Trần Anh Tuấn
Mục đích của tố tụng dân sự là nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự trong vụ việc dân sự. Do vậy, để có thể bảo vệ một cách tốt nhất các quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, đảm bảo việc xét xử của toà án được đúng đắn thì pháp luật tố tụng dân sự cần phải xây dựng được một cơ chế tố tụng thích hợp. Để góp phần làm rõ cơ chế tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS), bài viết này đề cập tới một số vấn đề của chế định giám đốc thẩm, tái thẩm dân sự.
1. Những điểm mới của chế định giám đốc thẩm, tái thẩm
- Về tính chất của thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm
Trong Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989 (PLTTGQCVADS), Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế năm 1994 (PLTTGQCVAKT), Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động năm 1996 (PLTTGQCTCLĐ) được ban hành trước đây không có những quy định mang tính định nghĩa về thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Tuy vậy, các quy định mang tính định nghĩa này của thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đã được ghi nhận tại các điều 282, 304 BLTTDS.
Quy định tại các điều 282, 304 BLTTDS đã thể hiện được tính chất cơ bản của hai loại thủ tục nói trên. Thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đều là thủ tục xét lại các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật trên cơ sở kháng nghị của những người có thẩm quyền. Điểm khác biệt cơ bản giữa hai thủ tục này là việc kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm dựa trên những căn cứ kháng nghị khác nhau. Từ điểm khác biệt cơ bản này, dẫn tới sự khác nhau trong các quy định về thời hạn kháng nghị và quyền hạn của hội đồng xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm.
- Về phạm vi xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm
Theo khoản 1 Điều 76 PLTTGQCVADS thì “Hội đồng giám đốc thẩm có thể xem xét toàn bộ vụ án mà không chỉ hạn chế trong nội dung của kháng nghị”. Quy định này cũng được áp dụng cho thủ tục tái thẩm các vụ án dân sự. Trong khi đó khoản 1 Điều 76 PLTTGQCTCLĐ quy định “Hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm chỉ có thể xem xét nội dung của vụ án liên quan đến phần quyết định bị kháng nghị”. Vấn đề này không được quy định trong PLTTGQCVAKT. Do vậy, trong thực tiễn việc vận dụng các quy định về phạm vi xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm đối với các tranh chấp về dân sự, hôn nhân gia đình; kinh doanh, thương mại; lao động là không thống nhất.
BLTTDS hiện nay đã khắc phục được những bất cập của các pháp lệnh trước đó và đã có một quy định thống nhất về phạm vi xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm đối với tất cả các tranh chấp về dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động. Theo Điều 296 và 310 BLTTDS thì hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm “chỉ xem xét lại phần quyết định của bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị hoặc có liên quan đến việc xem xét nội dung kháng nghị”. Ngoài ra, hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm có quyền “xem xét phần quyết định của bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật không bị kháng nghị hoặc không có liên quan đến việc xem xét nội dung kháng nghị, nếu phần quyết định đó xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích của người thứ ba không phải là đương sự trong vụ án”.
- Về căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm
Điều 71 PLTTGQCVADS, đã quy định bốn căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, đó là:
+ Việc điều tra không đầy đủ;
+ Kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án;
+ Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng;
+ Có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật.
Điều 75 PLTTGQCVAKT và Điều 73 PLTTGQCTCLĐ chỉ quy định ba căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, đó là:
+ Kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án;
+ Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng;
+ Có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật.
Kế thừa các quy định này, BLTTDS quy định việc kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm dựa trên ba căn cứ sau đây:
+ Kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án;
+ Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng;
+ Có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật.
Việc BLTTDS quy định việc kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm dựa trên ba căn cứ nêu trên mà không quy định dựa trên căn cứ “Việc điều tra không đầy đủ” là hoàn toàn hợp lý. Bởi vì “Việc điều tra không đầy đủ” chỉ là một trong những nguyên nhân dẫn tới “Kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án”. Thực chất đây là trường hợp toà án trong quá trình giải quyết vụ án đã có những sai lầm khi đánh giá về các tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự. Còn căn cứ “Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng” và “Có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật” thực chất là trường hợp khi toà án tiến hành giải quyết vụ việc đã có những sai lầm nghiêm trọng trong việc vận dụng pháp luật về dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động và tố tụng dân sự.
- Về thời hạn kháng nghị
BLTTDS cũng đã có những quy định mang tính thống nhất về thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm đối với các bản án, quyết định về dân sự, kinh doanh, thương mại và lao động. Trước khi ban hành BLTTDS, thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm được pháp luật quy định đối với các bản án, quyết định này là khác nhau. Theo PLTTGQCVADS, thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm là 3 năm, kể từ ngày bản án, quyết định của toà án có hiệu lực pháp luật; thời hạn kháng nghị tái thẩm là 1 năm, kể từ ngày phát hiện được những tình tiết mới là căn cứ để kháng nghị tái thẩm. Đối với việc kháng nghị không gây thiệt hại cho bất cứ đương sự nào thì không bị hạn chế về thời gian. Theo các điều 77, 83 PLTTGQCVAKT thì thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm là 9 tháng, thời hạn kháng nghị tái thẩm là 1 năm, kể từ ngày bản án, quyết định của toà án có hiệu lực pháp luật. Theo Điều 75 PLTTGQCTCLĐ thì “Thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm là 6 tháng, kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật; nếu việc kháng nghị có lợi cho người lao động thì thời hạn đó là một năm”.
Như vậy, theo PLTTGQCVAKT và PLTTGQCTCLĐ thì thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm đều được tính từ ngày bản án, quyết định của toà án có hiệu lực pháp luật.Trong khi đó, PLTTGQCVADS có phân biệt mốc tính thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm và tái thẩm.
BLTTDS, đã khắc phục những hạn chế của các pháp lệnh nêu trên đồng thời quy định một thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm chung, thống nhất áp dụng cho tất cả các tranh chấp về dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động. Theo Điều 288 và Điều 308 BLTTDS thì thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm là ba năm, kể từ ngày bản án, quyết định của toà án có hiệu lực pháp luật; thời hạn kháng nghị tái thẩm là một năm, kể từ ngày người có thẩm quyền kháng nghị biết được căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm.
- Việc thay đổi, bổ sung, rút quyết định kháng nghị
Các văn bản pháp luật về thủ tục được ban hành trước đó không có quy định về việc thay đổi, bổ sung, rút quyết định kháng nghị sau khi người có thẩm quyền đã tiến hành kháng nghị bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật. Khắc phục những bất cập này, lần đầu tiên các quy định về việc thay đổi, bổ sung, rút quyết định kháng nghị đã được ghi nhận tại Điều 289 và Điều 310 BLTTDS.
Theo các quy định của BLTTDS thì người đã kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm có quyền thay đổi, bổ sung quyết định kháng nghị, nếu chưa hết thời hạn kháng nghị; có quyền rút một phần hoặc toàn bộ quyết định kháng nghị trước khi mở phiên toà hoặc tại phiên toà giám đốc thẩm, tái thẩm. Các quy định này là một điểm mới so với các quy định tại các văn bản pháp luật trước đó.
Qua các vấn đề nêu ở trên có thể thấy rằng các quy định về thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm trong BLTTDS đã có nhiều sửa đổi, bổ sung và tiến bộ so với các văn bản pháp luật trước đó. Tuy vậy, việc vận dụng các quy định này trong thực tiễn cũng đặt ra những vấn đề đòi hỏi các cơ quan có thẩm quyền cần phải có những nghiên cứu và hướng dẫn bổ sung cho phù hợp.
2. Những vấn đề đặt ra trong thực tiễn thi hành các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm
- Về tính chất của thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm
Hiện nay, Điều 282 BLTTDS chỉ đề cập tới thủ tục giám đốc thẩm với tính chất là thủ tục “xét lại bản án, quyết định của toà án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án”. Quy định tại Điều 282 BLTTDS không đề cập tới thủ tục giám đốc thẩm với tính chất là thủ tục xét lại bản án, quyết định của toà án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện sai lầm của toà án khi nhận định về những tình tiết, sự kiện của vụ việc.
Chúng tôi cho rằng bản chất của thủ tục giám đốc thẩm là việc xét xử lại vụ việc mà bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của toà án bị kháng nghị do phát hiện có sai lầm, vi phạm pháp luật trong việc giải quyết. Những sai lầm, thiếu sót của toà án khi giải quyết vụ việc có thể ở hai dạng cơ bản là sai lầm về các tình tiết, sự kiện của vụ việc hoặc sai lầm nghiêm trọng khi áp dụng pháp luật dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động và pháp luật tố tụng dân sự. Do vậy, quy định về tính chất của thủ tục giám đốc thẩm như Điều 282 BLTTDS là chưa đầy đủ và không lột tả được hết bản chất của thủ tục giám đốc thẩm. Mặt khác, quy định này cũng không thể hiện đầy đủ các căn cứ kháng nghị theo Điều 283 BLTTDS. Theo chúng tôi, Điều 282 BLTTDS về tính chất của thủ tục giám đốc thẩm cần được sửa đổi như sau:“ Giám đốc thẩm là việc xét lại bản án, quyết định của toà án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có sai lầm của toà án khi nhận định về những tình tiết, sự kiện của vụ án hoặc có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án”.
- Về phạm vi xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm
Các quy định về phạm vi xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm trong BLTTDS là chưa thật sự hợp lý, cần phải mở rộng phạm vi xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm đối với toàn bộ bản án, quyết định như đã từng quy định trong PLTTGQCVADS trước đây. Quy định của BLTTDS hiện nay về phạm vi xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm có thể dẫn tới những bất cập trong việc áp dụng. Cụ thể là đối với trường hợp những người có thẩm quyền chỉ tiến hành kháng nghị đối với một phần bản án, quyết định thì một vụ án có thể bị kháng nghị và xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm nhiều lần gây kéo dài thời gian giải quyết vụ án.
- Về thẩm quyền giám đốc thẩm, tái thẩm
Theo khoản 4 Điều 291 BLTTDS thì những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật về cùng một vụ án dân sự thuộc thẩm quyền của các cấp toà án khác nhau được quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 291 thì toà án có thẩm quyền cấp trên giám đốc thẩm toàn bộ vụ án. Theo chúng tôi, quy định tại khoản 4 Điều 291 BLTTDS về thẩm quyền giám đốc thẩm, tái thẩm là không rõ ràng có thể dẫn tới những cách hiểu và vận dụng khác nhau. Theo cách quy định này có thể dẫn tới cách hiểu là toà án có thẩm quyền cấp trên có thể giám đốc thẩm toàn bộ vụ án mà không bị giới hạn bởi nội dung kháng nghị theo quy định về phạm vi xét xử tại Điều 296 BLTTDS. Do vậy, cần phải có những giải thích, hướng dẫn cụ thể về vấn đề này.
- Về căn cứ kháng nghị
Một vấn đề đặt ra trong thực tiễn áp dụng các quy định của BLTTDS về thủ tục giám đốc thẩm là trường hợp nào được coi “Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng” là căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Điều 283 BLTTDS không quy định cụ thể về vấn đề này. Tuy nhiên, nếu căn cứ vào Điều 299 BLTTDS có thể coi việc vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng là căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm khi :
+ Việc thu thập chứng cứ và chứng minh chưa thực hiện đầy đủ hoặc không theo đúng quy định tại Chương VII của BLTTDS;
+ Thành phần của Hội đồng xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm không đúng quy định của BLTTDS hoặc có vi phạm nghiêm trọng khác về thủ tục tố tụng.
Vấn đề là ở chỗ cần phải hiểu “có vi phạm nghiêm trọng khác về thủ tục tố tụng” là như thế nào? Theo chúng tôi, những vi phạm nghiêm trọng khác về thủ tục tố tụng có thể được hiểu là toà án khi tiến hành giải quyết vụ việc đã vi phạm các nguyên tắc cơ bản của tố tụng dân sự như nguyên tắc hoà giải, nguyên tắc xét xử công khai, nguyên tắc độc lập xét xử, nguyên tắc về tiếng nói chữ viết trong tố tụng dân sự...hoặc vi phạm các quyền tố tụng cơ bản của đương sự như quyền tham gia phiên toà; xác định sai thẩm quyền của toà án, xác định sai tư cách đương sự.v.v. Vì vậy, các cơ quan có thẩm quyền cần phải hướng dẫn cụ thể về vấn đề này để tránh cách hiểu và vận dụng khác nhau trong thực tiễn.
Theo Điều 304 của BLTTDS thì tái thẩm là xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì có những tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định mà toà án, các đương sự không biết được khi toà án ra bản án, quyết định đó. Tuy nhiên, việc sử dụng thuật ngữ “có những tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định mà toà án, các đương sự không biết được khi toà án ra bản án, quyết định đó” là chưa chính xác và mâu thuẫn với quy định về căn cứ kháng nghị theo khoản 1 Điều 305 BLTTDS. Bởi vì, theo khoản 1 Điều 305 BLTTDS thì bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm khi “Mới phát hiện được tình tiết quan trọng của vụ án mà đương sự đã không thể biết được trong quá trình giải quyết vụ án”. Xét về thuật ngữ thì việc “các đương sự không biết được” và việc “đương sự đã không thể biết được” là hoàn toàn khác nhau. Mặt khác, việc sử dụng thuật ngữ “đương sự đã không thể biết được” cũng không thật sự rõ ràng. Từ đó, có thể dẫn tới cách hiểu tình tiết mới được phát hiện phải là tình tiết mà nhiều đương sự không thể biết, thậm chí là toàn bộ các đương sự trong vụ việc không thể biết mới được coi là căn cứ để kháng nghị tái thẩm. Còn trường hợp tình tiết mới được phát hiện mà chỉ có một đương sự không thể biết thì không coi là căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm. Cách hiểu này có thể dẫn tới việc những người có thẩm quyền kháng nghị tái thẩm sẽ không tiến hành kháng nghị khi phát hiện những tình tiết mới của vụ việc mà chỉ có một đương sự trong vụ việc không biết được những tình tiết này. Chẳng hạn, nhiều người thừa kế trong vụ án chia thừa kế biết là có một bản di chúc nhưng cố tình giấu đi để yêu cầu chia thừa kế theo pháp luật, gây bất lợi cho người thừa kế được định đoạt di sản theo di chúc, trong khi đó bản thân người này cũng không biết được là người có di sản đã có di chúc định đoạt tài sản cho mình. Nếu coi đây là trường hợp “Kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án” để kháng nghị giám đốc thẩm thì có thể gây bất lợi cho đương sự ngay tình “không thể biết” được các tình tiết đó vì lý do đã hết thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm. Bởi lẽ, thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm được quy định là ba năm nhưng lại được tính từ ngày bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Do vậy, cần phải có những hướng dẫn về vấn đề này theo hướng coi là căn cứ để kháng nghị tái thẩm khi “Mới phát hiện được tình tiết quan trọng của vụ án mà một trong các đương sự hoặc các đương sự trong vụ việc dân sự đã không thể biết được trong quá trình giải quyết vụ việc”.
- Về việc phát hiện căn cứ kháng nghị và thời hạn kháng nghị
Hiện nay, các quy định tại Điều 284 và Điều 306 BLTTDS chỉ dừng lại ở chỗ ghi nhận quyền phát hiện và thông báo những vi phạm pháp luật, những tình tiết mới của vụ việc của đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức cũng như nghĩa vụ của viện kiểm sát, toà án trong việc phát hiện và thông báo cho những người có thẩm quyền kháng nghị các căn cứ kháng nghị, không có những quy định về một cơ chế để xử lý, giải quyết những thông báo nhận được. Thiết nghĩ, quyền phát hiện và thông báo những vi phạm pháp luật, những tình tiết mới của vụ việc chỉ thực sự có ý nghĩa nếu quy định một cơ chế rõ ràng, cụ thể cũng như một thời hạn nhất định để những người có thẩm quyền xử lý những thông tin thu nhận được. Mặt khác, bản thân những người có thẩm quyền kháng nghị cũng không thể tự mình xử lý được toàn bộ những đơn từ khiếu nại, tố cáo. Do vậy, cần phải có quy định cụ thể về bộ máy giúp việc, cơ chế hoạt động, trách nhiệm của các thẩm tra viên khi thực thi nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
Ngoài ra, BLTTDS không có những quy định về thời gian không tính vào thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm do có những trở ngại khách quan mà người có thẩm quyền kháng nghị không thể tiến hành kháng nghị hoặc trường hợp có căn cứ rõ ràng để kháng nghị tái thẩm mà những người có thẩm quyền vẫn không kháng nghị mặc dù biết rõ các căn cứ này. Do vậy, nếu không có những hướng dẫn bổ sung về thời gian không tính vào thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm sẽ dẫn đến những bất cập trong việc áp dụng, không đảm bảo được sự công bằng và quyền lợi hợp pháp của các đương sự.
Theo quy định của BLTTDS thì thời hạn kháng nghị tái thẩm là một năm, kể từ ngày người có thẩm quyền kháng nghị biết được căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm. Như vậy, việc kháng nghị hay không kháng nghị theo thủ tục tái thẩm hiện nay là phụ thuộc vào việc người có thẩm quyền kháng nghị biết hay không biết các căn cứ để kháng nghị tái thẩm. Và việc người có thẩm quyền kháng nghị biết hay không biết các căn cứ để kháng nghị tái thẩm chủ yếu lại phụ thuộc vào việc thẩm tra viên có đề xuất việc kháng nghị hay không. Do vậy, cần phải xây dựng một cơ chế phối hợp giữa các thẩm tra viên và người có thẩm quyền kháng nghị cũng như trách nhiệm của họ đối với việc không kháng nghị các bản án, quyết định của toà án mặc dù rõ ràng có căn cứ để tiến hành kháng nghị. Quy định này cùng với các quy định về thời gian không tính vào thời hạn kháng nghị sẽ góp phần bảo vệ quyền lợi hợp pháp của đương sự, đảm bảo công bằng xã hội.
- Việc thay đổi, bổ sung, rút quyết định kháng nghị
BLTTDS hiện nay không có những quy định về thủ tục giải quyết trong trường hợp người đã kháng nghị rút toàn bộ kháng nghị trước khi mở phiên toà hoặc tại phiên toà giám đốc thẩm, tái thẩm. Vậy khi vận dụng trong thực tiễn, đối với những trường hợp này, toà án cấp giám đốc thẩm, tái thẩm có phải ra quyết định đình chỉ xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm hay không? Đặc biệt, trong trường hợp xét thấy bản án, quyết định có xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích của người thứ ba không phải là đương sự trong vụ án mà người có thẩm quyền kháng nghị đã rút toàn bộ kháng nghị thì toà án cấp giám đốc thẩm, tái thẩm sẽ phải giải quyết như thế nào cũng không được đề cập. Do vậy, các cơ quan có thẩm quyền cần nghiên cứu bổ sung các quy định về thủ tục giải quyết trong trường hợp người đã kháng nghị rút toàn bộ kháng nghị trước khi mở phiên toà hoặc tại phiên toà giám đốc thẩm, tái thẩm.
- Về vấn đề giám đốc thẩm, tái thẩm đối với việc dân sự
Trước kia, theo Nghị quyết số 03/ HĐTP ngày 19/10/1990 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành PLTTGQCVADS thì đối với các việc về yêu cầu tuyên bố một người là mất tích hoặc đã chết mà người bị xác định là đã mất tích hoặc đã chết đó lại quay trở về thì vụ việc sẽ được xét lại theo thủ tục tái thẩm. Hiện nay, theo quy định của BLTTDS thì yêu cầu huỷ bỏ quyết định tuyên bố một người mất tích hoặc đã chết lại thuộc thẩm quyền của toà án cấp sơ thẩm. Ngoài ra, toà án cấp sơ thẩm cũng có thẩm quyền giải quyết đối với các yêu cầu huỷ bỏ quyết định tuyên bố một người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc mất năng lực hành vi dân sự. Do vậy, có thể suy luận việc xem xét lại theo thủ tục tái thẩm đối với các loại việc này không được đặt ra. Tuy nhiên, đối với các việc dân sự khác mà quyết định về việc dân sự đã có hiệu pháp luật mà có sai lầm, vi phạm pháp luật hoặc phát hiện có tình tiết mới thì có được kháng nghị để xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm hay không ?
Theo quy định tại Điều 311 BLTTDS về nguyên tắc giải quyết việc dân sự thì khi giải quyết việc dân sự, toà án áp dụng những quy định của Chương XX, đồng thời áp dụng những quy định khác của BLTTDS không trái với những quy định của Chương này để giải quyết những việc dân sự. Như vậy, các quy định tại Điều 311 BLTTDS cũng không thể hiện rõ ràng về việc có áp dụng thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đối với các việc dân sự hay không và nếu có áp dụng thì sẽ được áp dụng đối với các loại việc dân sự nào? Thiết nghĩ, các quyết định về việc dân sự mặc dù đã có hiệu lực pháp luật vẫn có thể có sai lầm, vi phạm pháp luật hoặc phát hiện có tình tiết mới làm thay đổi về cơ bản nội dung vụ việc. Do vậy, cũng cần phải có những hướng dẫn cụ thể về thủ tục xét lại các quyết định giải quyết việc dân sự đã có hiệu lực pháp luật.
- Về những người tham gia phiên toà giám đốc thẩm, tái thẩm
Theo Điều 292 và Điều 310 BLTTDS thì phiên toà giám đốc thẩm, tái thẩm phải có sự tham gia của viện kiểm sát cùng cấp. Khi xét thấy cần thiết, toà án triệu tập những người tham gia tố tụng và những người khác có liên quan đến việc kháng nghị tham gia phiên toà. Hiện nay, theo Điều 64 BLTTDS thì “Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự được tham gia phiên toà giám đốc thẩm, tái thẩm nếu Toà án xét thấy cần thiết”. Như vậy, việc “xét thấy cần thiết” có phải triệu tập đương sự, người bảo vệ quyền lợi hợp pháp của đương sự hay không là hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí của toà án. Theo chúng tôi, để tạo điều kiện cho đương sự có thể bảo vệ được quyền lợi hợp pháp của mình, đảm bảo sự công khai, minh bạch trong việc giải quyết vụ việc theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm thì pháp luật nên quy định toà án sẽ triệu tập các đương sự có liên quan tới vụ việc và người bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các đương sự đó tham gia phiên toà, trường hợp đã được triệu tập mà vắng mặt thì toà án vẫn tiến hành giải quyết vụ việc.
Trên đây là một số ý kiến rút ra từ việc nghiên cứu chế định thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm trong BLTTDS. Rất mong được các cơ quan có thẩm quyền lưu tâm tham khảo trong việc hướng dẫn áp dụng BLTTDS./.
ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
TẠP CHÍ LUẬT HỌC SỐ ĐẶC SAN VỀ BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ NĂM 2004
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét