Thứ Tư, 15 tháng 8, 2007

MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ THEO TINH THẦN DỰ THẢO 11 BLTTDS (BLTTDS NAY ĐÃ ĐƯỢC BAN HÀNH)


Theo Ch­ương trình xây dựng luật của Quốc hội, Dự án Bộ luật tố tụng dân sự sẽ được xem xét, thông qua tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khoá 11. Đây là Bộ luật lớn trong đó quy định những nguyên tắc cơ bản trong tố tụng dân sự; trình tự, thủ tục khởi kiện, yêu cầu Toà án giải quyết các vụ án, tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh tế, lao động; quy định trình tự, thủ tục giải quyết các vụ việc này tại Toà án; quyền hạn và trách nhiệm của người tiến hành tố tụng; quyền và nghĩa vụ của ng­ười tham gia tố tụng, của cá nhân, tổ chức có liên quan và nguyên tắc cơ bản về thi hành án nhằm bảo đảm cho việc giải quyết các vụ việc dân sự được nhanh chóng, công minh và đúng pháp luật.
Trong phạm vi chuyên đề này, chúng tôi xin phân tích một số nội dung cơ bản về pháp luật tố tụng dân sự theo nội dung của Dự thảo lần thứ 11, tháng 11-2003.

I. Một số nguyên tắc cơ bản của tố tụng dân sự
Trên cơ sở phân loại theo từng nhóm đối với đương sự, đối với người tiến hành tố tụng, đối với tổ chức và hoạt động của Toà án và Viện kiểm sát nhân dân, pháp luật tố tụng dân sự có một số nguyên tắc cơ bản sau:

1. Nguyên tắc tự định đoạt
Tố tụng dân sự có nhiều nguyên tắc cơ bản, các nguyên tắc này có sự tác động qua lại và có mối liên quan mật thiết đến nhau. Tuy nhiên nổi trội hơn cả là nguyên tắc tự định đoạt của đương sự.
Theo quy định của Hiến pháp và pháp luật, đặc biệt là Bộ luật dân sự, thì quyền sở hữu là quyền năng cơ bản của công dân, của tổ chức đối với tài sản. Chủ sở hữu có các quyền chiếm giữ tài sản, quyền sử dụng tài sản để khai thác lợi ích và quan trọng nhất là quyền định đoạt, quyết định số phận của tài sản đó, nghĩa là chủ sở hữu có quyền cho ngư­ời khác thuê, bán hoặc mượn tài sản… Quyền này là chính đáng được pháp luật bảo vệ. Khi quyền của chủ sở hữu trong quan hệ mà họ cho là bị vi phạm thì họ có quyền khởi kiện yêu cầu Nhà nước (thông qua Toà án) bảo vệ. Nguyên tắc tự định đoạt của đương sự được thể hiện trong suốt các giai đoạn của quá trình tố tụng, họ có thể khởi kiện hoặc không khởi kiện, có thể rút yêu cầu nhờ Nhà nước bảo vệ trong quá trình xác minh, hoà giải, xét xử, thậm chí kể cả trong các giai đoạn của quá trình thi hành án.
Nguyên tắc tự định đoạt là nguyên tắc quan trọng trong nhiều lĩnh vực. Ngay cả pháp luật tố tụng hình sự[1]cũng quy định về một số tội chỉ được khởi tố, truy tố hoặc đình chỉ khi có yêu cầu của người bị hại. Đối với tố tụng dân sự, nguyên tắc này là cơ bản và có liên quan, chi phối nhiều quy định cụ thể khác.

2. Nguyên tắc hoà giải
Hoà giải là một trong những biện pháp quan trọng và là nguyên tắc cơ bản trong Tố tụng dân sự, với mục đích phát huy truyền thống đoàn kết, tương thân, tương ái trong cộng đồng dân cư, nâng cao kết quả giải quyết những tranh chấp trong nhân dân, xuất phát từ quan hệ dân sự được thiết lập trên cơ sở tự nguyện của các bên và nguyên tắc tự định đoạt của đương sự. Công tác hoà giải có ý nghĩa quan trọng, làm tốt hoà giải sẽ hạn chế những chi phí tốn kém về tiền bạc và thời gian của nhà nước cũng như của công dân, hạn chế được khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực tư pháp. Trong quá trình giải quyết vụ án, Toà án phải có trách nhiệm làm công tác hoà giải, đây là một thủ tục bắt buộc trong quá trình giải quyết của Toà án (trừ một số vụ, việc pháp luật quy định không được hoà giải như: việc huỷ quan hệ hôn nhân trái pháp luật, bồi thường thiệt hại cho Nhà nước, giao dịch trái pháp luật…). Trong những năm qua, công tác hoà giải đã có những thành tích nhất định, số lượng vụ việc tranh chấp dân sự được hoà giải thành chiếm tỷ lệ khá lớn trong tổng số vụ án mà Toà án đã thụ lý giải quyết. Kế thừa nội dung này trong dự thảo Bộ luật TTDS đã quy định việc hoà giải được thực hiện ở các giai đoạn xét xử sơ thẩm, phúc thẩm. Ngoài những quy định về hoà giải trong các pháp lệnh về thủ tục tố tụng, ngày 25-12-1998 Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh về tổ chức và hoạt động hoà giải ở cơ sở trong đó việc hoà giải được tiến hành đối với những tranh chấp về quyền, lợi ích phát sinh từ quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình.

3. Về cung cấp chứng cứ và chứng minh
Khác với nguyên tắc trong tố tụng hình sự là việc chứng minh tội phạm do cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện, do đó cơ quan tố tụng phải điều tra, thu thập chứng cứ để chứng minh tội phạm. Trong tố tụng dân sự, xuất phát từ nguyên tắc tự thoả thuận và định đoạt của đương sự nên khi các đương sự đưa ra yêu cầu Toà án bảo vệ quyền lợi của mình thì đồng thời họ có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ để làm cơ sở chứng minh yêu cầu của mình có căn cứ hợp pháp hoặc đưa ra chứng cứ để phản đối yêu cầu của bên kia. Nghĩa vụ cung cấp chứng cứ thuộc về các đương sự, vì các vụ án phát sinh chủ yếu do có sự tranh chấp về quyền và lợi ích giữa các đương sự nên họ hiểu rõ nguyên nhân và điều kiện phát sinh.
Việc quy định đương sự có nghĩa vụ phải cung cấp chứng cứ là phù hợp, nhưng trên thực tế nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp làm ảnh hưởng đến quá trình giải quyết của vụ án, chẳng hạn do tính chất của giải quyết tranh chấp nếu bên nguyên đơn có lợi thì họ nhiệt tình tìm kiếm, sẵn sàng cung cấp chứng cứ cho Toà án và bên bị thì ngược lại nếu bị bất lợi thì không muốn cung cấp chứng cứ cho toà án. Trong điều kiện như vậy thẩm phán muốn có căn cứ giải quyết vụ án đúng pháp luật thì phải tiến hành thu thập các chứng cứ. Pháp lệnh thủ tục tố tụng hiện hành quy định có nhiều việc thẩm phán được xác minh, điều tra và thu thập chứng cứ. Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực thì quy định như trên đã tạo ra cho thẩm phán việc giải quyết vụ việc khép kín từ khâu thu thập chứng cứ, đánh giá chứng cứ và xét xử, không bảo đảm nguyên tắc khách quan nhất là trong trường hợp thẩm phán bảo vệ quan điểm, giữ thành tích hoặc có vấn đề tiêu cực sẽ dẫn đến việc lạm dụng quyền lực, gây tác hại rất lớn. Trước thực trạng như trên, việc cung cấp và thu thập chứng cứ hiện nay đang còn có ý kiến khác nhau:
Có ý kiến cho là việc cung cấp chứng cứ để chứng minh hoàn toàn thuộc nghĩa vụ và trách nhiệm của đương sự, Toà án không có nghĩa vụ, trách nhiệm điều tra, thu thập chứng cứ, Toà án chỉ xét xử trên cơ sở chứng cứ của các bên đương sự đưa ra nhằm bảo đảm nguyên tắc khách quan, tránh tình trạng lạm quyền, tiêu cực, đồng thời bảo đảm một số nguyên tắc tương tự trong tố tụng.
Nhiều ý kiến lại cho rằng, việc quy định như trên chỉ phù hợp trong tương lai, khi mà ý thức pháp luật của công dân cũng như của cán bộ đạt ở một mức độ nhất định. Trong điều kiện hiện nay có nhiều việc mà tự bản thân đương sự khó có thể thu thập được chứng cứ, nhất là những chứng cứ có liên quan đến việc quản lý hồ sơ, giấy tờ của cơ quan, tổ chức hữu quan, như: quản lý hồ sơ nhà, đất, ngân hàng... Thực tế, khi có vấn đề liên quan đến các cơ quan quản lý hữu quan, Toà án có công văn yêu cầu cung cấp tài liệu theo quy định của pháp luật, nhưng cũng nhiều khi khó thực hiện được ngay, do tình trạng sách nhiễu, cửa quyền và tiêu cực của một số cán bộ quản lý, điều này vẫn còn xảy khá phổ biến. Do đó nếu không có cơ chế để Toà án xác minh, thu thập chứng cứ sẽ hạn chế nhiều đến việc giải quyết vụ án, ảnh hưởng đến thời hạn và chất lượng giải quyết. Vì vậy, bên cạnh việc quy định chứng cứ chủ yếu do đương sự có nghĩa vụ cung cấp, bộ luật cũng quy định trong một số trường hợp nhất định, Toà án được thu thập, xác minh chứng cứ trên cơ sở có yêu cầu của đương sự và sự kiểm sát của Viện Kiểm sát nhân dân. Đồng thời cũng cần có cơ chế cụ thể để buộc các cơ quan quản lý hữu quan có trách nhiệm cung cấp kịp thời, đầy đủ các tài liệu, chứng cứ có liên quan đến vụ án cho đương sự, hoặc khi có yêu cầu của Toà án hoặc Viện kiểm sát nhân dân.
Về thời điểm đương sự cung cấp chứng cứ cho Toà án cũng là vấn đề đang còn có ý kiến khác nhau:
Có ý kiến cho rằng đương sự có trách nhiệm đưa ra đủ các chứng cứ để chứng minh khi Toà án yêu cầu, để đảm bảo việc giải quyết vụ án, tranh chấp đúng thời hạn và có căn cứ.
Nhiều ý kiến khác lại cho là việc đương sự đưa ra chứng cứ ở giai đoạn nào thuộc quyền tự định đoạt của đương sự, trên thực tế cũng không tránh khỏi có nhiều trường hợp bản án đã được tuyên, có hiệu lực pháp luật đương sự mới tìm được chứng cứ mới có giá trị làm thay đổi nội dung vụ án. Khi đó buộc Toà án phải xét xử lại, với kết quả khác với bản án đã tuyên trước đó, điều này là đương nhiên để đảm bảo công lý. Tuy nhiên việc thay đổi nội dung vụ án không làm ảnh hưởng đến uy tín của Toà án cũng như uy tín, trình độ và phẩm chất của thẩm phán và Hội đồng xét xử.
Ngoài ra, trong tố tụng dân sự còn có nhiều nguyên tắc đối với đương sự, nguyên tắc về tổ chức và hoạt động của Toà án và Viện kiểm sát nhân dân.
huyện
Thẩm quyền xét xử của Toà án nhân dân cấp huyện là giới hạn thực hiện quyền hạn theo chức năng, nhiệm vụ theo quy định của pháp luật. Theo pháp luật hiện hành thì thẩm quyền của TAND cấp huyện được xác định bởi một số căn cứ: theo lãnh thổ có thể xác định bằng nhiều căn cứ khác nhau chẳng hạn: nơi cư trú, làm việc của bị đơn; do các đương sự thoả thuận yêu cầu Toà án nơi cư trú, làm việc của nguyên đơn; giá trị tài sản tranh chấp; quốc tịch của đương sự, do tính chất của vụ án đơn giản hay phức tạp...
Theo Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, thẩm quyền của Toà án cấp huyện là xét xử sơ thẩm các vụ án, tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, trừ trường hợp có đương sự là người nước ngoài hoặc là người Việt Nam ở nước ngoài;
Theo Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế thì Toà án cấp huyện xét xử sơ thẩm các vụ án, tranh chấp hợp đồng kinh tế mà giá trị tranh chấp lên đến 50 triệu đồng, trừ trường hợp có yếu tố nước ngoài.
Ngoài các yếu tố nêu trên, thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND cấp tỉnh. Quy định như trên có nhiều điểm không hợp lý, thực tiễn trong những năm qua cho thấy có nhiều vụ án dân sự, lao động, kinh tế có yếu tố nước ngoài nhưng tính chất rất đơn giản xảy ra tại Việt Nam như việc cho thuê nhà, tranh chấp hợp đồng mua bán, sử dụng lao động nhưng vẫn thuộc thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Toà án cấp tỉnh. Khi bản án, quyết định này bị kháng cáo hoặc kháng nghị thì Toà án nhân dân tối cao phải thụ lý, mở phiên toà xét xử phúc thẩm, như vậy lượng công việc dồn lên Toà án cấp tỉnh và Toà án tối cao rất nhiều. Xu hướng tranh chấp có yếu tố nước ngoài có chiều hướng ngày càng gia tăng do việc thực hiện chính sách mở cửa, tăng cường hợp tác với các nước ở khu vực và trên thế giới.
Trong lĩnh vực giải quyết các tranh chấp dân sự, Toà án cấp huyện được xét xử sơ thẩm những vụ tranh chấp nhà có giá trị rất lớn (có ngôi nhà trị giá hàng tỷ đồng), trong khi đó thì Toà án cấp huyện được xét xử sơ thẩm đối với những tranh chấp kinh tế có giá trị đến 50 triệu đồng.
Có nhiều ý kiến cho là : Việc mở rộng thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án dân sự, kinh tế, lao động…cho TAND cấp huyện có thể thực hiện được trong thời gian tới, bởi vì: Thực hiện chủ trương cải cách tư pháp, trong những năm gần đây được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước các cơ quan tư pháp nhất là ở cấp huyện đã được đầu tư đáng kể về số lượng được tăng cường hơn trước, về chất lượng thì đội ngũ cán bộ có chức danh tư pháp (Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Chấp hành viên) được chú trọng các điều kiện chuyên môn, về phẩm chất đạo đức, ý thức chính trị, được tuyển chọn và bổ nhiệm theo một quy trình chặt chẽ để có đủ năng lực thực hiện nhiệm vụ; Về cơ sở vật chất, trang thiết bị, điều kiện làm việc đều có sự đầu tư đáng kể để đảm bảo phục vụ hoạt động hoàn thành nhiệm vụ trong điều kiện phát triển của đất nước.

Việc mở rộng thẩm quyền xét xử cho Toà án nhân nhân cấp huyện đã được thể hiện trong các nghị quyết của Đảng và được thực hiện trong pháp luật tố tụng hình sự. Theo quy định tại Điều 145 Bộ luật tố tụng hình sự (hiện hành) thì Toà án nhân dân cấp huyện được xét xử sơ thẩm đối với những vụ án có khung hình phạt đến 7 năm tù. Bộ luật tố tụng hình sự 2003 (có hiệu lực từ ngày 1/7/2004) tại Điều 170 thì Toà án nhân dân cấp huyện được xét xử sơ thẩm đối với những loại tội ít ngiêm trọng, nghiêm trọng và rất nghiêm trọng, kể cả người nước ngoài phạm tội ở Việt Nam (với những vụ án có khung hình phạt đến 15 năm tù- trừ một số tội). Do đó việc tăng thẩm quyền cho Toà án cấp huyện xét xử sơ thẩm các vụ án, tranh chấp dân sự, kinh tế lao động… là cần thiết. Tuy nhiên, việc tăng thẩm quyền đến mức độ nào cũng phải có bước đi thích hợp, phù hợp với giai đoạn, tiến trình cải cách, trước mắt có thể giao những vụ án dân sự, hôn nhân gia đình, kinh tế lao động có yếu tố nước ngoài mà những tranh chấp này đơn giản cho Toà án nhân dân cấp huyện thụ lý, giải quyết theo trình tự sơ thẩm, còn đối với những vụ án có tính chất phức tạp thì Toà án cấp tỉnh lấy lên giải quyết.
Thời hạn tố tụng là khoảng thời gian được xác định từ thời điểm này đến thời điểm khác để các chủ thể chuẩn bị những điều kiện cần thiết thực hiện quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của mình,
Quá trình tố tụng bao gồm tổng thể các giai đoạn khác nhau từ giai đoạn đầu đến khi kết thúc, ở mỗi giai đoạn những ng­ười tham gia phải thực hiện quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm nhất định, cụ thể:
Đối với việc khởi kiện thì trong thời hạn nhất định theo quy định của pháp luật đương sự được quyền khởi kiện yêu cầu Toà án thụ lý, giải quyết vụ án để bảo vệ quyền, lợi ích bị xâm phạm : khoản 1 điều 31 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế quy định: ‘‘ Người khởi kiện phải làm đơn yêu cầu Toà án giải quyết vụ án kinh tế trong thời hạn 6 tháng kể từ ngày phát sinh tranh chấp...’‘ hoặc Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự khoản 1 Điều 34 quy định : ‘‘Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày thụ lý vụ án, Toà án phải thông báo cho bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan biết nội dung đơn kiện’‘; hoặc trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án đ­ương sự có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm ( trừ trường hợp pháp luật có quy định khác...) thời hạn kháng nghị đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật là 3 năm kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực...
Về khoảng thời gian dài hay ngắn đối với từng giai đoạn phụ thuộc vào nhiều yếu tố, có thể phụ thuộc vào số l­ượng, tính chất các vụ án, tranh chấp; số lượng, chất lượng trình độ của đội ngũ cán bộ, trên cơ sở tổng kết thực tiễn các nhà làm luật quy định thời hạn của từng giai đoạn cho phù hợp. Trong những năm vừa qua, một số vụ án, nhất là các vụ do Toà án nhân dân tối cao xét xử thường để quá hạn, không đúng quy định của pháp luật.
Thực tiễn những năm qua cho thấy hạn chế, đó là đối với công dân, tổ chức là đương sự thì pháp luật quy định rất chặt chẽ nếu trong thời hạn nhất dịnh mà họ không thực hiện những hành vi theo quy định thì họ sẽ bị mất quyền của mình, chẳng hạn: đối với việc quy định thời hạn khởi kiện tính từ ngày có tranh chấp vụ án kinh tế mà đương sự không khởi kiện đúng thời hạn thì không được pháp luật bảo vệ, trong khi đó có vụ đương sự không nắm được pháp luật hoặc do các bên đang đàm phán, tự hoà giải tranh chấp, sau khi các bên hoà giải không thành đưa vụ án ra toà án thì đã hết thời hạn khởi kiện, toà án không thụ lý giải quyết, tài sản của Nhà nước, của tổ chức và công dân trong trường hợp này không được bảo vệ; đối với việc kháng cáo trong tranh chấp dân sự thì trong thời hạn 15 ngày để kháng cáo đối với bản án sơ thẩm để xét xử theo trình tự phúc thẩm, nếu quá thời hạn trên mà không có lý do chính đáng thì họ không có quyền kháng cáo. Trong khi đó không ít trường hợp cơ quan tư pháp không làm tròn trách nhiệm của mình để quá hạn nhiều vụ án ở các giai đoạn thì không phải chịu trách nhiệm gì, việc vi phạm pháp luật về thời hạn xảy ra ở các giai đoạn tố tụng, thậm trí việc xem xét giải quyết khiếu nại của công dân đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật có nhiều vụ không kịp thời, đến khi phát hiện ra sai lầm thì không thể khắc phục được. Chẳng hạn, pháp luật hiện hành quy định thời hạn kháng nghị đối với những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật là 3 năm kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, sau khi có bản án công dân liên tục khiếu nại nhưng cơ quan có thẩm quyền không xem xét kịp, đến khi phát hiện bản án, quyết định có sai lầm, vi phạm nghiêm trọng thì đã quá 3 năm hết thời hạn kháng nghị. Đây cũng là một nguyên nhân dẫn tới việc khiếu nại kéo dài, bức xúc hiện nay hoặc có vụ án việc xét xử kéo dài hàng chục năm, quay nhiều vòng tố tụng sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm làm ảnh hưởng đến lòng tin.
Do đó cần nghiên cứu để quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự về khoảng thời gian xác định quyền và nghĩa vụ của những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng cho phù hợp. Đồng thời, xác định rõ trách nhiệm của ng­ười tiến hành tố tụng trong việc chấp hành những quy định về thời hạn.

IV. Thành phần Hội đồng xét xử
Xuất phát từ tính chất của các vụ án, tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh tế, lao động, pháp luật tố tụng hiện hành quy định thành phần Hội đồng xét xử khác nhau, cụ thể là:
Đối với việc xét xử sơ thẩm:
Xét xử các vụ án dân sự (gồm cả các vụ án hôn nhân và gia đình), Hội đồng xét xử bao gồm: Một Thẩm phán và hai Hội thẩm nhân dân[2]
Xét xử các vụ án kinh tế và tranh chấp lao động, Hội đồng xét xử bao gồm: Hai Thẩm phán và một Hội thẩm nhân dân.[3]
Nay trong dự thảo 11, Bộ luật TTDS quy định tại Điều 51 là : Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án dân sự (bao gồm cả: vụ án, tranh chấp hôn nhân và gia đình, kinh tế, lao động) bao gồm:’‘Một Thẩm phán và hai Hội thẩm nhân dân ‘‘. Hội đồng xét xử hoạt động theo các nguyên tắc cơ bản của tố tụng là Khi xét xử, Hội thẩm nhân dân ngang quyền với Thẩm phán và nguyên tắc: Toà án xét xử tập thể và quyết định theo đa số. Vì vậy, về thành phần Hội đồng xét xử có quan điểm khác nhau:
- Thành phần xét xử sơ thẩm vụ án dân sự như trong Dự thảo đã thể hiện rõ tính xã hội, tính nhân dân vì Hội thẩm là ng­ười đại diện cho xã hội, cho nhân dân cùng với Thẩm phán là người đại diện cho nhà nước xét xử vụ án. Tuy nhiên có ý kiến cho rằng, trên thực tế trong Hội đồng xét xử thì Thẩm phán thường là người có trình độ chuyên môn, đư­ợc đào tạo cơ bản về pháp luật, phải có những điều kiện nhất định thì mới được làm Thẩm phán để xét xử; đối với Hội thẩm nhân dân thì không cần thiết phải có đủ điều kiện chuyên môn như Thẩm phán nhưng lại có số lượng nhiều hơn Thẩm phán, hoạt động theo nguyên tắc quyết định theo đa số như vậy có bảo đảm chất lượng của bản án, quyết định hay không. Chính vì lý do đó Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế và Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động (hiện hành) đã quy định thành phần xét xử là: hai Thẩm phán và một Hội thẩm nhân dân.
Nhiều quan điểm khác cho rằng quy định thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm như trong Dự thảo Bộ luật TTDS là phù hợp, một bản án do Hội đồng xét xử đã tuyên phải phù hợp với ý chí của đông đảo nhân dân, trên cơ sở có lý, có tình; việc quy định số lượng Hội thẩm nhân dân nhiều hơn Thẩm phán trong Hội đồng xét xử bảo đảm dân chủ trong tố tụng, phù hợp với xu thế phát triển. Mặt khác, nếu có vấn đề sơ xuất do số lượng đa số của Hội thẩm nhân dân để ra bản án, quyết định không đúng pháp luật thì đương sự có quyền kháng cáo và cơ quan có thẩm quyền sẽ kháng nghị để bản án sơ thẩm đó được xét xử theo trình tự phúc thẩm với thành phần của Hội đồng xét xử bao gồm 3 Thẩm phán...
Đối với trường hợp giải quyết các vụ việc dân sự, kinh tế, lao động… theo quy định trong Dự thảo Bộ luật thì do một Thẩm phán thực hiện.
Đối với thành phần xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm là thủ tục đặc biệt, có ba cấp với thành phần là: Toà chuyên trách của TANDTC là ba Thẩm phán; Uỷ ban Thẩm phán của TAND tỉnh và Hội đồng Thẩm phán TANDTC thì ít nhất phải có 2/3 tổng số thành viên tham gia, quyết định của cấp này phải có quá 1/2 tổng số thành viên của Uỷ ban hay Hội đồng tán thành.

thẩm
Giám đốc thẩm và tái thẩm là việc xem xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, là kết quả của công tác giám đốc của Toà án cấp trên đối với hoạt động của toà án cấp dưới và cũng là kết quả công tác kiểm sát hoạt động tư pháp khi phát hiện bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật có sai lầm.
Tính chất đặc biệt của Giám đốc thẩm ở các điểm sau:
- Bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật thì phải được các bên có trách nhiệm nghiêm túc thi hành. Đây là nguyên tắc Hiến định ( Điều 136 Hiến pháp năm 1992) và nhiều văn bản pháp luật tố tụng đã quy định cụ thể. Tuy nhiên, do phát hiện có sai lầm nên mặc dù bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, thậm chí đã được thi hành triệt để nhưng vẫn bị xem xét lại, đồng thời là khắc phục hậu quả (nếu kết quả xét xử giám đốc thẩm đúng với kháng nghị), đây là vấn đề rất phức tạp. Cũng từ tính chất đặc biệt của giám đốc thẩm dẫn tới nhiều trình tự, thủ tục thành phần, thẩm quyền của giám đốc thẩm khác với xét xử sơ thẩm, phúc thẩm..;
- Kháng nghị giám đốc thẩm thông qua hoạt động giám đốc, kiểm tra của Toà án nhân dân cấp trên đối với hoạt động giải quyết, xét xử vụ án, tranh chấp của Toà án cấp dưới; đồng thời thông qua công tác kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND cấp tỉnh và VKSND tối cao; đây là nhiệm vụ, trách nhiệm của Toà án và Viện kiểm sát nhân dân theo quy định của pháp luật;
- Thẩm quyền kháng nghị: Xuất phát từ tính chất bản án, quyết định do Toà án đã tuyên và đã có hiệu lực pháp luật, nên pháp luật tố tụng quy định rất ít người có thẩm quyền trong cơ quan tư pháp mới được kháng nghị. Hiện nay theo quy định của Luật Tổ chức Toà án và Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 (và xu hướng trong pháp luật về tố tụng) đã bỏ thẩm quyền của cấp Phó Chánh án TANDTC, Phó Viện trưởng VKSNDTC. Do đó chỉ có Chánh án TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC; Chánh án TAND cấp tỉnh, Viện trưởng VKSND cấp tỉnh mới có thẩm quyền kháng nghị để xem xét lại bản án, quyết định do Toà án đã tuyên và đã có hiệu lực pháp luật.
- Căn cứ để kháng nghị: Các pháp lệnh tố tụng hiện hành quy định căn cứ để kháng nghị đối với những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật trên các lĩnh vực khác nhau, cụ thể là:
Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án Dân sự: Có 4 căn cứ, là:
+ Việc điều tra không đầy đủ,
+ Kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án,
+ Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng,
+ Có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật;
Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án Kinh tế và Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp Lao động thì có những căn cứ để kháng nghị như nhau: Có 3 căn cứ, đó là:
+ Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng,
+ Kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án,
+ Có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật;
Trong các căn cứ trên để người có thẩm quyền quyết định kháng nghị thì căn cứ ‘‘Việc điều tra không đầy đủ’‘ trong Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án Dân sự là không phù hợp , vì điều tra trong tố tụng dân sự khác với điều tra trong tố tụng hình sự; trong điều tra có thể có nhiều vi phạm nhưng tính chất, mức độ và hậu quả của việc điều tra không đầy đủ có làm ảnh hưởng đến nội dung bản án hay không, nếu cứ có dấu hiệu điều tra không đầy đủ để kháng nghị thì có thể có nhiều bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật phải được xem xét lại làm cho bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật sẽ mất tính ổn định, gây bất lợi trên nhiều phương diện; mặt khác việc điều tra trong tố tụng dân sự đang được nghiên cứu, có khả năng thu hẹp hoặc loại bỏ. Do đó việc bỏ căn cứ ‘‘Việc điều tra không đầy đủ’‘ là phù hợp.
Tại Dự thảo 11 Bộ luật TTDS đã bổ sung căn cứ để kháng nghị là: có đơn đề nghị giám đốc thẩm của đương sự gửi cho người có thẩm quyền kháng nghị…trong thời hạn 6 tháng kể từ ngày bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật …( khoản 1 Điều 285 và Điều 286). Quy định mới này hiện có những quan điểm khác nhau:
- Có quan điểm cho là quy định như trên sẽ thể hiện được nguyên tắc tự định đoạt của đương sự quyết định việc xem xét lại đối với bản án, quyết định về dân sự đã có hiệu lực pháp luật
- Quan điểm khác lại cho rằng, quy định như trên có thể làm giảm bớt trách nhiệm của người có thẩm quyền kháng nghị theo quy định của pháp luật vì quá thời hạn trên mà họ không khiếu nại thì hầu như sẽ không được xem xét; Tuy nhiên, quy định trên là không phù hợp vì khiếu nại là quyền của công dân, không phải là căn cứ để kháng nghị giám đốc thẩm mà việc khiếu nại chỉ là căn cứ, là một ‘‘ kênh thông tin’‘ để người có thẩm quyền xem xét thực hiện trách nhiệm của mình, nếu quy định như vậy vô hình chung làm cho đương sự sẽ khiếu nại cầu may đối với các bản án, quyết định về dân sự đã có hiệu lực pháp luật thì số lượng đơn gửi tới đề nghị xem xét lại rất lớn, lại phải giải quyết thêm nội dung phức tạp;
- Có ý kiến đề nghị có cơ chế để giám đốc thẩm đối với những trường hợp quá thời hạn, nhất là những việc do cơ quan không kịp giải quyết theo trách nhiệm khi phát hiện ra thì đã quá thời hạn kháng nghị…
Về trình tự kháng nghị giám đốc thẩm
Qua hoạt động theo chức năng và nhiệm vụ quy định của pháp luật, người có thẩm quyền (kiểm tra, kiểm sát) khi phát hiện bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật mà vi phạm pháp luật và có căn cứ thì ra quyết định kháng nghị, đồng thời người có thẩm quyền kháng nghị có quyền hoãn hay tạm đình chỉ thi hành bản án, quyết định đó; Trên cơ sở của kháng nghị, theo thẩm quyền trong một thời hạn nhất định thì Toà án có thẩm quyền tổ chức việc xét xử.
Quyền hạn của Hội đồng giám đốc thẩm
Theo quy định của pháp luật tố tụng hiện hành thì Hội đồng xét xử giám đốc thẩm có thẩm quyền;
+ Đối với vụ án dân sự
Giữ nguyên bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật,
Giữ nguyên bản án, quyết định đúng pháp luật của toà án cấp dưới đã bị huỷ bỏ hoặc bị sửa,
Sửa bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, nếu thấy việc điều tra đã đầy đủ, nhưng vụ án được giải quyết không đúng pháp luật,
Huỷ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm lại vì việc điều tra không đầy đủ hoặc có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng…,
Huỷ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ việc giải quyết vụ án theo quy định…
+ Đối với vụ án kinh tế và lao động, về cơ bản Hội đồng xét xử giám đốc thẩm có thẩm quyền như vụ án dân sự. Tuy nhiên hiện đang có ý kiến khác nhau về thẩm quyền Hội đồng xét xử giám đốc thẩm được: ‘‘Sửa bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, nếu thấy việc điều tra đã đầy đủ, nhưng vụ án được giải quyết không đúng pháp luật’‘;
- Có nhiều ý kiến cho rằng, tính chất của xét xử theo thủ tục Giám đốc thẩm không phải là cấp xét xử thông thường như xét xử sơ thẩm hay phúc thẩm mà là thủ tục đặc biệt, do đó không nên ‘‘Sửa bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật’‘ nếu có căn cứ thì chỉ giữ nguyên hoặc huỷ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để giao cho toà án cấp sơ thẩm hay phúc thẩm giải quyết ( nếu phải giải quyết);
- ý kiến thứ hai lại cho là, mặc dù xét xử theo thủ tục Giám đốc thẩm không phải là cấp xét xử thông thường, nhưng khi thấy rõ sai sót của bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật thì Hội đồng được sửa bản án, quyết định này mà không cần phải giao cho toà án cấp sơ thẩm hay phúc thẩm giải quyết nhằm đơn giản thủ tục xét xử, không cần thiết phải mở phiên toà nhằm tiết kiệm các chi phí về thời gian và tiền bạc của Nhà nước và của đương sự.
Về thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm và thời hạn xét xử: Là khoảng thời gian được tính từ khi bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật đến khi phát hiện ra vi phạm pháp luật và có căn cứ thì người có thẩm quyền mới dư­ợc kháng nghị, nếu quá thời hạn nêu trên thì mặc dù có phát hiện ra sai lầm thì cũng không được kháng nghị. Còn thời hạn xét xử là khoảng thời gian được tính từ khi có quyết định kháng nghị đến khi đã thực hiện việc xét xử hoặc từ khi nhận được hồ sơ vụ án đến khi đã thực hiện việc xét xử .
Do tính chất các vụ án dân sự, kinh tế, lao động khác nhau (đặc thù), yêu cầu giải quyết ở một số điểm cũng khác nhau. Trong Dự thảo 11 Bộ luật TTDS quy định khoản 1 điều 290: thời hạn kháng nghị và thời hạn xét xử bởi kháng nghị là : 3 năm, kể từ ngày bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, đối với vụ án dân sự và các vụ án về hôn nhân và gia đình; 2 năm đối với vụ án kinh tế và các vụ án lao động; 1 năm đối với trường hợp quy định tại khoản 2, điều 285.
Khoản 2 điều 290 quy định các điều kiện để kháng nghị quá hạn nhưng chưa quá thời hạn là 5 năm. Nội dung này có điểm tích cực, tuy nhiên có vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu cho phù hợp, nhất là về thẩm quyền, quy trình kháng nghị…
Thời hạn xét xử giám đốc thẩm là 4 tháng kể từ ngày nhận được kháng nghị và hồ sơ vụ án.
Có ý kiến cho rằng giải pháp tốt nhất là nghiên cứu để tăng cường chất lượng hoạt động từng khâu, từng giai đoạn hoạt động giải quyết vụ án ở cấp sơ thẩm hoặc phúc thẩm để khắc phục những tồn tại hiện nay trong công tác giám đốc thẩm (như có rất nhiều đơn đề nghị được xem xét theo trình tự giám đốc thẩm, xét xử kéo dài, nhiều vòng, dẫn tới khiếu nại nhiều và chồng chéo…)

sự
Thực tiễn đã cho thấy chính quyền cơ sở có vị trí, vai trò rất quan trọng đối với những hoạt động của Nhà n­ước nói chung trong đó có hoạt động tư pháp nói riêng, cụ thể là: Do phân cấp đơn vị hành chính nên chính quyền ở cấp xã, phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã) là đơn vị cơ sở được tổ chức để quản lý dân cư và tổ chức thực hiện những nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội bảo đảm việc thực thi pháp luật ở địa phương. Vì vậy những năm gần đây Nhà nước đã chú trọng, quan tâm, đầu tư, kiện toàn đội ngũ cán bộ, cơ sở vật chất của chính quyền cơ sở. Cơ sở cũng là nơi cư trú của đương sự, nguyên đơn hoặc bị đơn hoặc nơi có bất động sản của đương sự... Ngoài ra địa phương cũng là nơi có nhiều vụ tranh chấp mà những người dân sống ở đó biết rõ nguồn gốc sự việc có thể là nhân chứng tin tưởng. Trong công tác quản lý hiện nay thì chính quyền sở tại nắm rất chắc tình hình của đối tượng trong địa phương mình. Do đó trong hoạt động tư pháp thì chính quyền cơ sở có vị trí là cầu nối giữa Toà án và đương sự. Vì vậy quy định trách nhiệm của chính quyền cơ sở trong việc thực hiện một số nhiệm vụ giúp cho Toà án hoạt động có hiệu quả, đảm bảo việc giải quyết tranh chấp, vụ án được đúng pháp luật. Trong một số trường hợp thì trụ sở chính quyền cấp xã cũng là nơi niêm yết kết quả xét xử của Toà án.

sự
Toà án là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Toà án được tổ chức theo hệ thống gồm Toà án nhân dân tối cao, Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Toà án nhân nhân huyện, quận, thị xã, thành phố thực thuộc tỉnh và các Toà án Quân sự được tổ chức ở ba cấp. Toà án xét xử những vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính và giải quyết những việc khác theo quy định của pháp luật. Trong phạm vi, chức năng nhiệm vụ của mình Toà án có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế XHCN, bảo vệ chế độ XHCN và quyền làm chủ tập thể của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, tài sản, danh dự và nhân phẩm của công dân. Bằng hoạt động của mình Toà án góp phần giáo dục công dân trung thành với Tổ quốc, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội...
Trong xã hội xảy ra nhiều loại tranh chấp trên các lĩnh vực khác nhau và có một số tranh chấp thì các bên được giải quyết theo nhiều loại trình tự khác nhau như tự thoả thuận qua hoà giải ở cơ sở hoặc tố tụng trọng tài hay tố tụng hành chính, nếu các bên không nhất trí với kết quả giải quyết nêu trên thì có quyền khởi kiện đến toà án để yêu cầu giải quyết theo trình tự tố tụng tư pháp và được giải quyết bằng bản án hoặc quyết định của toà án.
Đối với quá trình giải quyết vụ án hình sự có nhiều cơ quan tiến hành tố tụng hình sự tham gia giải quyết tuỳ ở từng giai đoạn tố tụng mà những cơ quan này có những nhiệm vụ, quyền hạn độc lập nhất định, chẳng hạn cơ quan điều tra, Viện kiểm sát đều có thể ra những quyết định để làm phát sinh hay chấm dứt quan hệ tố tụng, như: quyết định khởi tố vụ án, bị can hoặc quyết định truy tố hay đình chỉ điều tra bị can hoặc ra quyết định việc áp dụng biện pháp ngăn chặn như bắt tạm giam hay trả tự do cho bị can... nhưng trong tố tụng dân sự thì hầu như chỉ có Toà án mới có vai trò quyết định mọi vấn đề trong quá trình giải quyết, từ khâu thụ lý, xác minh thu thập tài liệu, chứng cứ lập hồ sơ, quyết định trưng cầu giám định, triệu tập đương sự lấy lời khai, tiến hành hoà giải và mở phiên toà xét xử sơ thẩm phúc thẩm hoặc xét xử theo trình tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.
Chức năng, nhiệm vụ cơ bản của Toà án được thực hiện chủ yếu bằng đội ngũ Thẩm phán. Theo quy định của Luật Tổ chức Toà án và Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân được Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội ban hành ngày 4/10/2002 thì Thẩm phán là người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền của Toà án. Hội thẩm là người được bầu hoặc cử theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử những vụ án theo thẩm quyền của Toà án. Đồng thời với quy định trên, pháp luật về tố tụng hiện hành đã xác định rõ quyền hạn, nhiệm vụ, trách nhiệm của Thẩm phán trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. Trong quá trình hoạt động giải quyết vụ án, tranh chấp, thẩm phán là người thực hiện các quy trình tố tụng, nghiên cứu thu thập tài liệu, chứng cứ, lập hồ sơ vụ án, tiến hành các hoạt động tố tụng gặp đương sự, lấy lời khai, xác minh, điều tra, quyết định trưng cầu giám định, tiến hành hoà giải, khi các bên đã thoả thuận được với nhau thì ra quyết dịnh công nhận hoà giải thành. Thực hiện các nghiệp vụ, thủ tục phục vụ giải quyết như ra các văn bản, giấy tờ giao cho các đương sự và cơ quan hữu quan, triệu tập người tham gia tố tụng...Tổ chức mở phiên toà để xét xử. Mặc dù Thẩm phán chỉ chiếm tỷ lệ ít hơn Hội thẩm nhân dân trong Hội đồng xét xử sơ thẩm và quyết định theo đa số nhưng trên thực tế Thẩm phán lại có vai trò rất quan trọng, là công chức Nhà nước, ngồi ở vị trí chính giữa các thành viên Hội đồng xét xử và là người chủ toạ điều hành phiên toà. Ngoài ra, Hội đồng xét xử phúc thẩm chỉ có các Thẩm phán.
Theo quy định của pháp luật thì Thẩm phán là người làm nhiệm vụ xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền của Toà án, còn Hội thẩm là người chỉ làm nhiệm vụ xét xử những vụ án theo thẩm quyền của Toà án. Qua nội dung trên thấy rõ ngoài việc xét xử như nhiệm vụ của Hội thẩm nhưng Thẩm phán có trách nhiệm chuẩn bị toàn bộ quá trình chuẩn bị xét xử còn Hội thẩm chỉ tham gia nghiên cứu hồ sơ trong trường hợp mở phiên toà xét xử. Trên thực tế số lượng vụ án, tranh chấp dân sự, lao động, kinh tế.. xảy ra nhiều, Toà án thụ lý lớn nhưng số vụ đưa ra xét xử không nhiều vì trong quá trình giải quyết Thẩm phán đã tiến hành hoà giải thành hoặc đình chỉ, tạm đình chỉ theo quy định của pháp luật. Theo báo cáo của cơ quan có thẩm quyền thì hàng năm số vụ án đưa ra xét xử sơ thẩm về dân sự, lao động, kinh tế.. chỉ chiếm tỷ lệ khoảng một nửa tổng số vụ án đã thụ lý, đồng thời xu hướng này có thể được gia tăng vì công tác hoà giải giữa các đương sự có ưu điểm về nhiều mặt, được Nhà nước khuyến khích, nhân dân đồng tình.
VIII. Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự
Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước được thiết lập trên nguyên tắc mỗi cơ quan có chức năng, nhiệm vụ độc lập nhưng có sự cân bằng và kiểm tra kiểm soát lẫn nhau. Hoạt động xét xử của Toà án nước ta cũng không ngoài nguyên tắc này. Bên cạnh công tác thanh tra, kiểm tra, giám đốc thuộc nội bộ ngành thì hoạt động nghiệp vụ theo chức năng giải quyết, xét xử của Toà án còn có sự kiểm sát của hệ thống Viện kiểm sát nhân dân các cấp và sự giám sát của hệ thống cơ quan quyền lực (trong phạm vi bài này chỉ đề cập đến hoạt động kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân đối với hoạt động tố tụng của Toà án).
Hiến pháp và pháp luật quy định VKSND có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Hoạt động giải quyết tranh chấp, xét xử vụ án dân sự, kinh tế, lao động... của Toà án là hoạt động tư pháp, đó là một quá trình có nhiều giai đoạn mỗi giai đoạn có đặc điểm, yêu cầu về nhiệm vụ và mục đích, ý nghĩa nhất định cũng như yêu cầu các chủ thể phải thực hiện những quyền hạn, trách nhiệm và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật. Các giai đoạn có mối quan hệ mật thiết với nhau, mỗi giai đoạn lại có ý nghĩa nhất định, giai đoạn trước làm tiền đề cho giai đoạn sau, giai đoạn sau kiểm tra giai đoạn trước đồng thời lại làm tiền đề cho giai đoạn tiếp theo nhằm bảo đảm những nguyên tắc và mục đích chung của tố tụng. Về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của VKSND đối với công tác kiểm sát quá trình giải quyết tranh chấp, vụ án dân sự, kinh tế, lao động... được quy định cụ thể tại Luật tổ chức VKSND và pháp luật về tố tụng. Tuy nhiên, về công tác kiểm sát này vẫn còn hai nội dung còn có quan điểm khác nhau:
a) Nội dung thứ nhất: VKSND có tham dự tất cả các phiên toà xét xử các vụ án dân sự, kinh tế, lao động...hay không hiện còn có hai loại ý kiến khác nhau:
Loại ý kiến thứ nhất, cho là VKSND không cần thiết phải tham dự tất cả các phiên toà mà chỉ bắt buộc tham gia phiên toà đối với những vụ án mà VKSND khởi tố hoặc kháng nghị (khi xét xử phúc thẩm) và VKSND có quyền tham dự các phiên toà này khi thấy cần thiết như quy định tại pháp lệnh về tố tụng hình sự, vì:
Công tác kiểm sát hoạt động xét xử tại phiên toà có thể thực hiện bằng nhiều biện pháp, không nhất thiết phải có mặt tại phiên toà mới thực hiện được mà có thể tiến hành sau đó;
Để đề cao nguyên tắc tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự, lao động, kinh tế;
Lực lượng Kiểm sát viên VKSND hiện nay còn thiếu chưa tham dự được tất cả các phiên toà.
Loại ý kiến thứ hai lại cho rằng, cần quy định để VKSND tham dự tất cả các phiên toà xét xử những vụ án này, vì:
- Thực tiễn đã cho thấy do chưa có tiêu chí để xác định vụ án nào là cần thiết nên có nhiều vụ án quan trọng, phức tạp nhưng VKSND lại không tham gia;
- Bảo đảm thống nhất với hệ thống pháp luật vì Luật tổ chức VKSND năm 2002 đã quy định tại Điều 21 là Viện kiểm sát tham gia tất cả các phiên toà xét xử các vụ án này với những biện pháp và quyền hạn cụ thể. Đây là một trong những nội dung quan trọng, tích cực, để thực hiện chủ trương của Đảng và Nghị quyết của Quốc hội trong việc tăng cường công tác kiểm sát hoạt động tư pháp; nhất là trong khi tình trạng, trình độ hiểu biết pháp luật của một bộ phận dân cư còn hạn chế, hoạt động bổ trợ tư pháp còn nhiều bất cập;
Theo quy định tại Hiến pháp năm 1992 sửa đổi và Luật tổ chức VKSND năm 2002 thì VKSND đã không làm nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội và ở VKSND cấp tỉnh đã không thực hiện chức năng điều tra vụ án hình sự để tập trung lực lượng, tăng cường công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, xác định rõ nhiệm vụ, trách nhiệm của Viện kiểm sát đối với hoạt động tư pháp ở các giai đoạn tố tụng;
Phiên toà xét xử các vụ án này có ý nghĩa rất quan trọng trong cả quá trình vì tại đó các đương sự thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình (kể cả hoạt động bào chữa, giám định), việc đánh giá chứng cứ được thực hiện công khai thông qua các thủ tục tố tụng để đưa ra những phán xét cuối cùng mang tính quyền lực Nhà nước; đó cũng là nơi Toà án thực hiện những nhiệm vụ trên cơ sở của pháp luật;
Việc giải quyết các vụ án này có phạm vi rất lớn, hoạt động này cũng là hoạt động tư pháp và cần được kiểm sát, nếu không bổ sung công tác kiểm sát này sẽ bỏ trống một lĩnh vực rộng lớn, quan trọng trong hoạt động tư pháp;
Kiểm sát tại phiên toà nhằm mục đích bảo đảm việc giải quyết các vụ án này được đúng đắn, nâng cao chất lượng xét xử, bảo vệ hữu hiệu lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
b) Nội dung thứ hai, về việc VKSND khởi tố một số vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động…
Pháp luật hiện hành quy định VKSND khởi tố một số vụ việc về dân sự như trường hợp gây thiệt hại đến tài sản XHCN hoặc quyền lợi của người lao động, kết hôn trái pháp luật, xác định cha, mẹ cho con chưa thành niên ngoài giá thú...khi khởi tố thì VKSND nhân danh lợi ích Nhà nước, lợi ích công, do đó khi tham gia phiên toà VKSND không phải là một bên đương sự. Nội dung này cũng có ý kiến khác nhau.
Loại ý kiến thứ nhất, cho là VKSND không nên khởi tố các vụ án này vì:
Xuất phát từ một nguyên tắc cơ bản của tố tụng trong các lĩnh vực này là các bên tự thoả thuận và tự định đoạt ở tất cả các giai đoạn trong quá trình tố tụng, nếu VKSND khởi tố một số vụ án về dân sự sẽ ảnh hưởng lớn đến nhiều nguyên tắc trong quá trình giải quyết như tư cách của VKSND khi tham gia phiên toà, việc thu thập chứng cứ, việc kháng nghị, kháng cáo, trách nhiệm khác phát sinh...do đó đối với các trường hợp này VKSND không nên khởi tố mà giao cho các cơ quan, tổ chức, người giám hộ, người đỡ đầu khởi kiện theo quy định của pháp luật để tạo điều kiện cho các thành viên này gắn bó với tổ chức và để VKSND giành thời gian, tập trung thực hiện kiểm sát chặt chẽ quá trình giải quyết những vụ án này.
Có nhiều ý kiến ( loại ý kiến thứ hai) nhất trí giao cho VKSND khởi tố một số vụ án này theo quy định của pháp luật để bảo vệ lợi ích công và lợi ích của những người không có điều kiện khởi kiện.
Bảo đảm thống nhất trong hệ thống pháp luật vì Luật tổ chức VKSND năm 2002 đã quy định là VKSND khởi tố một số vụ án dân sự, lao động, hành chính....

TTDS
Một trong những nội dung được nhiều nhà lập pháp và những nhà hoạt động thực tiễn quan tâm là Bộ luật TTDS điều chỉnh những vụ, việc tranh chấp phát sinh trên những lĩnh vực nào, quá trình giải quyết bắt đầu từ bao giờ và kết thúc ở đâu. Nội dung này còn có quan điểm khác nhau, đó là:
a) Nội dung thứ nhất: Bộ luật tố tụng dân sự điều chỉnh những vụ, việc tranh chấp phát sinh trên những lĩnh vực nào. Về nội dung này cũng có nhiều quan điểm khác nhau, mỗi quan điểm có những lập luận và có những mặt hợp lý và hạn chế nhất định:
+ Quan điểm có nhiều ý kiến tán thành cho rằng, Bộ luật TTDS quy định thủ tục tố tụng chung để giải quyết các vụ án, tranh chấp trên các lĩnh vực dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh tế, lao động và việc công nhận những bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài, trọng tài nước ngoài ở nước ta là phù hợp bởi vì xuất phát từ các tranh chấp trên các lĩnh vực này có cùng bản chất pháp lý, đều là những tranh chấp về tài sản hoặc nhân thân phi tài sản giữa các chủ thể bình đẳng về địa vị pháp lý; những tranh chấp này phát sinh từ quan hệ pháp luật nội dung có đối tượng điều chỉnh, phương pháp điều chỉnh và chủ thể tương đối giống nhau. Vì vậy, pháp luật về tố tụng hiện hành cũng có nhiều điểm tương đồng cơ bản về trình tự, quy trình, nguyên tắc, thẩm quyền (như đã phân tích ở phần I). Trong dự thảo 11, Bộ luật Tố tụng dân sự đã có những quy định chung nhất cho các lĩnh vực, chẳng hạn các nguyên tắc cơ bản, trình tự, thủ tục…Ngoài ra, đối với những vụ, việc có tính đặc thù thì đã có quy định riêng, cụ thể ngay trong Bộ luật để giải quyết những vấn đề mang tính đặc thù, chẳng hạn về thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm đối với vụ án dân sự khác với thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm đối với vụ án kinh tế, lao động…. Pháp luật tố tụng dân sự nhiều nước trên thế giới đều quy định như vậy.
+ Quan điểm thứ hai lại cho rằng, ở nước ta hiện nay có những ngành luật Dân sự, luật Hôn nhân và gia đình, Kinh tế, Lao động là những ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật của Việt Nam; mỗi ngành luật lại có những nét đặc thù nhất định, bởi vậy khi có tranh chấp xảy ra thì đã có các Pháp lệnh về thủ tục tố tụng riêng rẽ để giải quyết; đồng thời bộ máy của cơ quan tư pháp đã được tổ chức thành những Toà chuyên trách như : toà dân sự, toà kinh tế, toà lao động… quá trình thực hiện cho đến nay các quy định như vậy đã và đang phát huy được tác dụng, nếu quy định nào không phù hợp thì có thể sửa đổi, bổ sung hoặc cần thiết thì nâng các Pháp lệnh về tố tụng này lên thành từng Bộ luật tố tụng riêng biệt. Nếu xây dựng Bộ luật tố tụng chung để giải quyết những vụ án, tranh chấp trong các lĩnh vực dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh tế, lao động …thì sẽ không điều chỉnh được các đặc thù của từng lĩnh vực. Mặt khác về kỹ thuật sẽ tạo ra bộ luật tố tụng rất đồ sộ, khó khăn cho việc tra cứu…đồng thời, tên gọi của Bộ luật làm sao thể hiện được khái quát nhất, bao hàm nhất nội dung cơ bản của các lĩnh vực thuộc phạm vi mà Bộ luật điều chỉnh…
+ Quan điểm thứ ba, nhất trí với quan điểm thứ nhất, đồng thời cho là trên cơ sở các tranh chấp trên các lĩnh vực này có cùng bản chất pháp lý, phát sinh từ quan hệ pháp luật nội dung có đối tượng điều chỉnh, phương pháp điều chỉnh và chủ thể trong quan hệ là tương đối tương đồng. Do đó các Pháp lệnh về thủ tục giải quyết các vụ án, tranh chấp này về cơ bản là giống nhau: từ trình tự, thủ tục, các nguyên tắc cơ bản, thành phần Hội đồng xét xử. Vì vậy, có thể xây dựng một bộ luật về tố tụng chung để giải quyết tất cả những vụ án, tranh chấp trên các lĩnh vực dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh tế, lao động và việc công nhận những bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài, trọng tài nư­ớc ngoài ở nước ta; ngoài ra có thể đưa cả các quy định thủ tục giải quyết các tranh chấp thương mại, thủ tục giải quyết các khiếu nại về sai sót trong danh sách cử tri, khiếu kiện về các quyết định, hành vi không đúng trong khi thực hiện việc đăng ký hộ tịch; thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, thủ tục giải quyết các cuộc đình công vào trong Bộ luật tố tụng dân sự.
b) Nội dung thứ hai: được nhìn nhận theo quá trình giải quyết vụ án cụ thể bắt đầu từ bao giờ và kết thúc ở đâu (về chiều sâu) :
Đa số ý kiến đều thống nhất là: quá trình tố tụng được bắt đầu khi một bên đương sự cho rằng quyền lợi của mình trong quan hệ dân sự, kinh tế, lao động… bị bên kia xâm phạm gây thiệt hại cho họ và họ khởi kiện ra trước toà án để yêu cầu bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của mình và Toà án thụ lý vụ việc để giải quyết. Việc giải quyết trọn vẹn một vụ án, tranh chấp là một quá trình, trong đó có nhiều giai đoạn khác nhau với các giai đoạn thụ lý, xác minh, hoà giải, xét xử sơ thẩm, phúc thẩm. Quá trình này có thực hiện hết hay không lại phụ thuộc vào việc tự định đoạt của đương sự, chẳng hạn các bên tự thoả thuận được với nhau hoặc Toà án hoà giải thành thì không phải xét xử. Tuy nhiên nếu không thoả thuận được thì Toà án phải mở phiên toà để xét xử. Trong trường hợp này điểm cuối quá trình tố tụng sẽ dừng lại ở đâu hiện đang còn có ý kiến khác nhau:
Có nhiều ý kiến cho là quá trình tố tụng sẽ kết thúc khi việc tranh chấp đã được giải quyết bằng bản án hoặc quyết định của Toà án mà bản án hoặc quyết định này đã có hiệu lực pháp luật (hiệu lực pháp luật khác với hiệu lực thi hành vì theo quy định của pháp luật hiện hành thì có một số trường hợp bản án, quyết định của Toà án tuy chưa có hiệu lực pháp luật nhưng vẫn phải được thi hành như việc trợ cấp nuôi con..). Còn hoạt động thi hành án không phải là hoạt động tố tụng, đó chỉ là việc cơ quan thi hành án thuộc cơ quan hành pháp thực hiện theo đúng những nội dung trong bản án, quyết định của Toà án nhân dân; trong Bộ luật quy định một số việc của Toà án có nội dung liên quan đến việc thi hành án như : cấp bản án, sao gửi bản án, trích lục, giải thích bản án… là những quy định có tính nguyên tắc nhằm xác định rõ trách nhiệm của Toà án để tạo tiền đề, các điều kiện cần thiết, thuận tiện cho cơ quan thi hành án tổ chức thực hiện. Còn việc thi hành án hiện nay được quy định chi tiết tại các Pháp lệnh thi hành án dân sự và Pháp lệnh thi hành án hình sự. Hướng thời gian tới sẽ có Bộ luật thi hành án quy định thi hành án chung cho các loại án.
Có quan điểm khác lại cho rằng hoạt động thi hành án là giai đoạn cuối của quá trình tố tụng, xuất phát từ tầm quan trọng của việc thi hành án, do đó trong pháp luật về tố tụng đều quy định việc thi hành án. Việc thi hành án trước kia do Toà án nhân dân quản lý, tổ chức thực hiện đến năm 1993 mới chuyển giao cho cơ quan hành pháp để nâng cao hiệu quả và bảo đảm nguyên tắc khách quan, làm cho bản án, quyết định có hiệu lực phải được thi hành, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, mặc dù có thay đổi về cơ quan quản lý và tổ chức thực hiện nhưng tính chất của hoạt động này không thay đổi. Vì vậy, thi hành án dân sự là hoạt động thuộc tố tụng dân sự.
Có quan điểm nữa lại cho là phạm vi điều chỉnh trong Bộ luật TTDS không phải là vấn đề quan trọng nhất vì việc giải quyết tranh chấp nếu Bộ luật này không điều chỉnh thì sẽ có đạo luật khác để giải quyết tranh chấp, vụ án. Điều quan trọng nhất là xây dựng được Bộ luật TTDS có đủ các nội dung cần thiết, phù hợp, trong đó quy định rõ trình tự, thủ tục, quyền và nghĩa vụ của các bên, đảm bảo sự minh bạch rõ ràng, xác định chặt chẽ trách nhiệm của Toà án, Viện kiểm sát trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình trong từng khâu công tác ở từng giai đoạn để nâng cao chất lượng giải quyết sơ thẩm, phúc thẩm và giám đốc thẩm, nhằm hạn chế, khắc phục các tồn tại; bảo vệ hữu hiệu lợi ích của Nhà nước, tập thể, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Đồng thời xây dựng Bộ luật với nguyên tắc là khó khăn thì Nhà nước gánh chịu dành thuận lợi cho nhân dân, thể hiện rõ bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân và vì dân.

Trên đây là một số nội dung cơ bản của Dự thảo lần thứ 11, Bộ luật tố tụng dân sự./


---------------------------------------------------

[1] Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành (Điều 88) và Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 có hiệu lực ngày 1/7/2004 (Điều 105)
[2] Khoản 1 Điều 16 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự.
[3] Khoản 1 Điều 16 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế và Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động.


***********************************************
Trung tâm Thông tin-Thư viện và Nghiên cứu khoa học

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Bài đăng phổ biến