Thứ Tư, 15 tháng 8, 2007

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ PHÁP LUẬT BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP


Vấn đề bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp (SHCN) từ lâu đã trở thành mối quan tâm không chỉ của các tác giả sáng tạo các đối tượng SHCN, của các chủ sở hữu các đối tượng đó mà còn là mối quan tâm lớn của các quốc gia trên thế giới, đặc biệt ở những nơi, những khu vực có nền kinh tế thị trường phát triển. Sở dĩ như vậy là vì các đối tượng SHCN là sản phẩm của hoạt động sáng tạo trong quá trình lao động, sản xuất kinh doanh, không chỉ là loại tài sản có giá trị lớn mà còn tạo cho người sử dụng nó sức mạnh, ưu thế trong cạnh tranh trên thị trường.
Trong những năm qua, các cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước ta đã có nhiều biện pháp tích cực để nâng cao hiệu quả công tác bảo hộ quyền sở hữu của các tổ chức, cá nhân trong nước cũng như của các tổ chức cá nhân nước ngoài trên lãnh thổ Việt Nam.
ở nước ta, công tác đăng ký bảo hộ các đối tượng sở hữu công nghiệp bắt đầu được thực hiện kể từ khi Điều lệ về sáng tiến cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất và sáng chế (1981) và Điều lệ về nhãn hiệu hàng hoá (1982) được Hội đồng Bộ trưởng nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành. Trong những năm tiếp theo cho đến ngày Bộ luật dân sự Việt Nam có hiệu lực, các cơ quan có thẩm quyền đã ban hành thêm gần 60 văn bản về hoặc liên quan đến việc bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp. Trong số này đặc biệt đáng chú ý là nhất là Giải pháp hữu ích năm 1988 và Pháp lệnh Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp năm 1989.
Bộ luật dân sự được Quốc hội thông qua ngày 28-10-1995 và có hiệu lực từ ngày 1-7-1996 đã công nhận và bảo hộ quyền tự do sáng tạo của cá nhân (Điều 47) và quyền sở hữu công nghiệp (từ Điều 780 đến Điều 805). Ngày 24-10-1996 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 63 CP quy định chi tiết về sở hữu công nghiệp, ngày 03 tháng 10 - 2000, Chính phủ ban hành Nghị định số 54/2000/NĐ-CP về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại và bảo hộ quyền chống cạnh tranh không lành mạnh liên quan tới sở hữu công nghiệp.
Sau khi ban hành BLDS, các cơ quan có thẩm quyền đã ban hành một số văn bản dưới luật để cụ thể và h­ớng dẫn thi hành BLDS. Cụ thể gồm Nghị định số 63/Chính phủ ngày 24/10/1996 quy định chi tiết về SHCN( sau đây gọi tắt là NĐ/63); Thông tư số 3055/TT- SHCN(sau đây gọi tắt là TT/3055) ngày 31/12/1996 hướng dẫn thi hành Nghị định số 63/Chính phủ này; Nghị định số 60 Chính phủ 6/6/1997 h­ớng dẫn thi hành các quy định của BLDS về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài (Điều 13 về bảo hộ quyền SHCN của các chủ thể nước ngoài); Thông tư số 23/TC-TCT ngày 9/5/1997 hướng dẫn thu, nộp, và quản lý phí, lệ phí SHCN; Nghị định số 12/1999/NĐ-Chính phủ ngày 6/3/1999 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vựcSHCN ( sau đây gọi tắt là NĐ/12).
Bên cạnh việc cụ thể hoá các quy định của BLDS về SHCN, các văn bản d­ới luật nêu trên đặc biệt chú trọng quy định cụ thể các vấn đề nh­: trình tự thủ tục nộp, xét nghiệm đơn yêu cầu cấp văn bằng bảo hộ, thủ tục cấp, gia hạn văn bằng bảo hộ; đại diện SHCN; trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động SHCN; việc bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp của các chủ thể nước ngoài; việc áp dụng Hiệp ước hợp tác bằng sáng chế (PTC) và Thoả ước Madrit năm 1981- 1989 về đăng ký quốc tế nhãn hiệu hàng hoá; xác định hành vi vi phạm hành chính, hình thức , mức phạt , thẩm quyền và thủ tục xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực SHCN v.v
Ngoài các văn bản nêu trên, vấn đề bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp còn được đề cập ở nhiều mức độ khác nhau trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau đang hiện hành nh­: Bộ luật Hình sự năm 1985 ( Điều 126); Luật Đầu t­ nước ngoài tại Việt Nam năm 1996( Điều 7); Luật Khuyến khích đầu tư trong nước năm 1998( các điều 3,6,15); Nghị định số 7/Chính phủ ngày 5/2/1996 về quản lý giống cây trồng; Nghị định số 14/Chính phủ ngày 19/3/1996 về quản lý giống vật nuôi; Nghị định số 12/Chính phủ ngày 18/12/1997 quy định chi tiêt thi hành Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (Điều 38); Nghị định số 57NĐ-CP ngày 31/7/1998 quy định chi tiết thi hành Luật Thương mại về hoạt động xuất nhập khẩu, gia công và đại lý mua bán hàng hoá với nước ngoài( Điều 15); Nghị định số 51/NĐ-Chính phủ ngày 18/2/1999 quy định chi tiết thi hành Luật khuyến khích đầu tư trong nước ( Điều 13).
Tuy nhiên phần lớn các văn bản có liên quan nói trên chỉ khẳng định việc bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, còn bảo hộ nh­ thế nào thì phải căn cứ vào các quy định của BLDS và các văn bản quy định cụ thể hoá, hướng dẫn thi hành BLDS.
D­ới đây, chúng tôi sẽ khái lược một số nội dung chính của pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp.
I. Một số nội dung chính của pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp
1. Các lĩnh vực được Nhà nước và pháp luật bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp
Theo quy định của pháp luật thì Nhà nước và pháp luật bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp trong các lĩnh vực sau:
- Khoa học;
- Kỹ thuật;
- Công nghệ;
- Thương mại và các lĩnh vực khác do pháp luật quy định.
2. Các đối tượng được Nhà nước và pháp luật bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp
Đối tượng được Nhà nước và pháp luật bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, bao gồm:
- Sáng chế (là giải pháp kỹ thuật mới so với trình độ kỹ thuật trên thế giới, có trình độ sáng tạo, có khả năng áp dụng trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội) (Điều 782BLDS)
- Giải pháp hữu ích (là giải pháp kỹ thuật mới so với trình độ kỹ thuật trên thế giới, có khả năng áp dụng trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội) (Điều 783 BLDS);
- Kiểu dáng công nghiệp (là hình dáng bên ngoài của sản phẩm, được thể hiện bằng đường nét, hình khối, màu sắc hoặc sự kết hợp những yếu tố đó, có tính mới đối với thế giới và dùng làm mẫu để chế tạo sản phẩm công nghiệp hoặc thủ công nghiệp) (Điều 784 BLDS)
- Nhãn hiệu hàng hoá (là những dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hoá, dịch vụ cùng loại của các cơ sở sản xuất, kinh doanh khác nhau. Nhãn hiệu hàng hoá có thể là từ ngữ, hình ảnh hoặc sự kết hợp các yếu tố đó được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc) (Điều 785 BLDS)
- Tên gọi xuất xứ hàng hoá (là tên địa lý của nước, địa phương dùng để chỉ xuất xứ của mặt hàng từ nước, địa phương đó với điều kiện những mặt hàng này có các tính chất, chất lượng đặc thù dựa trên các điều kiện địa lý độc đáo và ưu việt, bao gồm yếu tố tự nhiên, con người hoặc kết hợp cả hai yếu tố đó) (Điều 786 BLDS)
- Tên thương mại (là tên gọi của tổ chức, cá nhân dùng trong hoạt động kinh doanh) (Điều 14, NĐ 54/2000/NĐ-CP)
- Bí mật kinh doanh (là thành quả đầu tư dưới dạng thông tin có các điều kiện kèm theo) ( Điều 5, 6 NĐ 54/2000/NĐ-CP)
- Chỉ dẫn địa lý (là thông tin về nguồn gốc địa lý của hàng hoá đáp ứng đủ các điều kiện) (Điều 10 NĐ 54/2000/NĐ-CP)
Hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến SHCN (Điều 24 NĐ 54/2000/NĐ-CP), bao gồm:
a. Sử dụng các chỉ dẫn thương mại để làm sai lệch nhận thức và thông tin về chủ thể kinh doanh, cơ sở kinh doanh, hoạt động kinh doanh, hàng hoá, dịch vụ, nhằm mục đích: lợi dụng uy tín, danh tiếng của người sản xuất kinh doanh khác trong sản xuất kinh doanh của mình, làm thiệt hại đến uy tín, danh tiếng của người sản xuất kinh doanh khác trong sản xuất kinh doanh của mình; gây nhầm lẫn về xuất xứ, cách sản xuất, tính năng, chất lượng, số lượng hoặc đặc điểm khác của hàng hoá, dịch vụ; về điều kiện cung cấp hàng hoá, dịch vụ... cho người tiêu dùng trong quá trình nhận biết, chọn lựa hàng hoá, dịch vụ hoặc hoạt động kinh doanh.
b. Chiếm đoạt, sử dụng thành quả đầu tư của người khác mà không được người đó cho phép.
Nghị định cũng giải thích rõ ‘‘thành quả đầu tư‘‘, ‘‘sử dụng thành quả đầu tư‘‘ theo cách hiểu trong quy định của Nghị định này.
Các đối tượng khác do pháp luật quy định (Điều 781 BLDS).
3. Điều kiện để các đối tượng được Nhà nước và pháp luật bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp
Trong các lĩnh vực khoa học, kỹ thuật, công nghệ, thương mại và các lĩnh vực khác do pháp luật quy định đều được Nhà nước bảo hộ, trừ trường hợp các đối tượng này trái với lợi ích xã hội, trật tự công cộng, nguyên tắc nhân đạo và các đối tượng khác mà pháp luật về sở hữu công nghiệp quy định không được bảo hộ theo quy định tại điều 787 BLDS (các đối tượng sở hữu công nghiệp không được Nhà nước bảo hộ).
Riêng quyền SHCN đối với bí mật kinh doanh, chỉ dẫn địa lý và tên thương mại tự động được xác lập khi có đủ các điều kiện sau đây:
1. Bí mật kinh doanh có đủ các điều kiện sau đây (Điều 5, 6 NĐ 54/2000/NĐ-CP):
a- Có khả năng áp dụng trong kinh doanh và khi được sử dụng sẽ tạo cho người nắm giữ thông tin đó có lợi thế hơn so với người không nắm giữ hoặc không sử dụng thông tin đó;
b- Đ­ợc chủ sở hữu bảo mật bằng các biện pháp cần thiết để thông tin đó không bị tiết lộ và không dễ dàng tiếp cận được.
(Các thông tin không liên quan đến kinh doanh nh­ bí mật về nhân thân, về quản lý nhà nước, về an ninh, quốc phòng không được bảo hộ d­ới danh nghĩa là bí mật kinh doanh)
2- Chỉ dẫn địa lý được bảo hộ đáp ứng đủ các điều kiện sau đây:
a- Thể hiện dưới dạng một từ ngữ, dấu hiệu, biểu tượng hoặc hình ảnh, dùng để chỉ một quốc gia hoặc một vùng lãnh thổ, địa phương thuộc một quốc gia;
b- Thể hiện hàng hoá, bao bì hàng hoá hay giấy tờ giao dịch liên quan tới việc mua bán hàng hoá nhằm chỉ dẫn rằng hàng hoá nói trên có nguồn gốc tại quốc gia, vùng lãnh thổ hoặc địa phương mà đặc trưng về chất lượng, uy tín, danh tiếng hoặc các đặc tính khác của loại hàng hoá này có được chủ yếu là do nguồn gốc địa lý tạo nên.
Ngoài ra, Nghị định cũng nêu rõ rằng các thông tin địa lý đã trở thành tên gọi thông thường của hàng hoá, đã mất khả năng chỉ dẫn nguồn gốc địa lý thì không được bảo hộ dưới danh nghĩa chỉ dẫn địa lý theo quy định của Nghị định này.
Hơn nữa, nếu chỉ dẫn địa lý là tên gọi xuất xứ hàng hoá thì việc bảo hộ được thực hiện theo quy định của pháp luật hiện hành về tên gọi xuất xứ hàng hoá. (Điều 10, khoản 2,3 NĐ 54/2000/NĐ-CP).
Tên thương mại được bảo hộ nếu áp ứng đầy đủ các điều kiện:
a) Là tập hợp các chữ cái, có thể kèm theo chữ số, phát âm được;
b) Có khả năng phân biệt chủ thể kinh doanh mang tên gọi đó với các chủ thể kinh doanh khác trong cùng lĩnh vực kinh doanh.
Nghị định cũng nêu rõ các tên gọi sau không thuộc diện bảo hộ và không mang danh nghĩa là tên thương mại:
- Tên gọi của các cơ quan hành chính, các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp hoặc các chủ thể không liên quan tới hoạt động kinh doanh;
b) Tên gọi nhằm mục đích thực hiện chức năng của tên thương mại nh­ng không có khả năng phân biệt chủ thể kinh doanh của các cơ sở kinh doanh trong cùng một lĩnh vực;
c) Tên thương mại gây nhầm lẫn với tên thương mại của người khác đã được sử dụng từ trước trên cùng một địa bàn và trong cùng một lĩnh vực kinh doanh, gây nhầm lẫn với nhãn hiệu hàng hoá của người khác đã được bảo hộ từ trước khi bắt đầu sử dụng tên thương mại đó.
4. Người được Nhà nước, pháp luật bảo hộ quyền SHCN
Cá nhân, tổ chức được Nhà nước và pháp luật bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp phải là:
1- Người là chủ sở hữu các đối tượng SHCN;
2- Người là tác giả sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp;
3- Người có quyền sử dụng hợp pháp tên gọi xuất xứ hàng hoá, chỉ dẫn địa lý, người tiến hành hoạt động kinh doanh d­ới tên thương mại đó ;
4- Người có quyền của người đã sử dụng trước sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp;
5- Người có quyền sử dụng sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp theo hợp đồng hoặc theo quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền;
Ngoài ra, trong BLDS còn có quy định việc bảo vệ quyền được sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp của người đã sử dụng trước sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp (Điều 801).
5. Phân loại quyền sở hữu công nghiệp
Các quyền SHCN được BLDS và Nghị định 63 CP, Nghị định 54/2000/NĐ-CP phân loại nh­ sau:
1- Quyền của chủ sở hữu đối tượng SHCN là sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá, tên thương mại, bí mật kinh doanh (Điều 796 BLDS)
2- Quyền của người được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp hoặc được chuyển giao văn bằng bảo hộ sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá (Điều 794 BLDS)
3- Quyền tác giả sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp (điều 800 BLDS)
4- Quyền của người có quyền sử dụng tên gọi xuất xứ hàng hoá, chỉ dẫn địa lý;
5- Quyền của người đã sử dụng trước đối tượng SHCN là sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp.
6. Những đặc điểm của việc bảo hộ quyền SHCN
Việc bảo hộ quyền SHCN có những đặc điểm sau:
1- Quyền SHCN và quyền của tác giả sáng chế, giải pháp hữu ích , kiểu dáng công nghiệp; quyền SHCN đối với nhãn hiệu hàng hoá, tên gọi xuất xứ hàng hoá chỉ được bảo hộ trên cơ sở Văn bằng bảo hộ do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp;
2- Quyền sở hữu công nghiệp đối với các đối tượng SHCN chỉ được bảo hộ kể từ ngày cấp Văn bằng bảo hộ đến hết ngày kết thúc thời hạn hiệu lực (kể cả thời gian được gia hạn) hoặc đến ngày chấm dứt hiệu lực của Văn bằng bảo hộ;
3) Quyền SHCN đối với nhãn hiệu hàng hoá phát sinh trên cơ sở đăng ký quốc tế được Nhà nước Việt Nam bảo hộ kể từ ngày đăng ký quốc tế được công bố trên Công báo SHCN đến hết thời hạn hiệu lực đăng ký quốc tế theo thoả ước Madrid.
7. Quyền nhân thân và quyền tài sản của chủ sở hữu đối tượng sở hữu công nghiệp và tác giả sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, chí dẫn địa lý, tên thương mại, bí mật kinh doanh.
Khác với quyền tác giả, chủ sở hữu đối tượng SHCN chỉ có các quyền tài sản theo quy định tại Điều 796. Trong trường hợp chủ sở hữu đối tượng sở hữu công nghiệp đồng thời là tác giả của sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp thì họ được hưởng các quyền nhân thân theo quy định tại Điều 800 BLDS.
7.1 Quyền nhân thân của chủ sở hữu đối tượng SHCN đồng thời là tác giả sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp.
a) Ghi tên vào văn bằng bảo hộ sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp và các tài liệu khoa học khác.
b) Nhận giải thưởng đối với sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp mà mình là tác giả.
7.2 Quyền tài sản của chủ sở hữu đối tượng SHCN đồng thời là tác giả sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp.
Chủ sở hữu sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá có các quyền sau đây:
a) Độc quyền sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp;
b) Chuyển giao quyền sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp cho người khác;
c) Yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền buộc người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu của mình phải chấm dứt hành vi xâm phạm và bồi thường thiệt hại.
d) Quyền tài sản của chủ sở hữu đối với sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá, bí mật kinh doanh có thể được thừa kế hoặc chuyển giao cho người khác.
7.3 Quyền của người có quyền sử dụng tên gọi xuất xứ hàng hoá.
Người có quyền sử dụng tên gọi xuất xứ hàng hoá có các quyền sau đây:
a) Sử dụng tên gọi xuất xứ hàng hoá cho các sản phẩm của mình;
Yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền buộc người sử dụng bất hợp pháp tên gọi xuất xứ hàng hoá phải chấm dứt việc sử dụng bất hợp pháp đó và bồi thường thiệt hại.
7.4.Quyền của người có quyền sử dụngchỉ dẫn địa lý.
- Thể hiện chỉ dẫn đó trên hàng hoá, bao bì hàng hoá, giấy tờ giao dịch nhằm mua bán hàng hoá và quảng cáo cho hàng hoá tương ứng. (Quyền này không được chuyển giao)
7.5. Quyền của người có quyền sử dụng tên thương mại
- Sử dụng tên thương mại vào mục đích kinh doanh bằng cách dùng tên thương mại để x­ng danh trong các hoạt động kinh doanh, thể hiện tên thương mại đó trong các giấy tờ giao dịch, biển hiệu, sản phẩm, hàng hoá, bao bì hàng hoá và quảng cáo.
- Chuyển giao tên thương mại theo hợp đồng hoặc để thừa kế cho người khác với điều kiện việc chuyển giao phải được tiến hành cùng với toàn bộ cơ sở kinh doanh và hoạt động kinh doanh dưới tên thương mại đó.
7.6 Quyền nhân thân của tác giả sáng chế, giải pháp hữu ích , kiểu dáng công nghiệp không đồng thời là chủ sở hữu đối tượng sở hữu công nghiệp.
Tác giả sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp có các quyền sau đây:
a) Ghi tên văn bằng bảo hộ sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp và các tài liệu khoa học khác;
b) Nhận thù lao khi sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp được sử dụng, nếu chủ sở hữu và tác giả không có thoả thuận khác;
c) Yêu cầu Toà án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác xử lý các hành vi xâm phạm quyền tác giả của mình;
d) Nhận giải thưởng đối với sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp mà mình là tác giả.
Đồng tác giả sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp cũng có các quyền nh­ đã nêu trên.
Quyền nhận giải thưởng đối với sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp là quyền tài sản, do đó, mặc dù trong điều luật này không có quy định nhưng tác giả vẫn có quyền để lại thừa kế
8. Xác lập quyền sở hữu công nghiệp nh­ tác giả của tác phẩm
Quyền sở hữu đối với sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá và quyền sử dụng tên gọi xuất xứ hàng hoá được xác lập theo văn bằng bảo hộ do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp.
Để được cấp văn bằng bảo hộ đối tượng sở hữu công nghiệp, các chủ thể phải tiến hành nộp đơn xin bảo hộ đối tượng tương ứng. Không phải bất kỳ ai cũng có quyền nộp đơn, quyền này chỉ thuộc về các cá nhân, tổ chức và các chủ thể khác đáp ứng các điều kiện như quy định tại Điều 789 BLDS.
9. Những quy định khác của pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp.
9.1 Chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp.
Nội dung này được quy định tại Chương III, phần thứ sáu BLDS. Với nội dung cơ bản là: các đối tượng sở hữu công nghiệp (sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp và nhãn hiệu hàng hoá là đối tượng của chuyển giao công nghệ (Điều 806), khoản 1, điểm a); việc chuyển giao quyền sở hữu, quyền sử dụng các đối tượng sở hữu công nghiệp là quyền dân sự hợp pháp của các chủ thể quyền sở hữu công nghiệp (Điều 807, khoản 2). Các hợp đồng chuyển giao quyền sở hữu công nghệ mà còn phải tuân theo các quy định về chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp trước khi tiến hành việc chuyển giao công nghệ (Điều 806, khoản 2 BLDS).
9.2 Quyền sở hữu công nghiệp của nước ngoài.
Quyền sở hữu công nghiệp của nước ngoài được quy định tại Phần thứ bảy BLDS với nội dung cơ bản là việc bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp của người nước ngoài cũng được thực hiện như việc bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp của công dân Việt Nam và được áp dụng theo quy định của pháp luật Việt Nam và theo quy định của các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia ký kết hoặc tham gia trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp (Điều 837 BLDS).
10. Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp.
Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp được hiểu là: Bằng những quy định của pháp luật, Nhà nước xác định nh­ưng hành vi bị coi là xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp và quy định các biện pháp xử lý những hành vi vi phạm đó nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân hoặc các chủ thể khác trong hoạt động sở hữu công nghiệp.
Tham gia bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp bao gồm các quy định của luật dân dự, tố tụng dân sự, hành chính, hình sự và tố tụng hình sự và do các cơ quan chức năng quản lý nhà nước về sở hữu công nghiệp, cơ quan Hải quan, quản lý thị trường, công an kinh tế, Toà án...
10.1 Các hành vi vi phạm.
BLDS quy định: Người nào sử dụng các đối tượng sở hữu công nghiệp của người khác trong thời hạn bảo hộ mà không xin phép chủ sở hữu đối tượng sở hữu công nghiệp thì bị coi là xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp. (Trừ các trường hợp quy định tại Điều 801 và 803 của BLDS).
Theo quy định tại Điều 805 BLDS các hành vi bị coi là xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp bao gồm:
a) Sản xuất sản phẩm theo sáng chế, giải pháp hữu ích được bảo hộ tại Việt Nam;
b) Sử dụng, nhập khẩu, quảng cáo, lưu thông sản phẩm mà sản phẩm đó được sản xuất theo sáng chế, giải pháp hữu ích được bảo hộ tại Việt Nam;
c) áp dụng các phương pháp mà phương pháp đó được bảo hộ tại Việt Nam là sáng chế, giải pháp hữu ích;
d) Sản xuất sản phẩm theo kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ tại Việt Nam;
đ) Nhập khẩu, bán, quảng cáo hoặc sử dụng các sản phẩm chế tạo theo kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ tại Việt Nam nhằm mục đích kinh doanh;
e) Gắn nhãn hiệu được bảo hộ tại Việt Nam của người khác hoặc nhãn hiệu tương tự lên bao bì, sản phẩm của mình;
g) Nhập khẩu, bán hoặc chào hàng các sản phẩm có gắn nhãn hiệu hàng hoá được bảo hộ tại Việt Nam trên thị trường Việt Nam...
Theo quy định của NĐ 54/2000/NĐ-CP thì các hành vi đó là:
Đối với bí mật kinh doanh:
- Tiếp cận, thu thập thông tin thuộc bí mật kinh doanh bằng cách chống lại các biện pháp bảo mật của người sở hữu hợp pháp bí mật kinh doanh đó;
- Bộc lộ, sử dụng thông tin thuộc bí mật kinh doanh mà không được phép của chủ sở hữu bí mật kinh doanh đó;
- Vi phạm hợp đồng bảo mật hoặc lừa gạt, lợi dụng lòng tin của người có nghĩa vụ bảo mật, lợi dụng lòng tin nhằm tiếp cận, thu thập và làm bộc lộ thông tin thuộc bí mật kinh doanh của chủ sở hữu bí mật kinh doanh đó;
- Tiếp cận, thu thập các thông tin thuộc bí mật kinh doanh của người khác khi người này đệ trình theo thủ tục xin cấp giấy phép liên quan đến kinh doanh hoặc xin cấp giấy phép lưu hành sản phẩm - đặc biệt là dược phẩm và sản phẩm hoá nông hoặc bằng cách chống lại các biện pháp bảo mật của các cơ quan hành chính, hoặc sử dụng những thông tin đó nhằm mục đích kinh doanh kể cả nhằm mục đích xin cấp giấy phép liên quan đến kinh doanh hoặc lưu hành sản phẩm.
Đối với chỉ dẫn địa lý:
- Sử dụng bất kỳ chỉ dẫn thương mại nào trùng hoặc tương tự với chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ gây ấn tượng sai lệch về xuất xứ địa lý của hàng hoá;
- Sử dụng bất kỳ chỉ dẫn thương mại nào trùng hoặc tương tự với chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ cho những hàng hoá trùng, tương tự hoặc có liên quan không bảo đảm uy tín, danh tiếng của hàng hoá mang chỉ dẫn địa lý đó, kể cả trường hợp sử dụng cùng với các từ như­ ‘‘phương pháp’‘, ‘‘kiểu’‘, ‘‘loại’‘, ‘‘phỏng theo’‘, hoặc từ ngữ tương tự;
- Sử dụng chỉ dẫn địa lý về r­ượu vang hoặc rượu mạnh cho những loại rượu vang và rượu mạnh không có có xuất xứ tại lãnh thổ được chỉ dẫn, kể cả trường hợp có nêu chỉ dẫn về xuất xứ thật của hàng hoá hoặc chỉ dẫn địa lý được sử dụng dưới hình thức phiên âm ngôn ngữ khác hoặc được sử dụng kèm theo các từ như ‘‘kiểu’‘, ‘‘loại’‘, ‘‘phỏng theo’‘ hoặc những từ ngữ tương tự.
Đối với tên thương mại
- Mọi hành vi sử dụng bất kỳ chỉ dẫn thương mại nào trùng hoặc tương tự với tên thương mại của người khác cho cùng loại sản phẩm, dịch vụ hoặc cho sản phẩm, dịch vụ tương tự, gây nhầm lẫn về chủ thể kinh doanh, cơ sở kinh doanh, hoạt động kinh doanh dưới tên thương mại đó.
Đối với cạnh tranh không lành mạnh
- Sử dụng các chỉ dẫn thương mại để làm sai lệch nhận thức và thông tin về chủ thể kinh doanh, cơ sở kinh doanh, hoạt động kinh doanh, hàng hoá, dịch vụ nhằm mục đích:
a. Lợi dụng uy tín, danh tiếng của người sản xuất kinh doanh khác trong sản xuất kinh doanh của mình;
b. Làm thiệt hại đến uy tín, danh tiếng của gn­ời sản xuất kinh doanh khác trong sản xuất kinh doanh của mình;
c. Gây nhầm lẫn về xuất xứ, cách sản xuất, tính năng, chất lượng, số lượng hoặc đặc điểm khác của hàng hoá, dịch vụ; về điều kiện cung cấp hàng hoá, dịch vụ... cho người tiêu dùng trong quá trình nhận biết, chọn lựa hàng hoá, dịch vụ hoặc hoạt động kinh doanh.
Chiếm đoạt, sử dụng thành quả đầu tư của người khác mà không được người đó cho phép.
10.2 Các phương thức bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp
Theo quy định của pháp luật thì quyền tự do sáng tạo của cá nhân và quyền sở hữu công nghiệp có thể được bảo vệ thông qua nhiều phương thức khác nhau: chủ thể có thể tự bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp của mình bằng các biện pháp như yêu cầu người vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai; tự mình cải chính trên các phương tiện thông tin đại chúng; yêu cầu chấm dứt hành vi vi phạm và yêu cầu người vi phạm phải bồi thường thiệt hại...)
Để bảo vệ quyền tự do sáng tạo của cá nhân và quyền sở hữu công nghiệp trong các trường hợp nêu trên khi bị xâm hại, công dân có thể khiếu nại hoặc khởi kiện tới các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền (Toà án nhân dân, các cơ quan quản lý Nhà nước...)
10.3 Các biện pháp bảo vệ quyền tự do sáng tạo của cá nhân và quyền sở hữu công nghiệp
Căn cứ vào tính chất của những biện pháp bảo vệ quyền tự do sáng tạo của cá nhân và quyền SHCN và cơ quan có thẩm quyền áp dụng chúng, có thể chia các biện pháp bảo vệ quyền:
a) Biện pháp xử lý hành chính
b) Biện pháp xử lý về hình sự
c) Biện pháp xử lý về dân sự
11. Các tranh chấp, yêu cầu, khiếu nại liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp
11.1 Các yêu cầu, khiếu nại đối với các quyết định hành chính và hành vi hành chính trong lĩnh vực bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp
Theo quy định tại Nghị định 63/CP/1996, NĐ 54/2000/NĐ-CP thì trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp có thể có các yêu cầu, khiếu nại đối với các quyết định hành chính và hành vi hành chính sau đây:
1) Tổ chức, cá nhân khiếu nại quyết định liên quan đến việc từ chối chấp nhận đơn yêu cầu cấp văn bằng Bảo hộ, cấp hoặc từ chối cấp văn bằng bảo hộ theo quy định tại Điều 27 Nghị định 63 CP 1996
2) Tổ chức, cá nhân khiếu nại về việc từ chối không ghi hoặc ghi sai tên tác giả trong văn bằng bảo hộ theo quy định tại Điều 48 Nghị định 63CP1996;
3) Tổ chức, cá nhân khiếu nại quyết định từ chối cấp phó bản Văn bằng bảo hộ, bản sao các tài liệu liên quan theo quy định tại Điều 24 Nghị định 63 CP 1996;
4) Tổ chức, cá nhân khiếu nại quyết định đình chỉ hoặc huỷ bỏ hiệu lực Văn bằng bảo hộ theo quy định tại điều 28 và Điều 29 Nghị định 63CP1996;
5) Tổ chức, cá nhân khiếu nại quyết định liên quan đến việc xử lý đơn yêu cầu cấp văn bằng bảo hộ; yêu cầu gia hạn văn bằng bảo hộ; phê duyệt, đăng ký hợp đồng chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp; đề nghị cấp li xăng không tự nguyện; cấp và thu hồi giấy phép đại diện sở hữu công nghiệp theo quy định tại các Điều 18, 30, 42, 51, 59, 61 Nghị định 63CP1996;
6) Tổ chức, cá nhân khiếu nại quyết định liên quan đến việc thu hồi và hoàn trả các khoản phí và lệ phí trong thủ tục yêu cầu tra cứu, yêu cầu cấp văn bằng bảo hộ; yêu cầu cấp phó bản văn bằng bảo hộ; đề nghị đăng ký hợp đồng chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp; đề nghị cấp giấy phép đại diện sở hữu công nghiệp theo quy định trong Nghị định 63CP/1996 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
7) Tổ chức, cá nhân khiếu nại quyết định về việc trả tiền thù lao tr­ưng cầu ý kiến chuyên gia theo quy định tại điều 21 Nghị định 63 CP1996;
8) Tổ chức, cá nhân khiếu nại quyết định hành chính trong quản lý hoạt động sở hữu công nghiệp tại địa phương của Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, của Sở khoa học, công nghệ và môi trường các địa phương;
10) Tổ chức, cá nhân khiếu nại quyết định từ chối phê duyệt Hợp đồng chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp; về việc cấp hoặc từ chối cấp lixăng không tự nguyện.
11.2 Theo quy định của BLDS, Nghị định 63CP1996 và Nghị định 54/2000/NĐ-CP thì trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp có thể phát sinh các tranh chấp, các yêu cầu, khiếu nại dân sự nh­ư sau:
1) Cá nhân yêu cầu, khiếu nại đối với tổ chức, cá nhân khác có hành vi cản trở, hạn chế quyền tự do sáng tạo và quyền sở hữu đối với sản phẩm trí tuệ của mình (theo quy định taị điều 47 BLDS);
2) Chủ sở hữu sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá yêu cầu, khiếu nại đối với tổ chức, cá nhân khác có hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp của mình (theo quy định tại điểm c, khoản 1 Điều 796, khoản 2 Điều 804 BLDS, khoản 1 Điều 36 Nghị định 63 CP1996;
3) Chủ sở hữu sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp yêu cầu, khiếu nại đối với tổ chức, cá nhân khác không trả tiền đền bù cho việc sử dụng sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp đồng nhất với sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp của mình trong khoản thời gian từ ngày công bố đơn yêu cầu cấp văn bằng bảo hộ trên Công báo sở hữu công nghiệp đến ngày cấp văn bằng bảo hộ (theo quy định tại khoản 2 điêù 10 và khoản 2 điều 36 Nghị định 63CP 1996;)
4) Người được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng tên gọi xuất xứ hàng hoá yêu cầu, khiếu nại đối với tổ chức, cá nhân khác về hành vi sử dụng bất hợp pháp tên gọi xuất xứ hàng hoá hoặc sử dụng dấu hiệu t­ương tự gây nhầm lẫn với tên gọi xuất xứ hàng hoá thuộc quyền sử dụng của mình (theo quy định tại điểm b khoản 1 điều 197 BLDS và điểm b, khoản 1 Điều 47 NĐ 63CP1996);
5) Chủ sở hữu sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp yêu cầu, khiếu nại đối với tổ chức, cá nhân có quyền của người sử dụng trước sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp về việc tổ chức, cá nhân đó mở rộng phạm vi, khối l­ượng sử dụng so với trước ngày công bố đơn hoặc đã thực hiện việc chuyển giao quyền sử dụng so với trước ngày công bố đơn hoặc đã thực hiện việc chuyển giao quyền sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp liên quan cho người khác (theo quy định tại Điều 801BLDS, Điều 50 NĐ63CP1996);
6) Chủ sở hữu sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp yêu cầu, khiếu nại đối với tổ chức, cá nhân được cấp lixăng không tự nguyện về việc tổ chức, cá nhân này không thực hiện đúng nghĩa vụ trả tiền lixăng, nghĩa vụ sử dụng theo các điều kiện quy định trong Quyết định cấp lixăng không tự nguyện hoặc đã thực hiện việc chuyển giao quyền sử dụng đối tượng được cấp lixăng không tự nguyện đó cho người khác (theo quy định tại Điều 802 BLDS và Điều 51 NĐ63CP1996;
7) Tác giả sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp yêu cầu, khiếu nại đối với chủ sở hữu sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp có hành vi xâm phạm quyền tác giả, cụ thể là không thực hiện đúng nghĩa vụ trả thù lao, không bảo đảm các quyền tinh thần của tác giả (theo quy định tại điều 48 và khoản 2 Điều 53 NĐ63CP1996;
8) Tổ chức cá nhân có quyền khiếu nại với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về các quyết định hành chính, hành vi hành chính trái pháp luật trong hoạt động bảo hộ quyền SHCN đối với bí mật kinh doanh, chỉ dẫn địa lý hàng hoá, tên thương mại và bảo hộ quyền chống cạnh tranh không lành mạnh liên quan tới sở hữu công nghiệp;
9) Tranh chấp về quyền nộp đơn yêu cầu cấp văn bằng bảo hộ (theo quy định tại Điều 789 BLDS và Điều 14 NĐ63CP1996);
10) Tranh chấp về quyền ưu tiên (theo quy định tại Điều 790 BLDS và Điều 17 NĐ63CP1996);
11) Tranh chấp về quyền tác giả sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp (theo quy định tại Điều 799BLDS);
12) Tranh chấp về việc chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp và tranh chấp về hợp đồng chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp gồm hợp đồng chuyển giao quyền sở hữu đối tượng sở hữu công nghiệp và hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp - hợp đồng lixăng (theo quy định tại điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 796 BLDS và các điều từ điều 37 đến Điều 43 NĐ63CP1996);
13) Tranh chấp về việc uỷ quyền đại diện sở hữu công nghiệp, hợp đồng dịch vụ đại diện sở hữu công nghiệp (theo quy định tại các điều 15, 56, 57 NĐ63CP1996);
14) Tranh chấp về thừa kế quyền sở hữu đối với sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá (theo quy định tại khoản 2 Điều 796 BLDS và Điều 37 NĐ63CP1996);
Và các tranh chấp hoặc yêu cầu, khiếu nại khác liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp mà pháp luật có quy định.

Đánh giá các quy định đang hiện hành của pháp luật nước ta về SHCN, chúng ta có thể khằng định:
- Với việc ban hành BLDS, chúng ta đã hoàn thành một bước cơ bản của quá trình pháp điển hoá các quy phạm pháp luật về SHCN vào một văn bản có tầm hiệu lực cao nhất từ trước tới nay. Nói cách khác, kể từ ngày 1/7/1996, những vấn đề cơ bản của bảo hộ quyền SHCN đã được tập trung thống nhất điều chỉnh bởi một văn bản có hiệu lực pháp lý cao là BLDS của nước CHXHCN Việt Nam;
- Nội dung từng vấn đề cơ bản về bảo hộ quyền SHCN trong các văn bản hiện hành được quy định đầy đủ rõ ràng hơn, rõ hơn so với trước khi có BLDS và phù hợp hơn với yêu cầu phát triển của kinh tế xã hội đã có nhiều biến đổi so với thời kỳ từ năm 1989 trở về trước (ví dụ, trước đây văn bằng bảo hộ sáng chế chỉ có hiệu lực trong 15 năm, văn bằng bảo hộ giải pháp hữu ích chỉ có hiệu lực trong 6 năm, nhưng hiện nay thời gian có hiệu lực của các văn bản bằng này là 20 năm và 10 năm v.v...)
- Về thủ tục hành chính trong lĩnh vực bảo hộ quyền sở hữu, quy định trong các văn bản hiện hành rõ ràng hơn, rút gọn bớt thời gian nhằm đáp ứng nhanh hơn yêu cầu của các tổ chức, cá nhân. Ví dụ, thời gian để cục SHCN xem xét hồ sơ phê duyệt hợp đồng chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp trước đây là 3 tháng, nay chỉ còn 2 tháng; Bộ trưởng Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường ra quyết định phê duyệt hợp đồng trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được báo cáo của Cục SHCN; thời gian để Cục SHCN xem xét hồ sơ đăng ký hợp đồng chuyển giao là 2 tháng (riêng đối với hợp đồng đã được phê duyệt thì thời hạn xem xét hồ sơ đăng ký là 15 ngày); trường hợp cần phải làm cả thủ tục phê duyệt và thủ tục đăng ký thì những tài liệu nào đã nộp trong hồ sơ phê duyệt đồng thời được coi là tài liệu của hồ sơ đăng ký.
Việc ban hành BLDS, các văn bản cụ thể, hướng dẫn thi hành BLDS và các văn bản khác có liên quan nêu trên là một b­ước tiến lớn của quá trình hoàn thiện pháp luật n­ước ta về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, tạo cơ sở pháp luật ngày càng hoàn thiện hơn cho việc xác lập và bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp của các cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước. Nhờ đó việc đăng ký xác lập quyền với các đối tượng sở hữu công nghiệp này ngày càng gia tăng, góp phần thúc đẩy sự cạnh tranh lành mạnh và sự ổn định trong quá trình phát triển kinh tế.
II. Một số vấn đề trong việc hoàn thiện pháp luật bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp
Mặc dù các quy định của pháp luật đã điều chỉnh được nhiều mối quan hệ trong lĩnh vực bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, nhưng nếu so với những yêu cầu của thực tiễn bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp của các tổ chức, cá nhân hiện nay, đặc biệt là so với các yêu cầu tối thiểu quy định trong Hiệp định về các khía cạnh thương mại liên quan đến quyền SHCN ( Hiệp định TRIPS) của WTO mà n­ước ta đang cố gắng sớm gia nhập, và của cả tổ chức ASEAN cũng như diễn đàn APEC, hệ thống các quy định hiện hành của pháp luật nước ta đang tự bộc lộ rõ một số yếu, nhược điểm và bất cập như­:
- Còn không ít vấn đề quan trọng về SHCN chư­a được pháp luật quy định. Ví dụ các vấn đề: Bảo hộ bí mật kinh doanh; Bảo hộ tên thương mại; Bảo hộ chỉ dẫn nguồn gốc hàng hoá; Bảo hộ quyền chống cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến SHCN, Bảo hộ quy trình mang bản chất sinh học để sản xuất thực vật mà quy trình đó không phải là quy trình vi sinh; Bảo hộ phương pháp phòng bệnh, chữa bệnh cho thực vật.
- Trong lĩnh vực bảo hộ quyền SHCN, các cơ quan quản lý Nhà nước giữ vai trò rất quan trọng. Trong hoàn cảnh của nước ta hiện nay, để tránh tình trạng cơ quan quản lý Nhà nước can thiệp không cần thiết vào hoạt động của các doanh nghiệp, đặc biệt của các doanh nghiệp làm đại diện SHCN, cần có các quy định xác định thật rõ nội dung quản lý Nhà nước đối với hoạt động SHCN chưa có quy định này.
- Pháp luật hiện hành đã có các quy định về nhãn hiệu hàng hoá, nhưng chưa có các quy định cụ thể về điều kiện phân biệt một nhãn hiệu đăng ký với chỉ dẫn nguồn gốc địa lý hàng hoá được bảo hộ, và cũng chưa có các quy định đặc thù để bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng và bảo hộ, đăng ký nhãn hiệu liên kết.
- Có các văn bản d­ưới luật đang tồn tại một số quy định không phù hợp với các quy định của Luật. Ví dụ: Các quy định tại Điều 50 của NĐ63 về quy định sử dụng trước sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp không hoàn toàn phù hợp với BLDS; Các quy định về khiếu nại, thời hạn giải quyết khiếu nại chưa thật sự phù hợp với Luật khiếu nại, tố cáo.
- Có những vấn đề đã được pháp luật hiện hành quy định nhưng chưa hợp lý. Ví dụ: Việc giới hạn thời gian sử dụng tên gọi xuất xứ hàng hóa trong vòng 10 năm và có thể gia hạn liên tiếp mỗi lần 10 năm (điểm e, khoản 2, Điều 9 của NĐ/63); Phân biệt mức phí, lệ phí SHCN giữa tổ chức, cá nhân Việt Nam và tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài (Điểm 2 và Điểm 3, Thông tư­ số 23/TC/TCT ngày 9/5/1997).
- Một số thủ tục hành chính trong hoạt động quản lý Nhà nước về SHCN vẫn còn rườm rà, phức tạp, không cần thiết. Ví dụ: việc quy định thủ tục phê duyệt hợp đồng chuyển giao quyền SHCN đối với một số trường hợp như đã quy định tại khoản 5 Điều 38 và khoản 5, Điều 62 của NĐ/63 là không cần thiết và có thể lược giản được.
Như­ vậy, những năm gần đây Nhà nước ta đã có rất nhiều cố gắng và đã đạt được những kết quả hết sức quan trọng trong việc hoàn thiện pháp luật về bảo hộ quyền SHCN. Song kết quả nghiên cứu cho thấy hệ thống các quy định hiện hành về SHCN cũng vẫn còn không ít điều bất cập so với yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường cũng như yêu cầu của quá trình hội nhập với khu vực và thế giới. Những điều bất cập nói trên cần phải được sớm khắc phục.
Phương hướng tiếp tục hoàn thiện pháp luật nước ta về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp dựa trên những quan điểm cơ bản sau:
a. Cần bảo đảm tính thống nhất, tính đầy đủ, đồng bộ, rõ ràng và cụ thể của pháp luật nhằm bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp của các tổ chức, cá nhân một cách có hiệu quả; ngăn chặn một cách hữu hiệu, xử lý thật nghiêm khắc các hành vi giả mạo, ăn cắp, tiếm đoạt bất hợp pháp kết quả đầu tư sáng tạo của các chủ thể, lạm dụng quyền SHCN.
b. Cần kế thừa, phát huy hơn nữa tác dụng tích cực của các quy định về SHCN trong pháp luật hiện hành còn phù hợp, sớm khắc phục những điểm bất cập so với yêu cầu nâng cao hiệu qủa việc bảo hộ quyền SHCN trong điều kiện xảy ra nền kinh tế thị trường, hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới.
c. Mở rộng hợp tác quốc tế; tiếp thu một cách có chọn lọc kinh nghiệm của các nước về bảo hộ quyền SHCN: bảo đảm thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của các điều ước quốc tế về SHCN mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia.
Xuất phát từ các quan điểm nêu trên, trong khi chờ Quốc hội sửa đổi, bổ sung ch­ương về bảo hộ quyền SHCN trong Bộ luật dân sự, có thể nêu lên một số giải pháp tiếp tục hoàn thiện pháp luật nước ta về bảo hộ quyền SHCN nh­ sau:
- Sửa đổi, bổ sung Nghị định số 63/ CP quy định chi tiết về SHCN. Cụ thể: Sửa đổi các quy định về khiếu nại, thời hạn giải quyết khiếu nại, cho phù hợp với Luật khiếu nạI, Tố cáo; bỏ việc giới hạn thời gian sử dụng tên gọi xuất xứ hàng hoá; sửa quy định về quyền sử dụng trước sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp cho phù hợp với Bộ luật Dân sự; lược bỏ thủ tục phê duyệt hợp đồng chuyển giao quyền SHCN đối với các trường hợp quy định tại khoản 5 Điều 62 của Nghị định, vì thông qua việc đăng ký hợp đồng, cơ quan có thẩm quyền vẫn có thể quản lý được việc chuyển giao này;
- Bổ sung vào Nghị định một số quy định về: bảo hộ quy trình mang bản chất sinh học để sản xuất thực vật mà quy trình đó không phải là quy trình vi sinh; bảo hộ phương pháp phòng bệnh, chữa bệnh cho thực vật; các điều kiện phân biệt một nhãn hiệu đăng ký với chỉ dẫn nguồn gốc địa lý hàng hoá được bảo hộ; Các quy định đặc thù để bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng; các quy định đặc thù để bảo hộ và đăng ký nhãn hiệu liên kết; các quy định về nội dung quản lý Nhà nước đối với hoạt động SHCN .
- Ban hành ngay các thông tư hướng dẫn thi hành các vấn đề mà Nghị định số 63/CPngày 24/10/1996 (khoản 6 và 7 của Điều 64) đã giao cho các bộ thực hiện. Ban hành ngay thông tư hướng dẫn một loạt nội dung cần hướng dẫn thi hành nêu trong Nghị định số 12/1999/ NĐ-CP ngày 6/3/1999 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực SHCN.
Ngoài việc sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật hiện hành và ban hành mới một số văn bản về SHCN với những nội dung như nêu ở trên, pháp luật cũng cần phải có những biện pháp chặt chẽ, nghiêm khắc để lập lại trật tự trong việc phối hợp giữa các cơ quan quản lý Nhà nhà nước các cấp nhằm đảm bảo hiệu quả của công tác thi hành pháp luật về bảo hộ quyền SHCN nói riêng.
Ben cạnh đó, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về SHCN trong nhà trường, trong các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, các doanh nghiệp và mọi tầng lớp nhân dân.
Hiện nay, vấn đề SHCN ở Việt Nam vẫn còn là vấn đề mới mẻ đối với toàn xã hội. Hầu hết các doanh nghiệp, các nhà nghiên cứu, các nhà đầu tư­, các công chức Nhà nước đều chưa có hiểu biết đầy đủ, thậm chí có một số lượng lớn người chưa có hiểu biết tối thiểu về SHCN, về ý nghĩa, tầm quan trọng và thủ tục đăng ký bảo hộ quyền SHCN. Đây là một trong những nguyên nhân lý giải tại sao những năm qua hành vi vi phạm pháp luật về SHCN ngày càng gia tăng.
Nhanh chóng xây dựng và hiện đại hoá mạng thông tin về SHCN trên cả nước, nối mạng giữa trung tâm thông tin SHCN của Cục SHCN với tất cả các bộ, ngành và các cửa khẩu nhằm bảo đảm thông tin nhanh, đủ đáp ứng yêu cầu của tất cả các đối tượng có liên quan.
- Tăng cường hơn nữa năng lực và hiệu quả hoạt động của các cơ quan chuyên trách trong quản lý Nhà nước về SHCN, đồng thời phải có chính sách và biện pháp khuyến khích, thúc đẩy các doanh nghiệp và mọi chủ sở hữu các đối tượng SHCN áp dụng các biện pháp tự bảo vệ quyền SHCN của mình; khuyến khích mạnh mẽ hoạt động của các tổ chức làm dịch vụ bảo vệ quyền SHCN nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của các doanh nghiệp và tổ chức, cá nhân.



=========================



Trung tâm Thông tin – Thư­ viện và Nghiên cứu khoa học 3/2002

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Bài đăng phổ biến