Xét xử sơ khởi có bồi thẩm đoàn. Xét xử sơ khởi có bồi thẩm đoàn liên quan đến một thủ tục do tòa án quản lý diễn ra sau khi vụ án được khởi kiện nhưng trước khi được xét xử. Trong xét xử sơ khởi có bồi thẩm đoàn, mỗi bên trình bày lý lẽ của mình cho một bồi thẩm đoàn (thông thường gồm sáu người). Một bản khái quát lý lẽ của mỗi bên cũng như những lập luận vắn tắt mở đầu và kết thúc được trình bày. Thông thường, các luật sư được dành một khoảng thời gian ngắn (từ 1 giờ trở xuống) để trình bày. Họ bị hạn chế trong việc chỉ trình bày những thông tin mà có thể được chấp nhận khi xét xử. Không có lời khai nào được lấy từ những nhân chứng đã tuyên thệ, và biên bản lưu thông thường không được lập. Do biên bản lưu là không ràng buộc nên những quy định về thủ tục và bằng chứng linh động hơn so với một phiên tòa thông thường.
Bồi thẩm đoàn đưa ra một quyết định mang tính cố vấn, không ràng buộc, trên cơ sở những lý lẽ được trình bày. Trong trường hợp này, lời tuyên án được xây dựng ra cho có thể giúp cho các luật sư và khách hàng của họ nắm bắt tường tận vụ án. Nó cũng có thể tạo ra một cơ sở để giải quyết tranh chấp. Nếu tranh chấp không được giải quyết trong hoặc ngay sau khi xét xử sơ khởi có bồi thẩm đoàn thì một cuộc họp trước khi xét xử sẽ được tổ chức trước khi tòa án thảo luận việc giải quyết tranh chấp.
Một trong những lợi thế quan trọng của việc xét xử sơ khởi có bồi thẩm đoàn là thời gian thực hiện. Một cuộc xét xử sơ khởi có bồi thẩm đoàn thường được tiến hành trong vòng chưa đến một ngày so với vài ngày hoặc vài tuần của những phiên tòa xét xử đầy đủ.
Xét xử riêng. Phương pháp giải quyết tranh chấp bằng biện pháp thay thế này sử dụng những thẩm phán đã về hưu, những người làm việc để nhận phí. Những người ủng hộ khẳng định phương pháp này có một số lợi thế. Thứ nhất, các bên có thể chọn ra một người với những phẩm chất và kinh nghiệm thỏa đáng để giải quyết vụ việc. Thứ hai, các bên có thể được bảo đảm rằng vụ việc sẽ được giải quyết ngay sau khi lên kế hoạch và không bị kéo dài vì lịch làm việc của tòa án quá dầy đặc. Cuối cùng, chi phí cho phương pháp này có thể thấp hơn so với tranh kiện đầy đủ. Tuy nhiên, cũng có những lời phê bình phương pháp xét xử riêng, đó là mức phí cao do một số thẩm phán đã về hưu đặt ra. Chẳng hạn, một tòa phúc thẩm ở California đã lưu ý rằng một số thẩm phán đương nhiệm đang rời bỏ công việc của mình để kiếm thêm tiền với tư cách là những thẩm phán xét xử riêng.
Những tòa án chuyên biệt
Hệ thống tòa án bang thường được đặc trưng bở i rất nhiều tòa án chuyên biệt được thành lập để giải quyết những loại vụ án dân sự cụ thể. Những tòa án xét xử các mối quan hệ trong gia đình thường được thành lập để giải quyết những vấn đề như ly hôn, chăm sóc con cái và hỗ trợ con cái. Trong nhiều khu vực tài phán, những tòa án về thủ tục di chúc giải quyết việc phân xử di sản và tranh chấp di chúc.
Có lẽ loại tòa án chuyên biệt được biết đến nhiều nhất là những tòa án giải quyết khiếu kiện giá trị nhỏ. Những tòa án này có thẩm quyền pháp lý xét xử những vụ án mà số tiền khiếu kiện để đòi không vượt quá một con số nào đó. Trị giá tiền đòi thay đổi theo thẩm quyền pháp lý nhưng mức tối đa thường là 500 hoặc 1.000 USD. Những tòa án giải quyết khiếu kiện giá trị nhỏ giúp cho những vụ án ít phức tạp hơn được giải quyết một cách không chính thức hơn so với hầu hết những tòa án xét xử khác. Phí khởi kiện là thấp, và việc sử dụng luật sư thường không được khuyến khích, khiến cho người dân bình thường có thể đến được với những tòa án giải quyết khiếu kiện giá trị nhỏ.
Các cơ quan hành chính
Rất nhiều cơ quan chính phủ cũng đã thành lập các đơn vị hành chính với thẩm quyền bán tư pháp được phép giải quyết một số loại vụ án nhất định. Chẳng hạn ở cấp độ liên bang, các cơ quan như Ủy ban thương mại liên bang và Ủy ban thông tin liên tục liên bang tiến hành việc phân xử những vụ việc thuộc phạm vi thẩm quyền của họ. Kháng án về phán quyết của một trong những cơ quan này có thể được đưa lên xem xét ở tòa án phúc thẩm liên bang.
Ở cấp bang, ví dụ phổ biến về một cơ quan hành chính hỗ trợ việc giải quyết các khiếu kiện dân sự là Ủy ban bồi thường cho công nhân. Ủy ban nà y xác định liệu thương tích của một người làm công ăn lương có liên quan tới công việc hay không và do đó họ có được trả tiền bồi thường hay không. Rất nhiều phòng / ban quản lý phương tiện đi lại có gắn máy có các ủy ban điều trần để quyết định việc thu hồi giấy phép lái xe. Một hình thức khác của ủy ban hành chính cũng thường được bắt gặp trong những quy định của bang về các vấn đề quyền dân sự và các trường hợp bị cáo buộc là phân biệt đối xử.
TRÌNH TỰ TỐ TỤNG DÂN SỰ
Một số vụ tranh chấp được giải quyết bằng những phương pháp giải quyết tranh chấp khác nhau, trong một tòa án chuyên môn, hoặc thông qua một cơ quan hành chính. Tuy nhiên, hàng năm vẫn có rất nhiều vụ tranh chấp phải đưa ra trước tòa án dân sự để giải quyết.
Nhìn chung, thủ tục tranh tụng được sử dụng trong các phiên tòa hình sự cũng được sử dụng tại các tòa án dân sự, với một số khác biệt quan trọng. Thứ nhất, nguyên đơn phải có vị thế tranh chấp. Khái niệm này đơn giản có nghĩa là người khởi xướng vụ kiện phải có lợi ích cá nhân liên quan tới kết quả của vụ tranh cãi. Bằng không, sẽ không có tranh cãi thực sự giữa các bên và do vậy không có vụ việc thực tế để tòa phân xử.
Sự khác biệt lớn thứ hai là ở chỗ chuẩn mực về bằng chứng được sử dụng trong các vụ án dân sự là chứng cứ vượt trội của nguyên đơn để thuyết phục được tòa, chứ không phải tiêu chuẩn “nằm ngoài một sự nghi ngờ hợp lý” nghiêm ngặt thường được sử dụng trong các vụ án hình sự. Chứng cứ vượt trội của nguyên đơn thường có nghĩa là có đủ bằng chứng để vượt qua sự nghi ngờ hoặc suy đoán. Nó hiển nhiên có nghĩa là các vụ án dân sự thường cần ít bằng chứng hơn so với các vụ án hình sự.
Khác biệt lớn thứ ba là rất nhiều sự bảo đảm về quy trình tố tụng mở rộng mà bị đơn có được trong vụ án hình sự không được áp dụng trong tố tụng dân sự. Ví dụ, Hiến pháp không cho phép các bên được bàn bạc, thảo luận với nhau. Tu chính án Hiến pháp thứ bảy bảo đảm quyền có một bồi thẩm đoàn trong các vụ kiện “mà giá trị tranh chấp vượt quá 20 USD.” Mặc dù tu chính án này không được áp dụng đối với các bang, nhưng hầu hết các bang đều có những bảo đảm về hiến pháp tương tự.
Khởi lập một vụ kiện dân sự
Người khởi lập vụ kiện dân sự được gọi là nguyên đơn, còn người bị kiện là bị đơn hoặc bên bị. Một vụ kiện dân sự được gọi theo tên của nguyên đơn và bị đơn, ví dụ như Jones kiện Miller. Tên của nguyên đơn đứng trước. Trong một vụ kiện thông thường, luật sư của nguyên đơn trả một khoản phí và đệ trình một khiếu kiện hoặc kiến nghị tới ban thư ký của một tòa án phù hợp. Khiếu kiện nêu rõ những sự kiện làm cơ sở cho hành động, những thiệt hại xảy ra, và phán quyết hoặc đền bù mà nguyên đơn mong muốn.
Quyết định về việc tòa án nào sẽ thụ lý vụ việc liên quan tới các khái niệm về quyền hạn xét xử và nơi chốn: Quyền hạn xét xử liên quan tới thẩm quyền của tòa án để thực thi quyền lực pháp lý, còn nơi chốn có nghĩa là địa điểm mà thẩm quyền này có thể được thực thi.
Những yêu cầu về quyền hạn xét xử được thỏa mãn khi tòa án có thẩm quyền pháp lý đối với cả vấn đề tranh cãi và bản thân bị đơn. Điều này có nghĩa rằng một số tòa án có thể có quyền hạn xét xử đối với cùng một vụ việc. Ví dụ, giả sử rằng một người cư trú tại Dayton, Ohio, bị thương rất nặng trong một tai nạn ôtô tại Tennessee khi xe của anh ta đang lái bị tông vào phía sau bởi một chiếc xe khác do một người cư trú tại Kingsport, Tennessee, lái. Tổng thiệt hại đối với người lái xe ở Ohio và xe của anh ta là 80.000 USD. Một tòa xét xử cấp bang ở Ohio có thẩm quyền đối với đối tượng tranh tụng, và Ohio hoàn toàn có thể có quyền tài phán đối với bị đơn. Bên cạnh đó, các tòa án bang Tennessee cũng có thể có quyền tài phán. Các tòa án hạt liên bang ở cả Ohio và Tennessee cũng có quyền tài phán bởi vì vụ việc có liên quan tới công dân của các bang khác nhau và giá trị của vụ tranh chấp vượt quá 75.000 USD. Giả sử rằng quyền tài phán là yếu tố duy nhất cần quan tâm, nguyên đơn có thể kiện tại bất cứ tòa án nào trong số những tòa án kể trên.
Việc xác định nơi xét xử phù hợp có thể được quy định bởi luật trên cơ sở nhằm tránh những thiên kiến, hoặc đơn giản chỉ là để cho thuận tiện. Luật liên bang quy định rằng nơi xét xử phù hợp là tòa án hạt mà tại đó nguyên đơn hoặc bị đơn cư trú, hoặc tại nơi vụ việc xảy ra. Các quy định về tòa xét xử của các bang có khác nhau đôi chút, song chúng thường quy định rằng khi vụ việc có liên quan đến đất đai, thì tòa xét xử sẽ là tòa án hạt nơi có khu đất đó. Trong hầu hết các trường hợp khác, tòa xét xử sẽ là tòa án hạt nơi bị đơn cư trú.
Các vấn đề về nơi xét xử cũng có thể liên quan tới thiên kiến được nhận thấy hoặc được e ngại sẽ xảy ra của thẩm phán hoặc bồi thẩm đoàn tương lai. Đôi khi, các luật sư phản đối các phiên tòa được tổ chức tại một khu vực cụ thể vì lý do này và có thể đề nghị chuyển vụ tố tụng cho tòa án tại nơi khác. Mặc dù hình thức phản đối này có lẽ thường xuất hiện nhiều hơn ở các phiên tòa hình sự được công khai rộng rãi, song nó cũng không phải là không có tại các phiên tòa dân sự.
Khi tòa án phù hợp đã được xác định và đơn khiếu tố đã được gửi đi, viên lục sự tòa sẽ đính kèm bản sao đơn khiếu tố này với trát đòi của tòa gửi tới bị đơn sau đó. Trát đòi có thể được tống đạt bởi nhân viên của văn phòng quận trưởng, văn phòng cảnh sát trưởng hoặc một cơ quan dịch vụ tố tụng tư nhân.
Trát đòi yêu cầu bị đơn phải đệ trình một lời phúc đáp, được biết đến như lời biện hộ, trong một khoảng thời gian xác định (thường là 30 ngày). Nếu bị đơn không làm như vậy, ông ta / bà ta có thể sẽ phải chịu sự xét xử vắng mặt.
Những hành động đơn giản này của nguyên đơn, thư ký tòa án và người tống đạt theo thủ tục sẽ khởi đầu quá trình của một phiên tòa dân sự. Những gì xảy ra tiếp theo là hàng loạt hoạt động nhộn nhịp diễn ra trước phiên tòa thực sự và có thể kéo dài vài tháng. Khoảng 75% các vụ việc đã được giải quyết mà không cần đến tòa án trong thời gian này.
Những hoạt động diễn ra trước phiên tòa
Kiến nghị. Khi trát đòi đã được tống đạt tới bị đơn, luật sư của bị đơn có thể đưa ra một số kiến nghị. Một kiến nghị hủy bỏ thường yêu cầu rằng tòa án tuyên bố trát đòi không có hiệu lực trên cơ sở nó không được tống đạt đúng cách. Ví dụ, bị đơn có thể khiếu nại rằng trát đòi đã không được chuyển cho đích thân bị đơn theo như yêu cầu của luật pháp bang.
Có hai loại kiến nghị nhằm làm rõ hoặc phản đối khiếu kiện của nguyên đơn. Một kiến nghị phản đối yêu cầu tòa án cắt bỏ hoặc xóa bớt một số phần nhất định trong đơn khiếu tố bởi vì chúng không đúng, không thích hợp, hoặc không liên quan. Một kiến nghị làm rõ thường đề nghị tòa án yêu cầu nguyên đơn phải nêu cụ thể hơn những lời khiếu kiện.
Hình thức kiến nghị thứ tư thường được đưa ra trong một vụ án dân sự là kiến nghị bác bỏ. Kiến nghị này có thể lập luận rằng tòa án không đủ thẩm quyền tài phán, hoặc có thể cho rằng nguyên đơn không đưa ra được cơ sở pháp lý thuyết phục cho hành động chống lại bị đơn, cho dù những lời cáo buộc là đúng.
Trả lời. Nếu đơn khiếu tố vẫn được duy trì sau phán quyết của thẩm phán đối với các kiến nghị, bị đơn lúc đó sẽ phải đệ trình một bản trả lời cho đơn khiếu tố. Bản trả lời này có thể bao gồm lý lẽ thừa nhận, phủ nhận, biện hộ và phản tố. Khi trong bản trả lời có sự thừa nhận, sẽ không cần phải chứng minh sự việc trong phiên tòa. Tuy nhiên, một sự phủ nhận sẽ dẫn tới việc phải chứng minh sự việc trong quá trình diễn ra phiên tòa. Lời biện hộ nói rằng một số sự việc được nêu trong bản trả lời có thể khiến cho nguyên đơn không thể yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Bị đơn có thể tiến hành một hành động riêng biệt được gọi là phản tố. Nếu bị đơn nghĩ rằng có cơ sở cho hành động chống lại nguyên đơn phát sinh từ chính những sự kiện trên, ông ta / bà ta phải đệ trình khiếu kiện lên tòa án để đáp lại khiếu kiện của nguyên đơn. Nguyên đơn sẽ phải gửi một bản phúc đáp cho bản trả lời của bị đơn. Trong bản phúc đáp này, nguyên đơn có thể thừa nhận, phủ nhận hoặc biện hộ chống lại những lời cáo buộc hoặc sự việc được nêu ra trong lời phản tố.
Tiết lộ các tài liệu. Hệ thống pháp lý Hoa Kỳ quy định thủ tục tiết lộ các tài liệu; có nghĩa là mỗi bên đều có quyền được biết các thông tin thuộc sở hữu của bên kia. Có một số hình thức tiết lộ tài liệu như sau:
Bằng chứng cung cấp thêm là bản khai của một nhân chứng đã được tuyên thệ bên ngoài phiên tòa. Bản khai này được viết dưới hình thức các câu hỏi và trả lời giống như trong phiên tòa. Tất cả các bên có liên quan tới vụ việc đều phải được thông báo về việc khai báo này của nhân chứng để luật sư của họ có thể có mặt để đối chất nhân chứng.
Các câu thẩm vấn là những câu hỏi viết phải được trả lời sau khi đã tuyên thệ. Các câu thẩm vấn có thể chỉ được đưa cho các bên trong vụ kiện, chứ không đưa cho nhân chứng. Chúng được sử dụng nhằm mô tả bằng chứng mà bên đối lập đưa ra trong vụ kiện.
Một bên trong vụ kiện có thể yêu cầu được xem các tài liệu nếu họ muốn thẩm tra các tài liệu, văn bản, bản vẽ, biểu đồ, sơ đồ, bản đồ, ảnh hoặc những thứ khác mà bên kia đang nắm giữ.
Nếu có các câu hỏi về tình trạng thể chất hoặc tinh thần của một trong hai bên, tòa án có thể yêu cầu người đó đệ trình một giấy khám sức khỏe do bác sĩ cấp.
Hội ý trước phiên tòa. Trước khi tòa xét xử, thẩm phán có thể đề nghị một cuộc hội ý trước phiên tòa để thảo luận các vấn đề không chính thức với luật sư của các bên. Thông lệ chung chỉ cho phép thẩm phán và các luật sư tham gia hội ý, và cuộc hội ý này thường diễn ra tại phòng của thẩm phán.
Tại cuộc họp này, thẩm phán và các luật sư cố gắng đi đến thỏa thuận về những vấn đề thực tế không thể tranh cãi được, thường được gọi là các quy tắc thỏa thuận. Mục tiêu của các quy tắc thỏa thuận này là nhằm làm cho phiên tòa thực tế diễn ra hiệu quả hơn bằng việc giảm bớt những vấn đề phải tranh cãi trong phiên tòa. Các luật sư cũng cho bên kia xem danh sách các nhân chứng và tài liệu vốn là một phần của vụ kiện.
Các luật sư và thẩm phán cũng có thể sử dụng cuộc hội ý trước phiên tòa để cố gắng giải quyết vụ kiện. Một số thẩm phán rất tích cực làm việc để đạt được thỏa thuận giữa hai bên, và do vậy không phải đưa vụ kiện ra xét xử trước tòa.
Phiên tòa dân sự
Lựa chọn bồi thẩm đoàn. Tu chính án Hiến pháp thứ bảy bảo đảm quyền được xét xử bởi bồi thẩm đoàn trong một vụ kiện dân sự tại một tòa án liên bang. Các hiến pháp của bang cũng quy định quyền này. Quyền được xét xử bởi bồi thẩm đoàn có thể bị khước từ, và trong trường hợp đó thẩm phán sẽ quyết định vụ kiện. Mặc dù theo truyền thống, bồi thẩm đoàn thường gồm 12 người, song hiện nay con số này rất khác biệt giữa các nơi. Hầu hết các tòa án hạt thuộc liên bang ngày nay đều sử dụng bồi thẩm đoàn ít hơn 12 người trong các vụ kiện dân sự. Phần lớn các bang cũng ủy quyền cho các bồi thẩm đoàn với quy mô nhỏ hơn trong một số hoặc tất cả các phiên tòa dân sự.
Giống như trong các phiên tòa hình sự, các thành viên của bồi thẩm đoàn phải được lựa chọn một cách ngẫu nhiên từ một bộ phận tương đối tiêu biểu của cộng đồng. Một nhóm thành viên bồi thẩm đoàn đông hơn được triệu tập tới trụ sở tòa án, và khi một vụ kiện được chỉ định cho tòa dân sự, một nhóm nhỏ hơn các thành viên bồi thẩm đoàn sẽ được đưa đến một phòng xử án cụ thể.
Sau khi tiến hành thẩm tra sơ khởi - việc thẩm tra này có thể bao gồm cả sự phản đối của các luật sư đối với một số thành viên nào đó - một ban bồi thẩm sẽ ngồi tại tòa để nghe xét vụ việc cụ thể. Các luật sư có thể phản đối có lý do đối với một thành viên bồi thẩm đoàn; trong trường hợp này thẩm phán sẽ phải quyết định liệu người bị phản đối có thiên kiến hay không. Mỗi bên có thể đưa ra một số nhất định những phản đối suy đoán - phản đối một thành viên bồi thẩm đoàn mà không cần phải nêu bất kỳ một lý do nào. Tuy nhiên, Tòa án tối cao Hoa Kỳ đã phán quyết rằng sự bảo đảm về quyền bình đẳng của Tu chính án Hiến pháp thứ mười bốn cấm việc sử dụng những phản đối này để tuyên bố các thành viên bồi thẩm đoàn là không đủ tư cách vì lý do chủng tộc hay giới tính của họ. Các phản đối suy đoán được quy định số lượng bởi luật pháp hoặc phán quyết tòa án và thường dao động từ hai tới sáu.
Các tuyên bố mở màn. Sau khi chọn xong bồi thẩm đoàn, các luật sư trình bày tuyên bố mở màn của mình. Luật sư của bên nguyên bắt đầu trước. Ông / bà ta sẽ giải thích cho bồi thẩm đoàn về vụ việc và về những gì mà bên nguyên muốn chứng minh. Luật sư của bên bị thường có thể lựa chọn việc trình bày tuyên bố mở màn của mình ngay sau khi luật sư bên nguyên kết thúc tuyên bố mở màn, hoặc đợi cho tới khi bên nguyên trình bày xong toàn bộ vụ việc. Nếu luật sư của bên bị chờ đợi, ông / bà ta sẽ trình bày toàn bộ vụ việc về phía bị đơn một cách liên tục, từ tuyên bố mở màn cho tới những nội dung tiếp theo. Các tuyên bố mở màn là rất có giá trị, bởi vì chúng khái quát vụ việc và giúp bồi thẩm đoàn dễ dàng hiểu được các bằng chứng khi chúng được đưa ra.
Trình bày lý lẽ của bên nguyên. Trong một phiên tòa dân sự thông thường, bên nguyên trình bày và cố gắng chứng minh vụ việc của mình với bồi thẩm đoàn trước, đồng thời là bên cuối cùng đưa ra các lập luận kết thúc. Khi trình bày vụ việc, luật sư của bên nguyên thường cho gọi các nhân chứng để làm chứng và đưa ra các tài liệu hoặc các vật chứng khác.
Khi một nhân chứng được cho gọi, ông / bà ta sẽ bị thẩm vấn trực tiếp bởi luật sư bên nguyên. Tiếp đó luật sư bên bị sẽ có cơ hội hỏi các câu hỏi hoặc đối chất với nhân chứng. Tòa án tối cao bang Arizona gần đây đã tiến hành một số bước để giúp thành viên bồi thẩm đoàn có thể ra những quyết định đúng đắn hơn trong các phiên tòa dân sự. Bên cạnh những quy định khác, tòa án cấp cao nhất này của bang đã thông qua việc cho phép thành viên bồi thẩm đoàn được chuyển các câu hỏi viết cho nhân chứng thông qua thẩm phán. Các bang khác đang xem xét việc thực hiện thông lệ mới của Arizona. Sau khi đối chất, luật sư của bên nguyên có thể tiếp tục hỏi trực tiếp nhân chứng, và tiếp đó luật sư bên bị tiếp tục đối chất với nhân chứng.
Nhìn chung, các nhân chứng có thể chỉ làm chứng về những vấn đề mà họ đã trực tiếp nhìn thấy; họ thường không trình bày ý kiến của mình. Tuy nhiên, có một ngoại lệ rất quan trọng cho quy định chung này là các nhân chứng có trình độ chuyên môn có thể được triệu tập cụ thể để đưa ra ý kiến về những vấn đề thuộc phạm vi chuyên môn của họ.
Để được coi là một nhân chứng có trình độ chuyên môn, người đó phải có kiến thức thực tế về một lĩnh vực cụ thể. Hơn nữa, kiến thức này thường phải được xác minh trong quá trình tranh luận tại tòa. Cả hai bên thường giới thiệu những chuyên gia mà ý kiến của họ mâu thuẫn nhau. Khi điều này xảy ra, bồi thẩm đoàn sẽ là người cuối cùng quyết định ý kiến nào là đúng.
Khi bên nguyên đã trình bày xong toàn bộ chứng cớ, luật sư tuyên bố kết thúc phần trình bày về vụ việc (quay về vị trí của mình).
Kiến nghị phán quyết bác bỏ. Sau khi bên nguyên đã kết thúc phần trình bày về vụ kiện, bị đơn thường đưa ra kiến nghị về một phán quyết bác bỏ vụ kiện. Khi đưa ra kiến nghị này, có nghĩa là bị đơn cho rằng nguyên đơn không chứng minh được vụ việc của mình và phải bị xử thua. Lúc này, thẩm phán sẽ quyết định liệu bên nguyên có thể thắng được tại điểm này nếu vụ kiện bị ngừng lại. Nếu như thẩm phán quyết định rằng các chứng cứ của bên nguyên không đủ thuyết phục, ông / bà ta sẽ chấp nhận kiến nghị và đưa ra phán quyết bác bỏ cho bị đơn. Như vậy, nguyên đơn sẽ thua kiện. Kiến nghị phán quyết bác bỏ này cũng tương tự như kiến nghị bác bỏ trước khi diễn ra phiên tòa.
Phần trình bày lý lẽ của bên bị. Nếu như kiến nghị về phán quyết bác bỏ bị bác, bị đơn sẽ phải trình bày các chứng cứ. Phần trình bày lý lẽ của bị đơn sẽ giống như phần trình bày của nguyên đơn. Có nghĩa là, sẽ có sự thẩm tra trực tiếp các nhân chứng, đệ trình các tài liệu và các vật chứng khác. Bên nguyên có quyền đối chất với nhân chứng. Sau đó sẽ là việc thẩm tra lại và đối chất lại.
Bác bỏ của bên nguyên. Sau phần trình bày của bị đơn, nguyên đơn có thể đưa ra những bằng chứng bác bỏ, nhằm mục đích bác bỏ các bằng chứng của bị đơn.
Phản bác đối với sự bác bỏ của bên nguyên. Luật sư của bên bị có thể trình bày những bằng chứng để phản bác lại những bằng chứng bác bỏ của bên nguyên. Hình thức “bác bỏ và phản bác” này có thể được tiếp tục cho tới tận khi không còn bằng chứng nào cả.
Các lập luận kết thúc. Sau khi tất cả các bằng chứng đã được trình lên, các luật sư sẽ đưa ra những lập luận kết thúc, hoặc phần tổng kết, cho bồi thẩm đoàn. Luật sư của bên nguyên sẽ nói cả trước và sau. Điều đó có nghĩa là ông / bà ta sẽ vừa mở đầu vừa kết thúc phần lập luận, còn luật sư của bên bị sẽ tranh luận chen ngang. Trong giai đoạn này của phiên xét xử, mỗi luật sư sẽ công kích bằng chứng của bên kia là không đáng tin cậy và cũng có thể cố gắng làm mất tín nhiệm đối với nhân chứng của đối phương. Trong việc này, các luật sư thường sử dụng tài hùng biện hoặc đưa ra những yêu cầu khẩn thiết đầy xúc động đối với bồi thẩm đoàn. Tuy nhiên, các lập luận nhất thiết phải dựa trên các sự việc thực tế được chứng minh bởi bằng chứng và được trình lên trong phiên tòa.
Hướng dẫn cho bồi thẩm đoàn. Giả thiết rằng một phiên tòa được xét xử bởi bồi thẩm đoàn không bị khước từ, các hướng dẫn dành cho bồi thẩm đoàn sẽ được đưa ra sau khi chấm dứt phần lập luận kết thúc. Thẩm phán thông báo cho bồi thẩm đoàn rằng bồi thẩm đoàn phải phán quyết dựa trên các bằng chứng được đưa ra trước tòa. Các hướng dẫn của thẩm phán cũng thông báo cho thành viên bồi thẩm đoàn biết về những quy định, nguyên tắc và tiêu chuẩn của khái niệm pháp lý cụ thể có liên quan. Trong các phiên tòa dân sự, một kết luận dành cho nguyên đơn phải được dựa trên cơ sở sự vượt trội về bằng chứng. Điều đó có nghĩa là các thành viên bồi thẩm đoàn phải cân nhắc các bằng chứng được trình bày trong phiên tòa và quyết định trong đầu xem các bằng chứng có sức thuyết phục hơn, xét về cả tình tiết và giá trị, có lợi cho nguyên đơn hay không.
Phán quyết. Bồi thẩm đoàn sẽ lui vào phòng bồi thẩm đoàn để hội ý riêng với nhau về quyết định của mình. Các thành viên phải đưa ra một phán quyết mà không có sự liên hệ với bên ngoài. Trong một số trường hợp, cuộc thảo luận có thể kéo dài và chi tiết tới mức các bồi thẩm đoàn phải được cung cấp đồ ăn và chỗ ngủ cho tới tận khi họ đưa ra được phán quyết. Lúc đó, phán quyết sẽ là sự nhất trí của tất cả các thành viên bồi thẩm đoàn sau khi đã thảo luận và phân tích chi tiết các bằng chứng. Đôi khi, bồi thẩm đoàn đã cân nhắc và thảo luận hết sức kỹ lưỡng với tất cả thiện ý, song vẫn không đi tới được phán quyết. Khi trường hợp này xảy ra, thẩm phán sẽ tuyên bố hủy bỏ phiên tòa để thay thế bằng một bồi thẩm đoàn khác. Điều đó có nghĩa là sẽ phải tiến hành một phiên xét xử mới.
Sau khi đã đưa ra được phán quyết, bồi thẩm đoàn sẽ quay trở lại phòng xử án, và tại đó họ sẽ chuyển phán quyết cho thẩm phán. Các bên được thông báo về phán quyết. Theo thông lệ, lúc đó bồi thẩm đoàn sẽ được xin ý kiến về phán quyết - thẩm phán sẽ hỏi từng thành viên bồi thẩm đoàn xem họ có đồng tình với phán quyết hay không.
Các kiến nghị sau phiên xét xử. Khi phán quyết đã được công bố, bên không hài lòng với phán quyết có thể tiếp tục tiến hành rất nhiều chiến thuật. Bên thua kiện có thể đệ trình một kiến nghị về bản án bất chấp phán quyết đã đưa ra. Hình thức kiến nghị này được cho phép khi thẩm phán quyết định rằng phán quyết mà bồi thẩm đoàn đã đưa ra là không hợp lý.
Bên thua kiện cũng có thể đệ trình kiến nghị về việc mở một phiên tòa mới. Thông thường, cơ sở đề xuất kiến nghị này là phán quyết đưa ra đã đi ngược lại với sức nặng về bằng chứng. Thẩm phán sẽ chấp thuận kiến nghị trên cơ sở đó nếu ông / bà ta đồng tình rằng các bằng chứng được đưa ra đơn giản là không hỗ trợ cho phán quyết mà bồi thẩm đoàn đã tuyên bố. Một phiên tòa mới cũng có thể được chấp nhận vì một số lý do, ví dụ như: thiệt hại quá mức, thiệt hại hoàn toàn không tương xứng, việc phát hiện ra các bằng chứng mới, và sai sót khi đưa ra bằng chứng, v.v..
Trong một số trường hợp, bên thua kiện cũng có thể đệ trình một kiến nghị miễn giảm bản án. Loại kiến nghị này có thể được chấp nhận nếu thẩm phán phát hiện sai sót khi ghi chép bản án, khám phá thêm một số bằng chứng mới, hoặc xác định rằng bản án đã bị làm sai lệch theo cách gian lận.
Án văn và thi hành. Một phán quyết có lợi cho bị đơn sẽ kết thúc phiên xét xử, nhưng phán quyết có lợi cho nguyên đơn đòi hỏi phải có thêm một giai đoạn nữa trong trình tự tố tụng. Trong các phiên tòa dân sự thường không có bản án, nhưng phải xác định phương thức bồi thường hoặc các thiệt hại được ước tính. Sự xác định này được gọi là án văn.
Trong trường hợp án văn là về thiệt hại về tiền bạc và bị đơn không tự nguyện trả số tiền đã được nêu, bên nguyên có thể đề nghị viên lục sự tòa đưa ra một lệnh thi hành án. Lệnh thi hành sẽ được chuyển đến văn phòng cảnh sát trưởng, yêu cầu cảnh sát trưởng tịch biên tài sản của bên bị và bán đấu giá chúng để trả cho nguyên đơn theo án đã tuyên. Có một cách khác là ban hành một lệnh cầm cố - đây là một quyền pháp lý cho phép giữ tài sản có thể được sử dụng để trả cho nguyên đơn theo án văn.
Kháng án. Nếu một bên cảm thấy có sự sai sót về luật pháp trong quá trình xét xử, và nếu thẩm phán không chấp nhận kiến nghị sau phiên xử về việc mở một phiên xét xử mới, bên không hài lòng có thể kháng án lên một tòa án cấp cao hơn. Có lẽ những lý lẽ phổ biến nhất cho việc kháng án này là vì thẩm phán đã chấp nhận những bằng chứng mà lẽ ra phải bị loại trừ, từ chối chấp nhận những bằng chứng lẽ ra phải được đưa vào, hoặc không đưa ra những chỉ dẫn phù hợp cho bồi thẩm đoàn.
Một luật sư đưa ra cơ sở cho việc kháng án bằng cách phản đối những sai sót mà ông ta cho rằng đã xuất hiện trong quá trình xét xử. Sự phản đối này sẽ được ghi trong hồ sơ xét xử và trở thành một phần của biên bản phiên tòa; những chi tiết này sau này sẽ được xem xét bởi tòa phúc thẩm. Quyết định của tòa phúc thẩm có thể là giữ nguyên bản án của tòa cấp thấp hơn hoặc mở một phiên xét xử mới.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét