỉ có cái thiện mới có thể đẹp. Thậm chí, khi nghệ thuật miêu tả cái ác, cái xấu xa cũng nhằm mục đích đạt đến cái đẹp, cái thiện.

Nghệ thuật là phương thức tồn tại của ý thức, một hoạt động sáng tạo độc đáo, một hình thức giao tiếp đặc biệt của con người, nó có tác dụng định hướng, thay đổi, tô điểm làm đẹp cho bản thân con người, các chuẩn mực đạo đức xã hội tạo nên thị hiếu thẩm mỹ của con người.

Ví dụ: “tốt gỗ hơn tốt nước sơn. Xấu người, đẹp nết còn hơn đẹp người”, “Chồng lớn, vợ bé thì xinh, chồng nhỏ vợ lớn ra tình chị em”.

- Nghệ thuật gắn liền với tâm tư, tình cảm, khơi dậy những ước mơ, khát vọng tốt đẹp, trang phục, giao tiếp.

- Nghệ thuật là hoạt động sáng tạo, tác giả không chỉ đổ mồ hôi, công sức mà còn thể hiện cả: tư tưởng tình cảm, sự nghiền ngẫm về cuộc đời, là phương tiện giao tiếp làm đẹp cho quan hệ người - người ngày càng đẹp hơn. Nghệ thuật có tác dụng giáo dục sâu sắc và nghỉ ngơi giải trí độc đáo.

- Đạo đức đặt ra cho nghệ thuật một nhiệm vụ:

Nghệ thuật có nhiệm vụ quan trọng là giáo dục và hoàn thiện nhân cách con người. Nghệ thuật sở dĩ sống được, đứng vững được là do nhiều yếu tố nhưng yếu tố quan trọng nhất là hướng thiện, đề cao cái thiện.

Cái thiện là khao khát của nhân dân lao động. Do đó tác phẩm nghệ thuật nào làm tốt giáo dục đạo đức thì sẽ tồn tại mãi.

- Nghệ thuật có tác dụng trở lại đạo đức:

Nghệ thuật cung cấp cho con người tình cảm đạo đức tốt đẹp. Nghệ thuật có lợi thế là phản ánh bằng hình tượng nghệ thuật, do vậy nó sẽ dễ đi vào lòng người. Đối tượng và mục đích phản ánh của nghệ thuật là con người, nên nó rất gần với đạo đức, ảnh hưởng đến đạo đức.

Đạo đức và nghệ thuật giúp cho con người tránh cái xấu, học hỏi hướng tới cái đẹp và làm theo cái đẹp, tiến tới tự giác làm điều tốt. Tương quan giữa đạo đức và nghệ thuật là mối tương quan giữa cái thiện và cái đẹp. Cái này làm tiền đề cho cái kia và bổ sung cho nhau cùng phát triển. Nghệ thuật còn làm chức năng giáo dục chân chính, giáo dục và hoàn thiện nhân cách con người, ngược lại đời sống đạo đức là nguồn chất liệu làm nền móng cho sáng tác nghệ thuật.

Nghệ thuật chân chính phải lấy cuộc sống, lấy đạo đức làm điểm xuất phát vì nó là cơ sở, là nguồn cảm hứng của nghệ thuật phát triển.

- Lịch sử đã cho thấy, những tác phẩm nghệ thuật tiêu biểu, bất tử với con người cả về không gian và thời gian là những tác phẩm chứa đựng các giá trị cao cả về con người. Nó là biểu tượng kiệt xuất về con người, về lý tưởng, lòng nhân ái, về số phận, về sức mạnh tinh thần và phẩm chất của con người và xã hội con người của từng thời đại cụ thể.

Trong điều kiện của đất nước, Đảng ta chủ trương lãnh đạo nhân dân ta xây dựng một nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc là hoàn toàn phù hợp với điều kiện và nguyện vọng tha thiết của nhân dân. Trong nền văn hóa ấy giữa truyền thống và hiện đại được kết hợp với nhau một cách hài hòa trên cơ sở gắn liền đạo đức cách mạng và nghệ thuật cách mạng. Chỉ có đạo đức cách mạng và nghệ thuật cách mạng mới đủ sức bao chứa trong mình những giá trị tiên tiến của thời đại và những giá trị quý báu mang đậm đà bản sắc dân tộc. Đồng thời nâng cao giá trị đó, đóng góp vào công cuộc xây dựng đất nước theo mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh”.

Mối quan hệ giữa đạo đức với khoa học.

Vấn đề đạo đức và khoa học có mối quan hệ gắn bó nhau, không thể tách rời nhau, vì khoa học luôn là cơ sở cho nền đạo đức thực sự của con người.

Mục đích của khoa học và đạo đức có sự thống nhất hài hòa. Khoa học và đạo đức là điều kiện để con người cải biến xã hội, xây dựng cuộc sống hạnh phúc.

Thực tế lịch sử đã chứng tỏ những thành quả của khoa học và công nghệ đã ngày càng giữ vai trò cơ bản, chủ đạo nâng cao cuộc sống của con người cũng nhờ những thành tựu vĩ đại đó mà con người đã ngày càng xây dựng được những quy luật tự nhiên, quy luật xã hội để thực hiện những ước mơ, khát vọng của mình.

Như vậy khoa học chẳng những đã chứa đựng trong bản thân nó những lý tưởng đạo đức mà còn là một phương thức mà nhờ đó con người biến những lý tưởng, ước mơ của mình thành hiện thực đời sống. Chính những lý tưởng đạo đức đã đóng vai trò không nhỏ làm thành một trong những động lực của sự phát triển khoa học.

Nhiều phát minh khoa học vĩ đại đó được sinh ra từ chính nhu cầu của cuộc sống, nhu cầu cải thiện đời sống con người, nhu cầu bảo vệ con người trước thiên nhiên khắc nghiệt, nhu cầu hạnh phúc của con người.

So với ý thức đạo đức, ý thức khoa học thường mang tính vượt trước và mang tính biến đối, tính cách mạng mau lẹ hơn. Khoa học còn làm cho những lý tưởng, ước mơ đạo đức biến đổi ngày càng gắn với cuộc sống và góp phần loại bỏ những nhân tố lạc hậu, bảo thủ trong đạo đức, làm cho cái thiện trong đạo đức ngày càng gắn liền với cái chân lý trong khoa học.

Khoa học công nghệ đóng vai trò quyết định nâng cao lực lượng sản xuất và do nâng cao lực lượng sản xuất đó dẫn tới thay đổi các quan hệ sản xuất. Nhưng khi các quan hệ sản xuất thay đổi sẽ làm cho tất cả các quan hệ xã hội đều phải thay đổi, trong đó có các quan hệ đạo đức.

Sự thay đổi đó không phải diễn ra theo một quá trình giản đơn, trực tiếp mà nó diễn ra dưới ảnh hưởng của những kết cấu lợi ích xã hội, đặc biệt là lợi ích giai cấp.

Dưới chủ nghĩa tư bản, với cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, lực lượng sản xuất phát triển, lẽ ra nhân loại bước vào vào một cuộc sống tốt đẹp hơn, hạnh phúc hơn nhưng trong thực tế, cứ một bước tiến của khoa học và công nghiệp thì nhân dân lao động lại đẩy thêm một bước vào vòng đói khổ và ngu tối, con người lại lâm vào cảnh khốn khổ, bất hạnh. Vì những lợi ích ích kỷ của mình, giai cấp tư sản đã độc chiếm toàn bộ những thành tựu khoa học kỹ thuật và công nghiệp, biến chúng thành công cụ bóc lột nhân dân lao động, đàn áp con người, hủy hoại mọi giá trị của xã hội đã có được, phục vụ cho mục đích vì mục đích lợi nhuận tối đa của mình.

Theo quan điểm đạo đức học Mác-xít, giữa đạo đức và khoa học luôn có mối quan hệ biện chứng khăng khít. Những mâu thuẫn, những xung đột giữa tiến bộ khoa học công nghệ và tiến bộ đạo đức trong xã hội tư bản đang diễn ra ngày càng gay gắt là sự phản ánh những mâu thuẫn ngày sâu sắc giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản.

Chính trong các xã hội tư sản, giai cấp tư sản một mặt sử dụng các thành quả của khao học công nghệ như một công cụ xâm lược, đàn áp, bóc lột, nhưng mặt khác họ cũng đang lợi dụng những thành quả đó để mong điều hòa làm giảm bớt những mâu thuẫn xã hội nhằm củng cố địa vị thống trị của mình.

Như vậy, việc giải quyết cơ bản và toàn diện những xung đột gay gắt giữa tiến bộ khoa học công nghệ và tiến bộ đạo đức chỉ diễn ra trong điều kiện một xã hội không có giai cấp đối kháng, không có chế độ người bóc lột người, chế độ sở hữu cá nhân.

Ở đó những thành quả của khoa học công nghệ sẽ để xã hội sử dụng như một phương thức giải phóng con người, nâng cao các giá trị nhân phẩm, làm cho con người được sống ngày càng tự do, hạnh phúc hơn, đồng thời hạn chế những tác động bất lợi được cuộc sống của xã hội con người mang tính tự phát từ bản thân tiến bộ khoa học công nghệ.

Trong điều kiện nước ta, Đảng và Nhà nước ta chủ trương đưa nước ta bước vào một thời kỳ mới, thời kỳ đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Trong thời kỳ này, khoa học công nghệ đóng vai trò hết sức cơ bản. Để phát huy những thành quả của khoa học công nghệ trong điều kiện mới, tất cả các tiến bộ khoa học công nghệ đều được diễn ra trong phạm vi của chiến lược chính sách phát triển khoa học công nghệ quốc gia một cách toàn diện.

Chiến lược này đi từ phát triển tiềm lực con người, sử dụng phân phối các nguồn lực tài nguyên quốc gia, kết hợp phát triển toàn diện với lựa chọn các ngành mũi nhọn, kết hợp giữa chính sách phát triển công nghiệp với bảo vệ tài nguyên, môi trường.

Do đó, nghệ thuật mang chức năng giáo dục, trong đó có cả vị trí hết sức quan trọng trong giáo dục đạo đức, làm cho việc chuyển tải các lý tưởng, nguyên tắc đạo đức tới mọi đối tượng một cách nhẹ nhàng, nhưng lại hết sức sâu sắc.

SOURCE: Vietnam OpenCourseWare

HỌC THUYẾT NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

LS. LÊ CÔNG ĐỊNH

Trong bài diễn văn tại phiên khai mạc kỳ họp đầu tiên của QH khóa XII vào ngày 19/7/2007, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh đã lần đầu tiên chính thức công bố nội dung của Học thuyết Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa. Học thuyết này khác với học thuyết tam quyền phân lập vốn là nền tảng của mọi thể chế pháp trị trên thế giới, là không có sự phân lập giữa ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, mà chỉ có sự phân nhiệm trong nội bộ các cơ quan nhà nước để đảm nhiệm chức năng lập pháp, hành pháp và tư pháp.

Học thuyết này là sự sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc vận dụng thuyết tam quyền phân lập vào bối cảnh chính trị một đảng cầm quyền đặc biệt ở Việt Nam. Có thể tóm lược những điểm chính của học thuyết như sau:
1. Quyền lực nhà nước là thống nhất, nhưng có sự phân công giữa các cơ quan nhà nước để thực hiện chức năng lập pháp, hành pháp và tư pháp.
2. Nhà nước quản lý đất nước và xã hội theo pháp luật do Quốc hội ban hành, trong đó hiến pháp và luật pháp là kết quả của sự thể chế hóa đường lối, quan điểm, chủ trương và chính sách của Đảng.
3. Thẩm quyền của Chính phủ được xác định trên cơ sở phân định những loại việc Chính phủ chủ động quyết định với những loại việc Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị và Ban Bí thư trực tiếp quyết định hoặc cho ý kiến định hướng. Cũng tương tự như vậy, thẩm quyền của chính quyền địa phương được xác định trên cơ sở phân định những loại việc do hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân chủ động quyết định với những loại việc ban chấp hành và ban thường vụ đảng bộ quyết định hoặc cho ý kiến để hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân thực hiện.
4. Hoạt động tư pháp, kể cả việc đào tạo, quản lý và sử dụng đội ngũ cán bộ tư pháp, do Đảng lãnh đạo thông qua vai trò của cấp ủy và ban cán sự đảng ở các cơ quan tư pháp căn cứ quy định của Đảng.
Vì quyền lực nhà nước tập trung và không phân lập nên Quốc hội và Tòa án chỉ là hai bộ phận của hệ thống cơ quan nhà nước thống nhất, chứ không độc lập tuyệt đối như cách tổ chức chính thể ở các nước khác.  Học thuyết Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa khẳng định toàn bộ quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân trên cơ sở xác lập vai trò đại diện mặc nhiên của Đảng đối với nhân dân nhằm thực thi và bảo vệ quyền lực đó. Toàn bộ hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp tập trung vào việc bảo đảm và củng cố vai trò lãnh đạo tuyệt đối của Đảng đối với Nhà nước và xã hội.
Đối với hoạt động quản lý hành chính từ trung ương đến địa phương, Học thuyết Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa đề xuất một sự phân định thẩm quyền cụ thể và tương ứng giữa chính quyền và các tổ chức Đảng cấp trung ương và địa phương.  Như vậy, có hai hệ thống cùng tồn tại để điều hành và cai trị quốc gia, đó là chính quyền và Đảng, trong đó Đảng vừa lãnh đạo, vừa trực tiếp quyết định.
Hoạt động của các cơ quan tư pháp, tức là tòa án, được đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng trên cơ sở quy định của Ðảng. Cấp ủy Đảng ở địa phương đảm nhiệm việc lựa chọn để giới thiệu bổ nhiệm thẩm phán cho tòa án các cấp.  Thẩm phán do vậy vừa là đảng viên vừa là công chức trong bộ máy nhà nước. Vì lẽ đó, việc xét xử của thẩm phán không chỉ dựa vào luật và các bản văn lập pháp khác, mà còn dựa vào các bản văn lập quy của Chính phủ, Bộ và Ủy ban nhân dân địa phương.
Với sự công bố minh bạch và dứt khoát nội dung của Học thuyết Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa như đã nêu trên, vị trí và vai trò của Đảng và Nhà nước trong chính thể hiện tại được xác lập rõ ràng, giúp tránh tình trạng can thiệp hoặc chồng lấn công việc giữa hai thiết chế như từ trước đến nay.  Tuy nhiên, sự áp dụng học thuyết này cũng đặt ra những vấn đề mới đối với bản Hiến pháp hiện hành.
Thứ nhất, nếu luật pháp là sự thể chế hóa đường lối và chủ trương của Đảng, thì vai trò của các đại biểu quốc hội ngoài Đảng trong việc xây dựng luật cần phải xác định cụ thể. Về mặt pháp lý, những đại biểu ngoài Đảng không có nghĩa vụ tuân thủ đường lối và chủ trương của Đảng. Vậy để những đại biểu này hành xử quyền hạn của mình, cần phải có cơ chế giúp họ hiểu và thấm nhuần quan điểm của Đảng đến mức có thể thể chế hóa thành luật, tất nhiên không chỉ đơn thuần qua vận động, mà phải bằng con đường hiến định. 

Mặt khác, do vai trò chính của các đại biểu quốc hội là đại diện nguyện vọng của nhân dân, nên vào một thời điểm nào đó và liên quan đến một vấn đề nhất định, chính sách của Đảng có thể không phản ánh được thực tiễn phát triển của xã hội, thì các đại biểu quốc hội sẽ thể chế hóa nguyện vọng của nhân dân hay chính sách của Đảng?  Đây là tình huống cần tiên liệu cho hoạt động lập pháp tương lai.
Thứ hai, tuy vai trò lãnh đạo của Đảng được ghi nhận tại Điều 4 của Hiến pháp 1992, nhưng cần phải xác định phạm vi vấn đề nào các tổ chức Đảng trực tiếp quyết định và vấn đề nào chỉ cho ý kiến định hướng.  Điều này sẽ giúp tăng cường hơn nữa nguyên tắc Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng đường lối và chủ trương đối với các vấn đề lớn, có ý nghĩa chính trị quan trọng, và tránh ý kiến dị nghị về mối quan hệ của Đảng và Nhà nước trong điều hành và quản lý quốc gia.
Thứ ba, nguyên tắc thẩm phán xét xử độc lập và chỉ tuân theo luật có thể gặp nhiều trở ngại khi trên thực tế sự bổ nhiệm và miễn nhiệm thẩm phán do cấp ủy và ban cán sự đảng ở các cơ quan tư pháp quyết định căn cứ quy định của Đảng, thay vì chỉ dựa vào Hiến pháp và luật pháp. Điều này sẽ ảnh hưởng đến nỗ lực cải cách tư pháp của Chính phủ vì mục tiêu hàng đầu của chương trình cải cách là bảo đảm sự độc lập của hệ thống tài phán.
Cần phải xác định phạm vi lãnh đạo của Đảng và hiến định các quy định nội bộ của Đảng để bảo đảm tôn trọng nguyên tắc thẩm phán xét xử độc lập. Điều này cũng sẽ giúp các thẩm phán có thể chuyên tâm trao dồi nghiệp vụ lâu dài sau khi được bổ nhiệm, thay vì chỉ tìm cách làm hài lòng một cách ngắn hạn cấp ủy và ban cán sự đảng để chuẩn bị cho lần xem xét tái bổ nhiệm kế tiếp.
Một điều quan trọng khác là nên tập trung quyết liệt vào việc loại trừ sự buôn bán và ngả giá công lý giữa các bên tranh tụng. Đừng để người dân nghèo ngay tình chỉ biết mơ những giấc mơ công lý xa xăm mỗi khi bước chân đến cổng tòa của chính nhân dân. Điều chúng ta hiện nay thiếu là một công cụ hiến định giúp thanh lọc một số thẩm phán vừa bất tài vừa tham nhũng.
Cuối cùng, cần nghĩ đến khả năng tu chính Hiến pháp hiện hành để hiến định mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản và Nhà nước mà Học thuyết Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa đã xác lập, nếu không mối quan hệ đó trở nên vi hiến.

SOURCE: TẠP CHÍ TIA SÁNG

Bài đăng phổ biến