SOURCE: VCCI.COM.VN
I . SỰ CẦN THIẾT PHẢI XÂY DỰNG VÀ BAN HÀNH LUẬT CƯ TRÚ
Tự do cư trú là một trong những quyền cơ bản của công dân được ghi nhận ngay từ Hiến pháp đầu tiên năm 1946 (Điều 10) và đến nay, quyền cơ bản đó vẫn tiếp tục được khẳng định tại Điều 28 Hiến pháp năm 1959, Điều 71 Hiến pháp năm 1980, Điều 68 Hiến pháp năm 1992, trong Bộ luật dân sự và các văn bản quy phạm pháp luật khác. Để bảo đảm cho quyền tự do cư trú của công dân được thực hiện trên thực tế và đáp ứng yêu cầu của công tác quản lý cư trú, trong từng thời kỳ, Chính phủ đã ban hành các văn bản quy phạm pháp luật như: Nghị định số 104/CP ngày 27 tháng 6 năm 1964 của Hội đồng Chính phủ ban hành Điều lệ đăng ký và quản lý hộ khẩu đối với công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hoà; Nghị định số 32/CP ngày 29 tháng 2 năm 1968 của Hội đồng Chính phủ về việc thống nhất công tác đăng ký hộ tịch, hộ khẩu và thống kê dân số; Nghị định số 04/HĐBT ngày 7 tháng 8 năm 1988 của Hội đồng Bộ trưởng ban hành Điều lệ đăng ký và quản lý hộ khẩu; Nghị định số 51/CP ngày 10 tháng 5 năm 1997 về đăng ký và quản lý hộ khẩu; Nghị định số 108/2005/NĐ-CP ngày 19 tháng 8 năm 2005 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 51/CP ngày 10 tháng 5 năm 1997 và Bộ Công an đã ban hành các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành các Nghị định nêu trên. Các văn bản quy phạm pháp luật này đã tạo điều kiện thuận lợi cho công dân thực hiện quyền tự do cư trú, lựa chọn nơi cư trú, đồng thời đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ quản lý cư trú, cũng như phục vụ các yêu cầu có liên quan của Nhà nước và của nhân dân trong từng giai đoạn cách mạng.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, trong những năm qua, mặc dù Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật về đăng ký, quản lý cư trú cho phù hợp với tình hình thực tiễn của mỗi giai đoạn; nhưng cho đến nay các quy định còn tản mạn, chủ yếu được ban hành dưới hình thức Nghị định của Chính phủ. Trước sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nhất là yêu cầu hội nhập, mở rộng giao lưu và hợp tác quốc tế, nhiều quy định của pháp luật hiện hành về cư trú và quản lý cư trú không còn phù hợp, mang nặng cơ chế xin - cho, trình tự, thủ tục rườm rà, phức tạp, chưa thật sự dân chủ, thống nhất, dẫn đến tình trạng vận dụng tuỳ tiện, gây khó khăn, phiền hà cho công dân. Bên cạnh đó, cũng có một thực tế là một bộ phận nhân dân chưa thực hiện tốt quy định của pháp luật về đăng ký thường trú, tạm trú, khai báo tạm vắng, làm cho hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về cư trú chưa cao, tạo ra kẽ hở để các phần tử xấu lợi dụng tiến hành hoạt động xâm phạm đến an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Vì vậy, việc Quốc hội ban hành Luật cư trú là cần thiết, đáp ứng các đòi hỏi khách quan, để công dân Việt Nam thực hiện quyền tự do cư trú ở trong nước của mình theo quy định của Hiến pháp năm 1992 và đáp ứng yêu cầu đăng ký, quản lý cư trú trong tình hình mới, trong điều kiện Việt Nam hội nhập, mở rộng giao lưu và hợp tác quốc tế. Đó cũng là đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, phục vụ đắc lực công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước.
Ngày 29 tháng 11 năm 2006, tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khoá XI, Luật Cư trú được Quốc hội thông qua, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2007.
II. QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO XÂY DỰNG LUẬT CƯ TRÚ
Luật cư trú đã quán triệt những quan điểm chỉ đạo sau đây:
Một là, xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật về cư trú phù hợp với chủ trương cải cách hành chính; phù hợp với tiến trình hội nhập, mở rộng giao lưu và hợp tác quốc tế; phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Hai là, tạo khuôn khổ pháp lý hữu hiệu để bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân, tạo thuận lợi tối đa cho công dân Việt Nam làm ăn, sinh sống, chống phiền hà, tiêu cực; đồng thời, bảo đảm cho công tác quản lý cư trú có hiệu quả trong giai đoạn hiện nay và những năm tiếp theo.
Ba là, tạo cơ sở để củng cố, hoàn thiện tổ chức bộ máy, cán bộ làm công tác đăng ký, quản lý cư trú; đổi mới phương pháp, ứng dụng có hiệu quả thành tựu khoa học, công nghệ trong quản lý cư trú, bảo đảm tính khoa học, dân chủ, công khai, minh bạch, thuận tiện cho đăng ký, quản lý cư trú.
Bốn là, kế thừa những quy định hợp lý và đang phát huy tác dụng tốt trong công tác đăng ký, quản lý cư trú; đồng thời, tiếp thu có chọn lọc pháp luật và kinh nghiệm quản lý cư trú của nước ngoài để vận dụng phù hợp đặc điểm, điều kiện của đất nước.
Năm là, Quy định một cách cụ thể các vấn đề liên quan đến cư trú, hạn chế đến mức thấp nhất việc phải ban hành văn bản hướng dẫn thi hành Luật này để các cơ quan nhà nước, mọi tổ chức và cá nhân chấp hành Luật nghiêm chỉnh, thống nhất, kịp thời.
III. BỐ CỤC CỦA LUẬT CƯ TRÚ
Luật cư trú bao gồm 6 chương với 42 điều, cụ thể như sau:
Chương I. Những quy định chung
Chương này gồm có 8 điều (từ Điều 1 đến Điều 8), quy định những vấn đề chung về cư trú, như: phạm vi điều chỉnh; đối tượng áp dụng; quyền tự do cư trú của công dân; nguyên tắc cư trú và quản lý cư trú; bảo đảm điều kiện thực hiện quyền tự do cư trú và hoạt động quản lý cư trú; trách nhiệm quản lý nhà nước về cư trú; hợp tác quốc tế trong quản lý cư trú; các hành vi bị nghiêm cấm.
Chương II. Quyền, trách nhiệm của công dân về cư trú
Chương này gồm có 9 điều (từ Điều 9 đến Điều 17), quy định về quyền của công dân về cư trú; các trường hợp bị hạn chế quyền tự do cư trú; trách nhiệm của công dân về cư trú; nơi cư trú của công dân; nơi cư trú của người chưa thành niên; nơi cư trú của người giám hộ; nơi cư trú của vợ, chồng; nơi cư trú của cán bộ, chiến sỹ Quân đội nhân dân và Công an nhân dân; nơi cư trú của người làm nghề lưu động.
Chương III. Đăng ký thường trú
Chương này gồm 12 điều (từ Điều 18 đến Điều 29), quy định về đăng ký thường trú; điều kiện để đăng ký thường trú tại tỉnh; điều kiện đăng ký thường trú tại thành phố trực thuộc trung ương; thủ tục đăng ký thường trú; xoá đăng ký thường trú; thay đổi đăng ký thường trú trong trường hợp thay đổi chỗ ở hợp pháp; sổ hộ khẩu, sổ hộ khẩu cấp cho hộ gia đình, sổ hộ khẩu cấp cho cá nhân; tách sổ hộ khẩu; giấy chuyển hộ khẩu; điều chỉnh những thay đổi trong sổ hộ khẩu.
Chương IV. Đăng ký tạm trú, thông báo lưu trú, khai báo tạm vắng
Chương này gồm 3 điều (từ Điều 30 đến Điều 32), quy định về đăng ký tạm trú; lưu trú và thông báo lưu trú; khai báo tạm vắng.
Chương V. Trách nhiệm quản lý cư trú
Chương này gồm 7 điều (từ Điều 33 đến Điều 39), quy định về trách nhiệm của Bộ Công an, của Uỷ ban nhân dân các cấp trong quản lý cư trú; trách nhiệm của cơ quan đăng ký, quản lý cư trú; người làm công tác đăng ký, quản lý cư trú; huỷ bỏ việc đăng ký thường trú, tạm trú trái pháp luật; cơ sở dữ liệu về cư trú; khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm.
Chương VI. Điều khoản thi hành
Chương này gồm 3 điều (từ Điều 40 đến Điều 42), quy định về hiệu lực của Luật; việc rà soát văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến quy định về hộ khẩu; quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật.
IV. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬT CƯ TRÚ
1. Phạm vi điều chỉnh của Luật Cư trú
Luật cư trú quy định về quyền tự do cư trú của công dân trên lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; trình tự, thủ tục đăng ký, quản lý cư trú; quyền, trách nhiệm của công dân, hộ gia đình, cơ quan, tổ chức về đăng ký, quản lý cư trú. Như vậy, phạm vi điều chỉnh của Luật này bao gồm hai nội dung chủ yếu đó là quyền tự do cư trú của công dân và việc đăng ký, quản lý cư trú.
Điều 1 của Luật cư trú còn quy định: “Cư trú là việc công dân sinh sống tại một địa điểm thuộc xã, phường, thị trấn dưới hình thức thường trú hoặc tạm trú”. Với quy định này, thì khái niệm “cư trú” được hiểu rõ hơn, phù hợp với quy định của Bộ luật dân sự và phân biệt được với những trường hợp công dân không thường xuyên sinh sống tại một địa điểm thuộc xã, phường, thị trấn ngoài nơi cư trú của họ (mà trước đây gọi là cư trú vãng lai, nay, theo Luật này được gọi là lưu trú) để quy định chế độ quản lý đối với từng loại đối tượng cho phù hợp.
2. Đối tượng áp dụng của Luật cư trú
Đối tượng áp dụng của Luật này, bao gồm:
a) Cơ quan, tổ chức, hộ gia đình, công dân Việt Nam;
b) Người Việt Nam định cư ở nước ngoài vẫn còn quốc tịch Việt Nam trở về Việt Nam sinh sống.
3. Quyền tự do cư trú của công dân
Quyền tự do cư trú của công dân theo quy định của Luật cư trú là việc công dân có quyền tự mình lựa chọn, quyết định nơi thường trú, nơi tạm trú theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan. Quyền tự do cư trú của công dân còn được thể hiện bằng việc công dân có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký thường trú, đăng ký tạm trú cho họ. Vì vậy, Điều 3 của Luật cư trú đã quy định:
“Công dân có quyền tự do cư trú theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan. Công dân có đủ điều kiện đăng ký thường trú, tạm trú, thì có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký thường trú, đăng ký tạm trú.
Quyền tự do cư trú của công dân chỉ bị hạn chế theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định”.
4. Nguyên tắc cư trú và quản lý cư trú
Điều 4 Luật cư trú quy định rõ về nguyên tắc cư trú, quản lý cư trú:
“1. Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật.
2. Bảo đảm hài hoà quyền, lợi ích của công dân, lợi ích của Nhà nước, cộng đồng và xã hội; kết hợp giữa việc bảo đảm quyền tự do cư trú, các quyền cơ bản khác của công dân và trách nhiệm của Nhà nước với nhiệm vụ xây dựng, phát triển kinh tế, xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội.
3. Trình tự, thủ tục đăng ký thường trú, tạm trú phải đơn giản, thuận tiện, kịp thời, chính xác, công khai, minh bạch, không gây phiền hà; việc quản lý cư trú phải đảm bảo hiệu quả.
4. Mọi thay đổi về cư trú phải được đăng ký; mỗi người chỉ được đăng ký thường trú, đăng ký tạm trú một nơi”.
Nguyên tắc này là tư tưởng chỉ đạo, xuyên suốt cho việc cư trú của công dân cũng như công tác quản lý cư trú của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
5. Bảo đảm điều kiện thực hiện quyền tự do cư trú và hoạt động quản lý cư trú
Điều 5 của Luật cư trú khẳng định, quyền tự do cư trú của công dân được Nhà nước bảo đảm. Mọi hành vi của cơ quan, tổ chức, cá nhân xâm phạm đến quyền tự do cư trú của công dân đều bị xử lý nghiêm minh. Luật cũng đã thể hiện rõ sự quan tâm của Nhà nước đối với hoạt động quản lý cư trú, bằng cách bảo đảm ngân sách, cơ sở vật chất, nguồn lực, đầu tư phát triển công nghệ, kỹ thuật tiên tiến. Việc quan tâm về nguồn lực cũng như về vật chất của Nhà nước cho hoạt động quản lý cư trú cũng có nghĩa là phục vụ tốt cho việc thực hiện quyền tự do cư trú của công dân.
6. Các hành vi bị nghiêm cấm
Điều 8 của Luật cư trú quy định cụ thể 9 nhóm hành vi bị nghiêm cấm, để áp dụng đối với cơ quan, tổ chức và cá nhân, nhằm bảo đảm quyền tự do cư trú của công dân được thực hiện nghiêm chỉnh, không bị gây phiền hà trong khi thực hiện việc đăng ký thường trú, tạm trú hoặc lưu trú; đồng thời, cũng bảo đảm cho công tác quản lý cư trú đạt hiệu quả cao, góp phần bảo đảm an ninh, trật tự. Cụ thể như sau:
“1. Cản trở công dân thực hiện quyền tự do cư trú.
2. Lạm dụng quy định về hộ khẩu để hạn chế quyền, lợi ích hợp pháp của công dân.
3. Nhận hối lộ, cửa quyền, hách dịch, sách nhiễu, gây phiền hà trong việc đăng ký, quản lý cư trú.
4. Thu, sử dụng lệ phí đăng ký cư trú trái với quy định của pháp luật.
5. Tự đặt ra thời gian, thủ tục, giấy tờ, biểu mẫu trái với quy định của pháp luật hoặc làm sai lệch sổ sách, hồ sơ về cư trú.
6. Cố ý cấp hoặc từ chối cấp giấy tờ về cư trú trái với quy định của pháp luật.
7. Lợi dụng quyền tự do cư trú để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
8. Thuê, cho thuê, mượn, cho mượn, làm giả, sửa chữa, làm sai lệch nội dung sổ hộ khẩu, sổ tạm trú, giấy tờ khác liên quan đến cư trú; sử dụng giấy tờ giả về cư trú; cung cấp thông tin, tài liệu sai sự thật về cư trú.
9. Tổ chức, kích động, xúi giục, lôi kéo, dụ dỗ, môi giới, giúp sức, cưỡng bức người khác vi phạm pháp luật về cư trú.”
7. Quyền và trách nhiệm của công dân về cư trú
Yêu cầu cơ bản đặt ra đối với Luật cư trú là vừa phải bảo đảm quyền tự do cư trú của công dân, vừa phải bảo đảm cho công tác quản lý cư trú có hiệu quả cao, vì vậy, tại Chương II của Luật này đã quy định tập trung, đầy đủ, cụ thể quyền và trách nhiệm của công dân về cư trú. Đây là điểm mới của Luật cư trú so với các quy định của pháp luật hiện hành, cụ thể là:
7.1. Quyền của công dân về cư trú (Điều 9)
Theo quy định tại Điều 9, công dân có các quyền về cư trú sau đây:
“1. Lựa chọn, quyết định nơi thường trú, tạm trú của mình phù hợp với quy định của Luật này và các quy định của pháp luật khác có liên quan;
2. Được cấp, cấp lại, đổi sổ hộ khẩu, sổ tạm trú, giấy tờ khác liên quan đến cư trú;
3. Được cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến việc thực hiện quyền cư trú;
4. Yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện biện pháp bảo vệ quyền cư trú của mình;
5. Khiếu nại, tố cáo, khởi kiện đối với hành vi vi phạm pháp luật về cư trú theo quy định của pháp luật.”
7.2. Các trường hợp bị hạn chế quyền tự do cư trú (Điều 10)
Bên cạnh quyền của công dân về cư trú, Điều 10 cũng chỉ rõ một số trường hợp công dân bị hạn chế quyền tự do cư trú, đó là:
“1. Người bị cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú;
2. Người bị Toà án áp dụng hình phạt cấm cư trú; người bị kết án phạt tù chưa có quyết định thi hành án, được hưởng án treo hoặc đang được hoãn, tạm đình chỉ thi hành án phạt tù; người đang bị quản chế.
3. Người bị áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở chữa bệnh, cơ sở giáo dục nhưng đang được hoãn chấp hành hoặc tạm đình chỉ thi hành.”
7.3. Trách nhiệm của công dân về cư trú (Điều 11)
Đi đôi với các quyền của công dân, Điều 11 đã quy định rõ trách nhiệm của công dân về cư trú, cụ thể là:
“1. Chấp hành các quy định của pháp luật về cư trú;
2. Cung cấp đầy đủ, chính xác thông tin, tài liệu về cư trú của mình cho cơ quan, người có thẩm quyền và chịu trách nhiệm về thông tin, tài liệu đã cung cấp.
3. Nộp lệ phí đăng ký cư trú;
4. Xuất trình sổ hộ khẩu, sổ tạm trú, giấy tờ khác liên quan đến cư trú khi cơ quan, người có thẩm quyền yêu cầu;
5. Báo ngay với cơ quan đã đăng ký cư trú khi sổ hộ khẩu, sổ tạm trú, giấy tờ khác liên quan đến cư trú bị mất hoặc bị hư hỏng.”
8. Nơi cư trú của công dân
Nơi cư trú của công dân có ý nghĩa quan trọng, là yếu tố không thể thiếu để được đăng ký thường trú, đăng ký tạm trú. Điều 12 quy định về nơi cư trú của công dân như sau:
“1.Nơi cư trú của công dân là chỗ ở hợp pháp mà người đó thường xuyên sinh sống. Nơi cư trú của công dân là nơi thường trú hoặc nơi tạm trú.
Chỗ ở hợp pháp là nhà ở, phương tiện hoặc nhà khác mà công dân sử dụng để cư trú. Chỗ ở hợp pháp có thể thuộc quyền sở hữu của công dân hoặc được cơ quan, tổ chức, cá nhân cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ theo quy định của pháp luật.
Nơi thường trú là nơi công dân sinh sống thường xuyên, ổn định, không có thời hạn tại một chỗ ở nhất định và đã đăng ký thường trú.
Nơi tạm trú là nơi công dân sinh sống ngoài nơi đăng ký thường trú và đã đăng ký tạm trú.
2. Trường hợp không xác định được nơi cư trú của công dân theo quy định tại khoản 1 Điều 12 Luật cư trú thì nơi cư trú của công dân là nơi người đó đang sinh sống”.
Chỗ ở hợp pháp là một trong những điều kiện cần thiết để công dân được đăng ký cư trú. So với quy định của Nghị định số 51/CP đã được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 108/2005/NĐ-CP ngày 19 tháng 8 năm 2005 (sau đây gọi tắt là Nghị định số 51/CP sửa đổi) và Thông tư số 11/2005/TT-BCA-C11 ngày 7 tháng 10 năm 2005 của Bộ Công an hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 51/CP và Nghị định số 108/2005/NĐ-CP (sau đây gọi tắt là Thông tư số 11), Luật cư trú có một số điểm mới là:
- Thứ nhất, quy định chỗ ở hợp pháp theo hướng rộng hơn, bao gồm “nhà ở, phương tiện hoặc nhà khác mà công dân sử dụng để cư trú”; còn Nghị định số 51/CP sửa đổi và Thông tư số 11 chỉ giới hạn là nhà ở và phương tiện.
- Thứ hai, nhà ở được coi là chỗ ở hợp pháp cũng được quy định rộng hơn, có thể là nhà thuộc quyền sở hữu của công dân hoặc được cơ quan, tổ chức, cá nhân cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ theo quy định của pháp luật. Còn theo quy định tại Nghị định số 51/CP sửa đổi và Thông tư số 11, thì không cho đăng ký thường trú đối với trường hợp nhà ở là do mượn, ở nhờ (trừ cán bộ, công chức được điều động, tuyển dụng đến làm việc ở thành phố, thị xã).
Thực tế có nhiều trường hợp người đi thuê hoặc ở nhờ nhà của người khác nhưng lại có hành vi gây tranh chấp dân sự với chủ nhà (như đòi được chia nhà…) làm thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của chủ nhà, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự. Để khắc phục tình trạng này, Điều 19 và Điều 20 quy định: đối với trường hợp chỗ ở hợp pháp do thuê, mượn, ở nhờ nhà của cá nhân thì phải được người cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ đồng ý bằng văn bản. Điều đó có nghĩa là, nếu chủ nhà không đồng ý cho người ở nhờ, thuê nhà, mượn nhà được đăng ký thường trú, thì không được cơ quan có thẩm quyền giải quyết đăng ký thường trú.
Đối với trường hợp chỗ ở hợp pháp do thuê, mượn, ở nhờ nhà của Nhà nước, của các tổ chức chuyên kinh doanh nhà thì không cần phải có sự đồng ý của chủ nhà; bởi vì, theo quy định của Bộ luật Dân sự thì Nhà nước, các tổ chức chuyên kinh doanh nhà, khi đã cho người khác mượn, thuê, cho ở nhờ nhà phải làm hợp đồng. Nội dung của hợp đồng này đã thể hiện sự đồng ý cho đăng ký thường trú vào ngôi nhà đó.
Quy định như trên của Luật cư trú là nhằm bảo đảm quyền tự do cư trú của công dân và đơn giản hoá thủ tục đăng ký thường trú. Còn theo quy định của Nghị định số 51/CP sửa đổi và Thông tư số 11, thì mọi trường hợp thuê, ở nhờ nhà của người khác nếu muốn đăng ký thường trú đều cần phải có văn bản đồng ý của người cho thuê, cho ở nhờ nhà đó.
9. Đăng ký thường trú
Đăng ký thường trú là việc công dân đăng ký nơi thường trú của mình với cơ quan nhà nước có thẩm quyền và được cơ quan này làm thủ tục đăng ký thường trú, cấp sổ hộ khẩu cho họ (Điều 18). Điều kiện đăng ký thường trú tại tỉnh chỉ đòi hỏi công dân có chỗ ở hợp pháp thì được đăng ký thường trú (Điều 19). Còn điều kiện đăng ký thường trú tại thành phố trực thuộc trung ương thì ngoài điều kiện có chỗ ở hợp pháp, còn phải có thêm một điều kiện khác, đó là đã tạm trú liên tục tại thành phố đó từ một năm trở lên (theo quy định hiện hành là từ ba năm trở lên) hoặc thuộc một trong những trường hợp được quy định cụ thể tại các khoản 2, 3, 4 Điều 20 của Luật này. Sở dĩ có quy định này là vì: việc di dân từ vùng nông thôn đến các đô thị, đặc biệt là các thành phố lớn ngày càng gia tăng, gây áp lực lớn cho các đô thị. Trong khi đó, các điều kiện về cơ sở hạ tầng tại các thành phố trực thuộc trung ương như nhà ở, trường học, bệnh viện, điện, nước, đường phố, vệ sinh môi trường và các điều kiện khác hiện chưa thể đáp ứng được tốt nếu số lượng dân cư sinh sống tại các thành phố này quá lớn; cho nên cần có biện pháp nhằm kiềm chế sự gia tăng cơ học số lượng người nhập cư vào các thành phố trực thuộc trung ương. Tuy nhiên, so với Nghị định số 51/CP sửa đổi và Thông tư 11 thì Luật cư trú có nhiều điểm mới nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn cho công dân đăng ký thường trú vào các thành phố trực thuộc trung ương, nhất là những người vào làm việc trong các doanh nghiệp. Đây cũng là đáp ứng yêu cầu tạo điều kiện thuận lợi cho công dân làm việc trong các doanh nghiệp được đăng ký thường trú vào các đô thị, phù hợp với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Điều kiện đăng ký thường trú tại tỉnh được quy định tại Điều 19, cụ thể như sau:
“Công dân có chỗ ở hợp pháp ở tỉnh nào thì được đăng ký thường trú tại tỉnh đó. Trường hợp chỗ ở hợp pháp do thuê, mượn, ở nhờ của cá nhân thì phải được người cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ đồng ý bằng văn bản”.
Điều kiện đăng ký thường trú tại thành phố trực thuộc trung ương được quy định cụ thể tại Điều 20 như sau:
“1. Có chỗ ở hợp pháp vàđã tạm trú liên tục tại thành phố đó từ một năm trở lên. Trường hợp chỗ ở hợp pháp do thuê, mượn, ở nhờ của cá nhân thì phải được người cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ đồng ý bằng văn bản;
2. Được người có sổ hộ khẩu đồng ý cho nhập vào sổ hộ khẩu của mình nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Vợ về ở với chồng; chồng về ở với vợ; con về ở với cha, mẹ; cha, mẹ về ở với con;
b) Người hết tuổi lao động, nghỉ hưu, nghỉ mất sức, nghỉ thôi việc chuyển về ở với anh, chị, em ruột;
c) Người tàn tật, mất khả năng lao động, người bị bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm mất khả năng nhận thức, khả năng điều khiển hành vi về ở với anh, chị, em ruột, cô, dì, chú, bác ruột, người giám hộ;
d) Người chưa thành niên không còn cha, mẹ hoặc còn cha, mẹ nhưng cha, mẹ không có khả năng nuôi dưỡng về ở với ông, bà nội, ngoại, anh, chị, em ruột, cô, dì, chú, bác, cậu ruột, người giám hộ;
đ) Người thành niên độc thân về sống với ông, bà nội, ngoại;
3. Được điều động, tuyển dụng đến làm việc tại cơ quan, tổ chức hưởng lương từ ngân sách nhà nước hoặc theo chế độ hợp đồng không xác định thời hạn và có chỗ ở hợp pháp. Trường hợp chỗ ở hợp pháp do thuê, mượn, ở nhờ của cá nhân thì phải được người cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ đồng ý bằng văn bản.
4. Trước đây đã đăng ký thường trú tại thành phố trực thuộc trung ương, nay trở về thành phố đó sinh sống tại chỗ ở hợp pháp của mình. Trường hợp chỗ ở hợp pháp do thuê, mượn, ở nhờ của cá nhân thì phải được người cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ đồng ý bằng văn bản”.
10. Thủ tục đăng ký thường trú
So với quy định của pháp luật hiện hành, Điều 21 Luật cư trú quy định rất rõ nơi nộp hồ sơ, những giấy tờ cần thiết để đăng ký thường trú. Trong thời hạn tối đa là 15 ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ, cơ quan Công an có thẩm quyền phải cấp sổ hộ khẩu cho người đã nộp hồ sơ đăng ký thường trú; trường hợp không cấp sổ hộ khẩu phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do cho người đã nộp hồ sơ biết. Theo quy định của pháp luật hiện hành thì thời hạn cấp sổ hộ khẩu có thể kéo dài thêm 10 ngày làm việc (tức là 14 ngày, kể cả ngày nghỉ) đối với trường hợp phức tạp; nay, Luật cư trú bỏ quy định này nên những trường hợp phức tạp đã rút ngắn được nửa thời gian làm thủ tục đăng ký thường trú.
Thủ tục đăng ký thường trú được quy định tại Điều 21, cụ thể như sau:
“1. Người đăng ký thường trú nộp hồ sơ đăng ký thường trú tại cơ quan công an sau đây:
a) Đối với thành phố trực thuộc trung ương thì nộp hồ sơ tại Công an huyện, quận, thị xã;
b) Đối với tỉnh thì nộp hồ sơ tại Công an xã, thị trấn thuộc huyện, Công an thị xã, thành phố thuộc tỉnh.
2. Hồ sơ đăng ký thường trú bao gồm:
a)Phiếu báo thay đổi hộ khẩu, nhân khẩu;bản khai nhân khẩu;
b) Giấy chuyển hộ khẩu theo quy định tại Điều 28 của Luật này;
c) Giấy tờ và tài liệu chứng minh chỗ ở hợp pháp. Đối với trường hợp chuyển đến thành phố trực thuộc trung ương phải có thêm tài liệu chứng minh thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 20 của Luật này.
3. Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ, cơ quan có thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều này phải cấp sổ hộ khẩu cho người đã nộp hồ sơ đăng ký thường trú; trường hợp không cấp phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do”.
11. Về mô hình quản lý cư trú
Trong điều kiện của nước ta hiện nay, việc giữ mô hình quản lý cư trú bằng việc cấp sổ hộ khẩu, sổ tạm trú cho công dân vẫn cần thiết, nhằm góp phần bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự, an toàn xã hội; đồng thời, còn phục vụ cho các chính sách quan trọng khác của Nhà nước như: thống kê, điều tra dân số; quy hoạch, bố trí dân cư; tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp; đăng ký nghĩa vụ quân sự; thực hiện bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, trả lương hưu cho người về hưu; thực hiện ưu tiên tuyển sinh vào các trường đại học, cao đẳng đối với một số đối tượng nhất định thuộc vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng dân tộc ít người; giải quyết tình trạng trẻ em lang thang; quản lý vốn cho vay, kể cả vốn cho vay của Quỹ quốc gia giải quyết việc làm; thi hành một số hình phạt và các biện pháp xử lý hành chính tại địa phương; lập, quản lý hồ sơ địa chính; quản lý người nghiện ma tuý và cơ sở cai nghiện ma tuý. Mặt khác, trong điều kiện cơ sở vật chất, kỹ thuật, bộ máy quản lý thiếu về nhân lực và yếu về chất lượng, chưa thể đáp ứng yêu cầu quản lý bằng phương pháp mới, thì vẫn cần phải duy trì quản lý cư trú bằng hình thức cấp sổ hộ khẩu đối với trường hợp đăng ký thường trú, cấp sổ tạm trú đối với trường hợp đăng ký tạm trú. Việc giữ mô hình quản lý cư trú này với những quy định về trình tự, thủ tục, điều kiện đơn giản, thuận lợi hơn, cùng với việc chấn chỉnh khâu tổ chức thực hiện sẽ góp phần bảo đảm cho công dân thực hiện quyền tự do cư trú; đồng thời, vẫn giúp cho công tác quản lý của Nhà nước về cư trú được hiệu quả.
12. Đăng ký tạm trú
Đăng ký tạm trú là việc công dân đăng ký nơi tạm trú của mình với cơ quan nhà nước có thẩm quyền và được cơ quan này làm thủ tục đăng ký tạm trú, cấp sổ tạm trú cho họ. Luật cư trú quy định: Người đang sinh sống, làm việc, lao động, học tập tại một địa điểm thuộc xã, phường, thị trấn nhưng không thuộc trường hợp được đăng ký thường trú tại địa phương đó thì trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày đến, phải đăng ký tạm trú tại Công an xã, phường, thị trấn. Trưởng Công an xã, phường, thị trấn trong thời hạn ba ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ giấy tờ quy định tại khoản 3 Điều nàyphải cấp sổ tạm trú theo mẫu quy định của Bộ Công an. Sổ tạm trú được cấp cho hộ gia đình hoặc cá nhân đã đăng ký tạm trú, có giá trị xác định nơi tạm trú của công dân và không xác định thời hạn. Trường hợp có căn cứ để xác định thời hạn tạm trú thì ghi rõ thời hạn trong sổ tạm trú.
Thủ tục đăng ký tạm trú được quy định cụ thể tại khoản 3 Điều 30 Luật cư trú như sau:
- Người đăng ký tạm trú nộp hồ sơ đăng ký tạm trú tại Công an xã, phường, thị trấn.
- Hồ sơ đăng ký tạm trú bao gồm:
+ Giấy tờ chứng minh quyền sở hữu hoặc sử dụng nhà ở; trường hợp chỗ ở hợp pháp là nhà do thuê, mượn hoặc ở nhờ của cá nhân thì phải được người cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ đồng ý bằng văn bản.
+ Phiếu báo thay đổi hộ khẩu, nhân khẩu; nếu nhà đi thuê, mượn, ở nhờ của cá nhân thì phải có ý kiến đồng ý của chủ hộ hoặc chủ nhà. Riêng đối với học sinh, sinh viên, học viên học tại các trường phổ thông nội trú, học viện, đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, dạy nghề, trường đào tạo những người chuyên hoạt động tôn giáo, thì có xác nhận là người của địa phương đi học của Công an xã, phường, thị trấn vào Phiếu báo thay đổi hộ khẩu, nhân khẩu.
+ Bản khai nhân khẩu (đối với người từ 15 tuổi trở lên)
Ngoài ra, người đến đăng ký tạm trú phải xuất trình giấy chứng minh nhân dân; trường hợp không có giấy chứng minh nhân dân thì phải có xác nhận của Công an xã, phường, thị trấn nơi người đó đăng ký thường trú.
- Trưởng Công an xã, phường, thị trấn trong thời hạn ba ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ giấy tờ hợp lệ trong hồ sơ nêu trên phải cấp sổ tạm trú cho người đăng ký tạm trú theo mẫu quy định của Bộ Công an.
13. Xoá đăng ký thường trú và tạm trú
13.1. Xoá đăng ký thường trú (Điều 22)
Khoản 1 Điều 22 của Luật cư trú quy định cụ thể những người thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị xoá đăng ký thường trú:
“a) Chết, bị Toà án tuyên bố là mất tích hoặc đã chết;
b) Được tuyển dụng vào Quân đội nhân dân, Công an nhân dân ở tập trung trong doanh trại;
c) Đã có quyết định huỷ đăng ký thường trú quy định tại Điều 37 của Luật này;
d) Ra nước ngoài để định cư;
đ) Đã đăng ký thường trú ở nơi cư trú mới; trong trường hợp này, cơ quan đã làm thủ tục đăng ký thường trú cho công dân ở nơi cư trú mới có trách nhiệm thông báo ngay cho cơ quan đã cấp giấy chứng nhận chuyển hộ khẩu để xoá đăng ký thường trú ở nơi cư trú cũ”.
Điểm đ khoản 1 Điều 22 là một trong những điểm mới của Luật cư trú. Nghị định 51 sửa đổi và Thông tư số 11 quy định: ngay sau khi cấp giấy chứng nhận chuyển đi, cơ quan có thẩm quyền đăng ký thường trú xoá tên người được cấp giấy chứng nhận chuyển đi mặc dù người đó chưa được đăng ký thường trú ở nơi cư trú mới. Theo quy định của pháp luật hiện hành nêu trên thì đó là một điều bất cập, bởi vì người dân chưa đăng ký thường trú ở nơi cư trú mới, mà nơi cư trú cũ của họ đã xoá tên họ trong sổ hộ khẩu. Để khắc phục bất cập nêu trên, điểm đ khoản 1 Điều 22 của Luật cư trú quy định: cơ quan đã làm thủ tục đăng ký thường trú cho công dân ở nơi cư trú mới có trách nhiệm thông báo ngay cho cơ quan đã cấp giấy chuyển hộ khẩu để xoá đăng ký thường trú ở nơi cư trú cũ. Quy định mới này bảo đảm chắc chắn cho công dân thường xuyên có một nơi thường trú nhất định và mọi quyền lợi của họ liên quan đến nơi thường trú vẫn được bảo đảm cho đến khi công dân có nơi thường trú mới.
13.2. Xoá đăng ký tạm trú (khoản 5 Điều 30)
Khoản 5 Điều 30 Luật cư trú quy định: trường hợp người đã đăng ký tạm trú nhưng không sinh sống, làm việc, lao động, học tập từ sáu tháng trở lên tại địa phương đã đăng ký tạm trú thì cơ quan đã cấp sổ tạm trú phải xoá tên người đó trong sổ đăng ký tạm trú.
14. Lưu trú và thông báo lưu trú
Để phù hợp với thực tiễn và phù hợp với quy định về nơi cư trú theo Điều 52 của Bộ luật dân sự, việc thay đổi khái niệm “tạm trú không xác định thời hạn” hiện hành (hay còn gọi là tạm trú vãng lai) bằng khái niệm “lưu trú” là cần thiết, nhằm phân biệt rõ với khái niệm “cư trú” là việc công dân sinh sống tại một địa điểm thuộc xã, phường, thị trấn dưới hình thức thường trú hoặc tạm trú.
Lưu trú là việc công dân ở lại trong một thời gian nhất định tại địa điểm thuộc xã, phường, thị trấn ngoài nơi cư trú của mình và không thuộc trường hợp phải đăng ký tạm trú. Quy định này là nhằm đơn giản thủ tục đối với việc quản lý khách vãng lai đi thăm người thân, đi du lịch, chữa bệnh… và tạo điều kiện thuận lợi cho công dân. Theo đó, người dân không phải làm thủ tục đăng ký quá chặt chẽ như đăng ký thường trú, tạm trú, mà chỉ cần thông báo việc lưu trú với Công an xã, phường, thị trấn bằng hình thức đến trực tiếp hoặc gọi điện thoại. Việc thông báo lưu trú do gia đình, nhà ở tập thể, cơ sở chữa bệnh, khách sạn, nhà nghỉ, cơ sở khác thực hiện khi có người từ đủ 14 tuổi trở lên đến lưu trú. Việc thông báo lưu trú được thực hiện trước 23 giờ, nếu người đến lưu trú sau 23 giờ thì thông báo lưu trú vào sáng ngày hôm sau; trường hợp ông, bà, cha, mẹ, vợ, chồng, con, cháu, anh, chị, em ruột đến lưu trú nhiều lần thì chỉ cần thông báo lưu trú một lần. Đây là bước cải tiến mới, đơn giản, thuận tiện hơn nên sẽ có tính khả thi cao.
15. Khai báo tạm vắng
Theo pháp luật hiện hành, tất cả mọi công dân từ 15 tuổi trở lên đi vắng qua đêm khỏi nơi đăng ký hộ khẩu thường trú về việc riêng đều phải khai báo tạm vắng. Điều 32 của Luật cư trú đã thu hẹp tối đa diện đối tượng phải khai báo tạm vắng, chỉ còn một số người dưới đây:
“1. Bị can, bị cáo đang tại ngoại; người bị kết án phạt tù nhưng chưa có quyết định thi hành án hoặc được hoãn, tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù; người bị kết án phạt tù được hưởng án treo; người bị phạt cải tạo không giam giữ; người đang bị quản chế; người đang chấp hành biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn; người bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh, trường giáo dưỡng nhưng đang được hoãn chấp hành hoặc tạm đình chỉ thi hành khi đi khỏi nơi cư trú từ một ngày trở lên có trách nhiệm khai báo tạm vắng.
2. Người trong độ tuổi thực hiện nghĩa vụ quân sự, dự bị động viên đi khỏi huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh nơi mình cư trú từ ba tháng trở lên có trách nhiệmkhai báo tạm vắng.
3. Người quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 32 nêu trên của Luật cư trú phải khai báo tạm vắng tại Công an xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú. Khi đến khai báo tạm vắng phải xuất trình giấy chứng minh nhân dân”.
16. Trách nhiệm của Bộ Công an về quản lý cư trú
Khoản 2 Điều 6 quy định Bộ Công an chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về cư trú; Điều 33 quy định cụ thể trách nhiệm của Bộ Công an về quản lý cư trú.
Từ năm 1955 đến nay, thông qua công tác đăng ký, quản lý hộ khẩu và cấp giấy chứng minh nhân dân, ngành Công an đã hình thành hệ cơ sở dữ liệu công dân. Các hệ cơ sở dữ liệu này đã và đang tích cực phục vụ nhân dân, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; đồng thời, phục vụ việc bảo đảm an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự, an toàn xã hội. Tuy nhiên, các hệ cơ sở dữ liệu này hiện đang còn dưới dạng thủ công nên chưa đáp ứng yêu cầu cung cấp thông tin kịp thời, chính xác. Do vậy, Điều 38 Luật cư trú quy định cơ quan quản lý cư trú phải ứng dụng công nghệ thông tin để phục vụ công tác quản lý cư trú. Đây là tiền đề để tiến tới thay đổi mô hình quản lý cư trú hiện nay bằng mô hình quản lý cư trú hiện đại hơn với phương pháp sử dụng công nghệ, kỹ thuật tiên tiến, thuận tiện cho công dân và đáp ứng ngày càng tốt hơn công tác bảo đảm an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự, an toàn xã hội.
17. Rà soát văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến quy định về hộ khẩu
Thực tế cho thấy, quy định về hộ khẩu đang bị lạm dụng làm hạn chế quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, gây nên bức xúc trong nhân dân, từ đó có những nhận thức sai lệch về hộ khẩu. Vì vậy, Điều 41 quy định: “Chính phủ chỉ đạo cơ quan, tổ chức hữu quan rà soát các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến quy định về hộ khẩu để tự mình hoặc kiến nghị, chỉ đạo cơ quan có thẩm quyền sửa đổi hoặc bãi bỏ những quy định lạm dụng hộ khẩu để hạn chế quyền, lợi ích hợp pháp của công dân”.
18. Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật
Luật đã quy định cụ thể các vấn đề liên quan đến cư trú, hạn chế đến mức thấp nhất việc phải ban hành văn bản hướng dẫn thi hành, để các cơ quan nhà nước và mọi tổ chức, cá nhân chấp hành Luật nghiêm chỉnh, thống nhất, kịp thời, tránh tình trạng phải chờ văn bản hướng dẫn thì Luật mới được thực hiện. Tuy nhiên, còn một số vấn đề trong Luật, Quốc hội giao cho Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành để bảo đảm sát hợp với thực tiễn, như khoản 4 Điều 38 (Cơ sở dữ liệu về cư trú); khoản 2 Điều 5 (Nhà nước bảo đảm ngân sách, cơ sở vật chất, nguồn nhân lực, đầu tư phát triển công nghệ, kỹ thuật tiên tiến cho hoạt động đăng ký, quản lý cư trú); khoản 2 Điều 8 (Lạm dụng quy định về hộ khẩu để hạn chế quyền, lợi ích hợp pháp của công dân); Điều 12 (Nơi cư trú của công dân); khoản 1 Điều 20 (Điều kiện đăng ký thường trú tại thành phố trực thuộc trung ương).
Luật cư trú đã bảo đảm yêu cầu cụ thể hoá quyền tự do cư trú của công dân; đồng thời, bảo đảm được yêu cầu của công tác quản lý về cư trú, với những trình tự, thủ tục đăng ký cư trú đơn giản, thuận tiện, kịp thời, chính xác, không gây phiền hà cho nhân dân; tạo cơ sở để củng cố, hoàn thiện tổ chức bộ máy, cán bộ làm công tác đăng ký, quản lý cư trú; đổi mới phương pháp, ứng dụng thành tựu khoa học, công nghệ trong quản lý cư trú, bảo đảm tính khoa học, dân chủ, công khai, minh bạch và thuận tiện cho đăng ký, quản lý cư trú, bảo đảm cho công tác quản lý cư trú đạt hiệu quả, góp phần bảo đảm an ninh và trật tự, an toàn xã hội.
V. TỔ CHỨC TRIỂN KHAI THI HÀNH LUẬT CƯ TRÚ
Ngày 01 tháng 7 năm 2007, Luật cư trú sẽ có hiệu lực thi hành. Vì vậy, ngày 12 tháng 2 năm 2007, Bộ trưởng Bộ Công an đã ban hành Kế hoạch số 10/BCA-V19 về triển khai thi hành Luật cư trú trong Công an nhân dân. Tại Kế hoạch số 10/BCA-V19, Bộ Công an đã xác định rõ những công việc phải khẩn trương thực hiện trong thời gian tới như sau:
1. Tham mưu trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị về tổ chức triển khai thi hành Luật cư trú;
2. Trước mắt, xây dựng Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật cư trú; Nghị định quy định cụ thể về bảo đảm điều kiện cho hoạt động quản lý cư trú và cơ sở dữ liệu về cư trú trình Chính phủ ban hành và một số văn bản quy phạm pháp luật của Bộ Công an hướng dẫn thi hành các Nghị định nêu trên của Chính phủ; đồng thời, ban hành các biểu mẫu về đăng ký, quản lý cư trú, sổ tiếp nhận lưu trú, các giấy tờ khác về cư trú theo quy định mới của Luật cư trú; quy trình đăng ký thường trú, tạm trú, tiếp nhận lưu trú.
3. Xây dựng kế hoạch, biên soạn, in ấn tài liệu tập huấn và tổ chức tập huấn Luật cư trú;
4. Củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy đăng ký, quản lý cư trú ở các cấp, nhất là cơ quan Công an cấp huyện, cấp xã; cải tiến lề lối làm việc của cán bộ làm công tác đăng ký, quản lý cư trú;
5. Bảo đảm điều kiện về cơ sở vật chất, nguồn nhân lực cho hoạt động đăng ký, quản lý cư trú và xây dựng cơ sở dữ liệu về cư trú;
6. Sửa đổi, bổ sung hệ thống giáo trình, tài liệu giảng dạy pháp luật về đăng ký, quản lý cư trú của các Học viện, các trường Công an nhân dân;
7. Hướng dẫn, chỉ đạo các báo, tạp chí của Công an nhân dân; chương trình phát thanh, truyền hình “Vì an ninh Tổ quốc”, các đơn vị làm công tác tuyên truyền trong Công an nhân dân để tuyên truyền sâu rộng về nội dung Luật cư trú.
8. Bộ Công an phối hợp với các Bộ, ngành chức năng tuyên truyền, phổ biến Luật cư trú trên các phương tiện thông tin đại chúng và bằng nhiều hình thức khác đến nhân dân;
9. Tổ chức rà soát các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến hộ khẩu để đề xuất các cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bãi bỏ những quy định lạm dụng hộ khẩu làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
-----------------------------------------------------------------------
BẠN CÓ THỂ ĐỌC TOÀN VĂN BẢN LUẬT CƯ TRÚ TẠI ĐÂY:
http://vietlaw.gov.vn/LAWNET/docView.do?docid=20520&type=html&searchType=fulltextsearch&searchText=
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét