Thứ Sáu, 31 tháng 8, 2007

THẨM PHÁN (judge), LUẬT SƯ (barrister) và LUẬT SƯ CỐ VẤN PHÁP LUẬT (solicitor) KHÁC NHAU NHƯ THẾ NÀO?


Thẩm phán là nhân vật chủ chôt trong hệ thông xử án. Người đó chỉ đạo việc tiến hành phiên toà và tuyên bố hình phạt đối với những người phạm tội. Thẩm phám thường được chọn lựa từ luật sư đang hành nghề (ở Scotland gọi là "advocate") hoặc từ những luật sư cố vấn pháp luật, và ít nhất phải có quá trình công tác chuyên môn là 10 năm.

Loại thẩm phán được chọn để chủ trì một phiên toà tuỳ theo mức độ nghiêm trọng và độ phức tạp của ca xử. Một số vụ nghiêm trọng được thụ án bởi Toà án Đại hình (Crown Court). Toà án này đóng ở 94 địa điểm ở England và Wales, một số toà đại hình bao gồm môt số phòng xử án riêng.

Đơn kháng cáo cấp toà án đại hình được chuyển lên Toà Phúc thẩm (Court of Appeal). Muốn kháng cáo lên nữa, đơn sẽ được chuyển lên Thượng Nghị Viện (House of Lords) nếu thấy ca xử đó có tầm quan trọng đối với công chúng.

Hầu hết các vụ án dân sự nhẹ được xử ở các toà án khu vực. Số toà này có khoảng 270. Những vụ án này do thẩm phán hạt (circuit judge) hoặc thẩm phán khu (district judge) thụ lý. Toà sơ thẩm (magistrate court) là toà thấp nhất trong hệ thống pháp luật. Việc phán xử thường không do các thẩm phán hoặc luật sư chuyên nghiệp thực hiện mà thường do đại diện được cộng đồng cử ra để hoà giải; người này gọi là thẩm phán hoà giải (magistrate). Nhiệm vụ chính của người này là tiến hành xét xử sơ thẩm đối với những vụ không nghiêm trọng lắm. Còn những vụ nghiêm trọng hơn sẽ được chuyển lên Toà Đại hình.

Nghề luật sư ở nước Anh chia làm hai ngành: luật sư (barrister/ ở Scotland gọi là 'advocate') và luật sư cố vấn pháp luật (solicitor)

Luật sư cố vấn pháp luật (solicitor): phục vụ cá nhân và phối hợp các khách hàng để hoạt động;
Luật sư (barrister) thì tư vấn pháp luật thông qua luật sư cố vấn pháp luật và chuyển những vụ cần thiết lên toà cấp cao hơn. Hai loại luật sư này có một số chức năng chung, ví dụ chuyển ca xử xuồng toà cấp thấp hơn.
Một luật sư (barrister) phải qua một kỳ thi nghiệp vụ trước khi được gia nhập Đoàn luật sư (Bar). Sau đó họ bước vào giai đoạn thực tập (pupillage), làm việc cùng với những luật sư có kinh nghiệm trong vòng một năm.
Luật sư cố vấn pháp luật cũng phải qua một kỳ thi và thực tập hai năm, gọi là "articles" trong một cơ quan pháp luật. Một khi đã đạt yêu cầu, thì luật sư cố vấn pháp luật mới được chấp nhận đó sẽ được kèm cặp thêm trong ba năm.

Thứ Tư, 29 tháng 8, 2007

MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN VỀ GIỚI

- Giới: Là phạm trù chỉ quan niệm, vai trò và mối quan hệ xã hội giữa nam giới và phụ nữ. Xã hội tạo ra và gán cho trẻ em gái và trẻ em trai, cho phụ nữ và nam giới các đặc điểm giới khác nhau. Bởi vậy, các đặc điểm giới rất đa dạng và có thể thay đổi được.

- Giới tính: Là sự khác biệt về mặt sinh học giữa nam giới và phụ nữ. Giới tính là những đặc điểm đồng nhất mà khi chúng ta sinh ra đã có và không thể thay đổi được.

- Quan hệ giới: Là các mối quan hệ xã hội giữa phụ nữ và nam giới, đặc biệt là cách thức phân chia quyền lực giữa nam và nữ.

- Vai trò giới: Là những hoạt động khác nhau mà xã hội mong nuốn phụ nữ và nam giới thực hiện.

- Nhạy cảm giới: Là sự nhận thức đầy đủ và đúng đắn về nhu cầu, vai trò và trách nhiệm khác nhau của phụ nữ và nam giới.

- Trách nhiệm giới: Là việc nhận thức được các vấn đề giới, sự khác biệt giới và nguyên nhân của nó, từ đó đưa ra biện pháp tích cực nhằm giải quyết và khắc phục mọi bất bình đẳng trên cơ sở giới.

- Phân công lao động trên cơ sở giới: Là sự phân công việc và trách nhiệm khác nhau giữa phụ nữ và nam giới


- Bình đẳng giới: Là sự thừa nhận và coi trọng như nhau các đặc điểm giống và khác nhau giữa phụ nữ và nam giới.

Phụ nữ và nam giới có vị thế bình đẳng như nhau và cùng:

+ Có điều kiện bình đẳng để phát huy hết khả năng và thực hiện các nguyện vọng của mình.

+ Có cơ hội bình đẳng để tham gia, đóng góp và thụ hưởng các nguồn lực xã hội và thành quả phát triển.

+ Được bình đẳng trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình.

****************************************

THEO UBVSTBPN VIỆT NAM

10 THÔNG ĐIỆP VỀ "BÌNH ĐẲNG GIỚI"

1. Phụ nữ và nam giới đều bình đẳng tham gia và quyết định mọi công việc trong gia đình và xã hội.

2. Nam giới và phụ nữ cùng chia sẻ công việc trong gia đình và nuôi dạy con cái.

3. Phụ nữ không cam chịu bất bình đẳng giới và phân biệt đối xử trong gia đình và xã hội.

4. Không khoan nhượng với hành vi ngược đãi phụ nữ và trẻ em gái.

5. Gia trưởng là nguyên nhân chính dẫn đến bạo hành trong gia đình.

6. Phụ nữ và trẻ em gái có quyền và cơ hội học tập, nâng cao hiểu biết như nam giới và trẻ em trai.

7. Cha mẹ khuyến khích và tạo điều kiện cho trẻ em gái đến trường và tiếp tục theo học lên cao.

8. Hôn nhân không tự nguyện và tảo hôn là một nguyên nhân dẫn đến tan vỡ hạnh phúc gia đình.

9. Lựa chọn hành vi tình dục an toàn là quyền và trách nhiệm của nam giới và phụ nữ để phòng, chống lây nhiễm HIV/AIDS và các bệnh truyền nhiễm qua đường tình dục.

10. Nói KHÔNG với tình dục trước 18 tuổi.


****************************************

Do Tổ chức Actionaid Việt Nam

NA UY - VƯƠNG QUỐC CỦA BÌNH ĐẲNG GIỚI


Luật Bình đẳng giới và hệ thống luật pháp cùng hướng tới mục tiêu bảo vệ quyền cho người phụ nữ

Na Uy là đất nước dân số ít (4,5 triệu người) nhưng chỉ số phát triển con người (HDI) và chỉ số phát triển giới (GDI) xếp thứ nhất thế giới. Tuổi thọ trung bình cao, với nam 77 tuổi, với nữ 82,3 tuổi.

Có được thành tựu ấy, người ta cho rằngdo Na Uy có nền kinh tế rất phát triển (GDP bình quân trên đầu người 60 ngàn USD). Nhưng chưa hẳn vậy. Thực tế cho thấy có những nền kinh tế trên thế giới rất phát triển, quá phát triển, nhưng 2 chỉ số trên không cao. Vậy nên một hệ thống luật pháp đồng bộ hướng tới mục tiêu bảo vệ quyền và lợi cho người phụ nữ có thể là nguyên nhân quan trọng góp phần làm nên chỉ số bình đẳng giới kia. Ngoài ra còn lý do khác. Đó là Chính phủ Na Uy rất quan tâm đến vấn đề Bình đẳng giới và coi đó là một trong bốn vấn đề trọng tâm phát triển của đất nước họ.

Quả đúng như vậy. Là quốc gia đầu tiên trên thế giới cho phép phụ nữ được tham gia bầu cử vào năm 1913 và có quyền ứng cử Quốc hội từ năm 1930, Na Uy cũng tự hào có Luật Bình đẳng giới ban hành từ năm 1979 với các điều khoản bảo đảm cho cả phụ nữ và nam giới được bình đẳng trong phát triển.

Trong luật Bình đẳng giới, Na Uy quy định: Việc phân biệt đối xửtrực tiếp hoặc gián tiếp với phụ nữ và nam giới đều không được phép, trừ khi nhằm bảo vệ những quyền đặc biệt như bảo vệ phụ nữ trong thời kỳ mang thai, sinh nở, cho con bú.

Với lĩnh vực lao động và việc làm, luật quy định: Khi quảng cáo tuyển dụng, người sử dụng lao động không được hạn chế tuyển một giới, cũng không được gây ấn tượng rằng họ mong muốn hay thích tuyển một giới nào đó. Khi đề bạt, cách chức hoặc sa thải người lao động cũng không được phân biệt nam nữ. Lao động nam và nữ trong cùng một doanh nghiệp phải được trả lương như nhau cho cùng một công việc như nhau hoặc công việc có giá trị như nhau.

Trong giáo dục, Luật bình đẳng giới đề ra phụ nữ và nam giới có quyền bình đẳng trong đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ mà không phân biệt tuổi tác.

Đặc biệt Luật Bình đẳng giới có 1 mục quy định: “Khi thành lập và bổ nhiệm, bầu cử các thành viên của một cơ quan nhà nước, uỷ ban, hội đồng, ban… có từ 4 thành viên trở lên thì mỗi giới phải có đại diện với tỷ lệ ít nhất là 40%. Đối với uỷ ban có từ 2 đến 3 thành viên thì phải có đại diện cả hai giới trong các uỷ ban này”. Bộ Gia đình và Bình đẳng giới ở Na Uy là cơ quan được Chính phủ giao cho chức năng giám sát việc thực hiện điều khoản trên. Nếu cơ quan, đơn vị nào không đạt tỷ lệ đã quy định thì Bộ này đề nghị Chính phủ không cho phép thành lập. Do vậy, đến nay cơ quan các cấp ở Na Uy đã đạt được tỷ lệ trung bình 43% nữ. Bên cạnh đó, một Cơ quan thanh tra về bình đẳng giới và chống phân biệt đối xử trực thuộc Bộ Gia đình và Bình đẳng giới cũng ra đời giúp Chính phủ nhận đơn khiếu nại hoặc phát hiện những vấn đề bất bình đẳng giớitrình lên trên để cùng giải quyết.
Cùng với Luật Bình đẳng giới, Na Uy có hệ thống các luật chuyên ngành và các luật liên quan khác với các điều khoản thống nhất, đồng bộ cùng hướng tới mục tiêu bảo vệ quyền cho phụ nữ. Theo những bộ luật đó, ở Na Uy, nam và nữ cùng nghỉ hưu ở tuổi 67. Nếu đến 67 tuổi, ai còn muốn làm việc tiếp đều được chấp nhận. Chính phủ khuyến khích đi làmtừ 16 tuổi, nghỉ hưu ở tuổi 74 và làm việc càng lâu càng tốt. Tuy nhiên, phụ nữ vẫn có quyền nghỉ sớm từ tuổi 60 nếu họ muốn. Nhưng qua nghe trao đổi, hiện nay nước này có khoảng 100 ngàn phụ nữ mong muốn được làm việc lâu hơn nữa. Có lẽ vì thế mà đội ngũ công chức, chuyên gia đang làm việc nhà nước, khi chúng tôi được tiếp xúc hầu hết là người nhiều tuổi, rất hiếm thấy cán bộ trẻ kể cả tiếp viên hàng không ngoài sân bay.

Chế độ nghỉ thai sản và chăm sóc con cái cũng được Luật đề ra rất tốt. Khi mang thai, nếu người phụ nữ đã đi làm ít nhất là 6 tháng trong vòng 10 tháng thai nghén sẽ được nghỉ chế độ và hưởng lương đầy đủ với số tiền không quá 6 lần số tiền bảo hiểm quốc gia cơ bản. Khi sinh nở, người mẹ được nghỉ 52 tuần hưởng 80% hoặc nghỉ 42 tuần hưởng 100% lương. Trong thời gian này, mẹ phải nghỉ 3 tuần trước khi sinh, bố phải nghỉ bốn tuần theo chế độ người cha. Ngoài ra, bố và mẹ được nghỉ từ 10 đến 20 ngày/năm chăm con ốm (kể cả với con nuôi). Quỹ thời gian này người bố và mẹ có thể toàn quyền tuỳ ý sử dụng trong thời gian 2 năm, không nhất thiết phải nghỉ liên tục. Còn như nếu người phụ nữ không đi làm và không được hưởng chế độ nghỉ đẻ thì được hưởng 32.138 NOK khi sinh con (tương đương 80.500.000 đồng Việt Nam). Từ năm 1992, những ông bố bà mẹ không đi làm mà phải nuôi con dưới 7 tuổi đều được hưởng ba khoản trợ cấp một năm của Chính phủ.

Từ năm 1998 đến 1999, Na uy còn có chương trình trợ cấp tiền nhà trẻ cho trẻ em từ 1đến 2 tuổi. Nếu gia đình không gửi con vào nhà trẻ hoặc các gia đình gửi con dưới 30 giờ/tuần được trợ cấp 3.000 NOK/tháng (tương đương 7.500.000 đồng Việt Nam).

Nhưng có một nghịch lý mà người Chủ tịch Hiệp hội các chính quyền địa phương đã chia sẻ với đoàn chúng tôi: Mặc dù Luật đề ra rất tốt nhưng vẫn chưa khuyến khích được phụ nữ và nam giới. Ví như tỷ lệ sinh con mới đạt 1,8 đến 2 con trong khi Na Uy cần tăng từ 1,9 đến 2,5 con trong một gia đình mới đảm bảo cân bằng xã hội hoặc chỉ có 70% các ông bố thực hiện nghỉ chế độ khi vợ sinh con, trong đó 13% không nghỉ hết chế độ (4 tuần).
.
Kế hoạch hành động phòng, chống bạo lực đối với phụ nữ và mô hình nhà tạm lánh.

Chúng tôi đến thăm Bộ Tư pháp Na Uy vào một buổi chiều. Người tiếp chúng tôi là ông Las Maining – Cố vấn cao cấp đã từng làm việc 25 năm trong ngành tư pháp và đã từng 3 lần sang làm việc ở Việt Nam. Theo lời của ông cố vấn, không phải một đất nước giàu có, sung sướng và hoà bình như Na Uy là không có bạo lực. Người ta đã làm một cuộc khảo sát để điều tra thực trạng về vấn đề này ở 4.618 nam nữ trong độ tuổi từ 20 - 54. Kết quả có 60% trả lời và 27% trongsố2.143 phụ nữ trả lời họ đã bị bạo lực. Trong số các vụ bạo lực, loại bạo lực nghiêm trọng chiếm 9,3%.

Người ta cũng thực hiện một Chương trình "Tuần lễ đếm” để theo dõi sát sao những vụ bạo lực đã thông báo với công an. Kết quả trong một tuần lễ đã có hơn 1 ngàn trường hợp báo cáo bị bạo lực, có gần 2 ngàn trẻ em (hầu hết dưới 7 tuổi) chứng kiến hành vi bạo lực của người lớn và trong số người gây bạo lực, nam giới chiếm 85%. Và trong các vụ bạo lực xảy ra có 60% là xâm phạm thân thể, 40% là xúc phạm, đe doạ tinh thần, tâm lý.

Để giải quyết và hỗ trợ phòng, chống tình trạng bạo lực, năm 1997 Chính phủ đã cấp ngân sách thực thi dự án "Chuông báo động” cho các Sở Cảnh sát. Theo dự án đó, những phụ nữ luôn bị tình trạng bạo lực đe dọa sẽ được phát một dụng cụbáo động nhỏ như chiếc điện thoại cầm tay và họ có số hiệu trên bản đồ cùng trong máy tính của cảnh sát. Nếu có bạo lực xảy ra hoặc đang nguy cơ, người phụ nữ sẽ bấm chuông và cảnh sát sẽ kịp thời đến xử lý. (Chính phủ cũng tài trợ làm dự án thí điểm về việc theo dõi bằng vệ tinh đối với những kẻ xâm phạm tình dục và những nạn nhân. Nếu kẻ nào đến gần nạn nhân thì hệ thống sẽ báo động). Cùng với hệ thống "Chuông báo động”, Sở Cảnh sát còn phân công nhân viên làm đầu mối chuyên trách về vấn đề bạo lực đối với phụ nữ. Đầu mối chuyên trách này có nhiệm vụ nhận báo cáo và phối hợp giải quyết các trường hợp bạo lực xảy ra.

Ngoài ra, Kế hoạch hành động phòng chống bạo lực còn có các giải pháp thiết thực khác như cấp phát cuốn "Cẩm nang hướng dẫn cách phòng, chống bạo lực" cho tất cả phụ nữ; xây dựng Trung tâm nguồn tài liệu hướng dẫn phòng chống bạo lực; Thành lập Uỷ ban phòng, chống bạo lực và đặc biệt xây dựng Nhà tạm lánh dành cho phụ nữ bị bạo lực đe dọa.

Trong số những giải pháp nêu trên, có lẽ " Nhà tạm lánh" là mô hình khá thú vị mặc dù chỉ là giải pháp tình thế. Mô hình này thuộc Trung tâm giải quyết khủng hoảng do tổ chức phi chính phủ sáng tạo và đã hoạt động gần 30 năm nay. Kể từ ngày có ngôi nhà tạm lánh đầu tiên vào năm 1978, đến nay Trung tâm giải quyết khủng hoảng ở Na Uy đã có 50 ngôi nhà như thế. Mục đích xây những ngôi nhà này để bảo vệ an toàn cho người phụ nữ khi họ bị bạo lực. Người phụ nữ bị bạo hành trong gia đình hoặc bị tấn công ngoài đường, không nơi ăn ở đều có thể chạy thẳng vào đây bất cứ lúc nào.

Những nạn nhân chạy vào đây, họ có thể mang theo những đứa con và được tạm lánh từ 1 ngày đến 3 tháng. Đến nhà tạm lánh, người phụ nữ vừa được chở che tính mạng vừa được nuôi ăn ở, học tập. Ban quản lý Nhà thực hiện một chương trình bồi dưỡng, tập huấn ngắn để các nữ nạn nhân được hiểu biết kiến thức về luật pháp, xã hội, chăm sóc sức khoẻ, bảo vệ bản thân, kỹ năng sống... và đến một lúc nào đó, họ có thể quyết định lấy cách giải quyết cho hoàn cảnh của họ mà Trung tâm không áp đặt. Vì thế, đến Nhà tạm lánh, nạn nhân nữ có cảm giác không bị đơn độc vì họ được chia sẻ đồng cảm và cùng giúp nhau vượt qua những nỗi khổ của mình. Trung tâm cũng giữ bí mật tên tuổi cho những nạn nhân chạy vào nhà tạm lánh của họ hoặc không bắt buộc nạn nhân khai tên tuổi thật.
Tuy thế, theo Ban thư ký Trung tâm giải quyết khủng hoảng cho biết chỉ có 36% phụ nữ nạn nhân tự liên lạc tìm đến Trung tâm vì họ rất mặc cảm việc bị chồng (hoặc đàn ông) đánh đập. Các trường hợp còn lại do công an, bác sĩ, hàng xóm hoặc tổ chức phúc lợi liên lạc, đưa họ đến. Chúng tôi được biết các nạn nhân vào nhà tạm lánh phần nhiều là người nhập cư. Phụ nữ Na Uy vào đây năm 2005 có 50%. Trong 7 năm gần đây Trung tâm còn hỗ trợ thêm phụ nữ bị tàn tật không nơi nương tựa.

Để duy trì hoạt động các Nhà tạm lánh, Ban Thư ký Trung tâm giải quyết khủng hoảng phải là một đội ngũ chuyên gia, cố vấn, những nhà hoạt động xã hội giỏi. Họ luôn nắm bắt thực trạng và giám sát tình hình bạo lực xảy ra. Họ trình khuyến nghị lên Chính phủ để Chính phủ có những chính sách hỗ trợ phụ nữ. Họ làm việc và có ảnh hưởng tới toàn xã hội trong lĩnh vực này, họ cũng có quyền chỉ trích các chính trị gia nếu các vị này không làm những gì để bảo vệ cho phụ nữ... Khi trao đổi với Giám đốc Trung tâm giải quyết khủng hoảng, chúng tôi còn được biết kinh phí cho hoạt động của Nhà tạm lánh hàng chục năm qua đều xin Chính phủ cấp 50%, còn 50% là đóng góp của chính quyền địa phương. Nhưng bây giờ chính quyền địa phương chỉ góp 20%, còn 30% họ phải tự tìm nguồn tài trợ. Vị chi hàng năm Trung tâm chi tiêu từ 25 đến 30 triệu NOK cho hoạt động này.

Đoàn Việt Nam chúng tôi có hỏi thêm họ rằng nếu nam giới ở Na Uy bị bạo lực thì có tổ chức nào che chở cho họ không ?". Họ bảo: "ở Na Uy, nam giới bị bạo lực không nhiều. Nếu bị bạo lực phần lớn họ đi về nhà bố mẹ hoặc bạn bè họ. Cũng có một số Trung tâm dịch vụ giải quyết cho nam giới khi bị bạo lực nhưng họ không đến nhiều. Tuy nhiên, Na Uy là nước đầu tiên ở Châu Âu có các Trung tâm này cho nam giới".

Chúng tôi đã đến thăm Nhà tạm lánh dành cho phụ nữ bị bạo lực ngay tại Thủ đô Ôslo vào chiều hôm sau. Đây là Nhà được Chính phủ tài trợ 80% và Thành phố tài trợ 20% ngân sách hoạt động. Quả đúng như lời bạn đã báo cáo. Ở đây hiện có 25 phụ nữ và 20 đứa con họ đang tạm lánh, trong đó 80% là người dân tộc và người nước ngoài. Một đội ngũ gồm 19 cán bộ có trình độ, học vấn cao chuyên trách làm công việc của Nhà như chăm sóc, đào tạo, hỗ trợ, làm việc với các tổ chức bảo trợ xã hội, cảnh sát...Chi phí nhiều nhất ở đây là dành cho việc thuê phiên dịch để giao tiếp với các nữ nạn nhân. Ngoài việc được thăm chỗ ở của họ, chúng tôi còn được thăm hội trường sinh hoạt, bồi dưỡng kiến thức. Trên tấm bảng dựng trong phòng còn ghi rất rõ lịch học các chuyên đề vào mỗi thứ ba hàng tuần. Tất cả đều rất khang trang, sạch sẽ. Tất cả đều rất đủ đầy, chu tất.

Thăm căn Nhà tạm lánh cũng là buổi cuối cùng làm việc trước khi tạm biệt Na Uy, chúng tôi nửa đùa nửa thật bảo nhau: "Cả tuần đi thăm và trao đổi chỉ thấy cái tốt cái đẹp, chưa thấy gì kém cả ?". Phải chăng nhìn tổng thể về mặt vĩ mô thì dải đất Bắc Âu này có nhiều thành tựu rất đáng tự hào. Ví như: là nước phát huy tiềm lực kinh tế cao, tỷ lệ công ăn việc làm đạt mức kỷ lục, đời sống văn hoá rất phát triển, là quốc gia đi đầu trong các vấn đề môi trường toàn cầu, là một trong những nước viện trợ lớn nhất theo tỷ trọng của tổng thu nhập nội địa (GDI), cũng là nước có đóng góp lớn nhất cho Quỹ phát triển phụ nữ Liên Hợp Quốc. Về lĩnh vực bình đẳng giới, phụ nữ Na Uy tham gia chính trị tích cực hơn nhiều so với phụ nữ ở các nước khác, tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội đạt 39,4%, nữ tham gia Chính phủ đạt 47%, có 9 nữ Bộ trưởng trong số 19 Bộ, Na Uy có Bộ Gia đình và bình đẳng giới, đồng thời có Cơ quan thanh tra về bình đẳng giới và chống phân biệt đối xử…Hiện nay Na Uy đã xây dựngKế hoạch hành động chống buôn bán phụ nữ ở cấp quốc gia.
Tuy nhiên, Na Uy không phải chỉ toàn những điều tuyệt vời như vừa kể. Người ăn xin vẫn rải rác vỉa hè thủ đô trong đó có cả phụ nữ. Luật Bình đẳng giới tiến bộ nhưng chỉ nhằm tăng cường quyền lực của phụ nữ ngoài xã hội chứ không bênh vực họ trong gia đình vì không áp dụng trong gia đình. Trong lĩnh vực công việc nhà không được trả lương phụ nữ vẫn làm việc nhiều hơn nam giới; trong lĩnh vực quản lý nhà nước, nam giới vẫn chiếm 86% và trong chính quyền địa phương lãnh đạo nam vẫn trên 70% ; nạn bạo lực vẫn xảy ra; mại dâm được phép hoạt động nhưng vẫn nhiều tình trạng xâm hại tình dục … Tất cả những hạn chế ấy đang là thử thách đối với đất nước này.

Tạm biệt Na Uy – Vương quốc màu xanh của núi đồi và biển cả, quê hương của những đêm trắng, ngày dài và bầu trời mùa đông diệu kỳ trong ánh sáng bắc cực quang. Nhưng điều để lại ấn tượng tốt đẹp mãi trong mỗi chúng tôi là đất nước của hoà bình, của bình đẳng giới và tiến bộ dành cho người phụ nữ.

Nguyễn Thị Mai - UBQG vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam
Nguồn: hlhpn.org.vn

BƯỚC TIẾN MỚI VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI Ở NƯỚC TA

Việt Nam là một trong những quốc gia sớm tham gia ký và phê chuẩn Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW). Chủ trương không phân biệt đối xử ở Việt Nam hiện nay không chỉ là điều tuyên ngôn, mà được thể hiện đậm nét trong chính sách, pháp luật của Nhà nước, được tôn trọng và đảm bảo thi hành trong thực tiễn đời sống xã hội, cũng như trong mọi gia đình và trong nhận thức của người dân. Mục tiêu cơ bản của công cuộc đổi mới của Việt Nam là “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Đây cũng chính là điều kiện quan trọng, bảo đảm thực hiện nguyên tắc bình đẳng về giới trong đời sống xã hội. Để bảo đảm bình đẳng giới, Nhà nước đã tiến hành những hoạt động sau:

1. Thực thi các biện pháp chống phân biệt đối xử

Việt bảo đảm bình đẳng nam nữ được thực hiện thông qua các hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp; thông qua nguyên tắc tổ chức và hoạt động của các đoàn thể nhân dân, tổ chức xã hội, nghề nghiệp mà mỗi cá nhân là thành viên.

Đối với hoạt động lập pháp: Nguyên tắc bình đẳng giới được chú trọng ngay từ khâu lựa chọn nhân sự để thành lập Ban soạn thảo văn bản pháp luật, thường có từ 30% đến 45% thành viên nữ, gần tương xứng với tỷ lệ cán bộ nữ của Bộ Tư pháp là 40%, bảo đảm sự tham gia của phụ nữ vào quá trình xây dựng và giám sát việc thực thi luật pháp.

Trong hoạt động hành pháp: Nguyên tắc bình đẳng nam, nữ luôn được tôn trọng và thể hiện trong quy định chế độ, chính sách; bảo đảm quá trình thực hiện ở cấp độ thụ hưởng, tham gia, giám sát và quản lý; phát triển đội ngũ nữ công chức và các nhà quản lý, lãnh đạo nữ; tham khảo ý kiến của phụ nữ, thu hút sự tham gia của Hội phụ nữ vào hoạt động quản lý nhà nước, của chính quyền.

Về hoạt động tư pháp và bổ trợ tư pháp: tuân thủ nghiêm các quy định pháp luật, tạo điều kiện để thực thi nguyên tắc bình đẳng giới.

Thực hiện các biện pháp ngăn cấm sự phân biệt đối xử, Nhà nước sửa đổi, hoàn chỉnh luật pháp, đảm bảo các quy định của luật pháp (như Bộ Luật Hình sự năm 1985, Bộ Luật Lao động năm 1994,...); đảm bảo những quy định có tính chất chế tài, nhằm trừng phạt những ai có hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ, và đó là cơ sở pháp lý bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ với nam giới trong gia đình và ngoài xã hội.

Những thành tựu to lớn thu được trong 20 năm đổi mới đã chứng tỏ công cuộc đấu tranh bảo vệ quyền bình đẳng của phụ nữ thu được nhiều thắng lợi quan trọng, trên mọi phương diện chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội. Song hành với việc thực thi pháp luật, nhiều biện pháp được thực hiện nhằm ngăn ngừa và loại trừ phân biệt đối xử với phụ nữ, góp phần thay đổi nhận thức toàn xã hội về bình đẳng giới như: tuyên truyền, giáo dục truyền thông, thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng, v.v... Đồng thời, thực hiện các biện pháp trừng phạt nghiêm khắc đối với những hành vi vi phạm nghiêm trọng đến nhân phẩm, danh dự, sức khỏe, tính mạng của phụ nữ.

Quyền của phụ nữ trên cơ sở bình đẳng với nam giới trong mọi mặt đời sống xã hội được khẳng định và bảo vệ bằng Hiến pháp và pháp luật. Bất kỳ hành vi phân biệt đối xử trên cơ sở giới tính nào cũng đều bị pháp luật nghiêm cấm và xã hội lên án, nếu dẫn đến hậu quả nghiêm trọng đều bị Tòa án xử lý theo luật định.

Từ những năm đất nước bước vào đổi mới đến nay, công dân Việt Nam đã nhận thức ngày càng rõ hơn, đầy đủ hơn các quyền và nghĩa vụ của mình do Hiến pháp và pháp luật quy định. Ý thức chấp hành pháp luật của người dân được nâng cao. Tình hình vi phạm pháp luật, nhất là vi phạm nguyên tắc bình đẳng giới có xu hướng giảm. Các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, đoàn thể, tổ chức kinh tế luôn cố gắng dành cho phụ nữ những điều kiện thuận lợi để thực hiện quyền bình đẳng với nam giới trên các lĩnh vực công tác. Phụ nữ có quyền khiếu nại, tố cáo với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc bị xâm phạm quyền bình đẳng hay bị phân biệt đối xử theo quy định tại Điều 74, Hiến pháp năm 1992. Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam và các Hội, đoàn thể quần chúng khác có vai trò rất tích cực trong bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của hội viên.

Do quy định luật pháp về cấm phân biệt đối xử; do hoạt động thường xuyên của các cơ quan giám sát hoặc cưỡng chế việc thực hiện các quy định đó, nên ở Việt Nam không một cá nhân, tổ chức nào dám công khai tiến hành hoạt động có tính chất phân biệt đối xử với phụ nữ. Tuy nhiên, trên thực tiễn, vẫn còn một số tồn tại trong việc tôn trọng quyền bình đẳng của phụ nữ trên bình diện xã hội (phụ thuộc vào nhận thức và hoàn cảnh cụ thể của người dân). Do đó, đấu tranh để bảo vệ quyền bình đẳng của phụ nữ, đặc biệt là phụ nữ các dân tộc thiểu số, tiếp tục là nhiệm vụ quan trọng của các cơ quan nhà nước, chính quyền địa phương và cộng đồng.

2. Bảo đảm sự phát triển và tiến bộ đầy đủ của phụ nữ

Để bảo đảm sự phát triển và tiến bộ đầy đủ của phụ nữ, từ năm 1995 đã thực hiện Kế hoạch hành động Quốc gia vì sự tiến bộ của Phụ nữ Việt Nam đến năm 2000 và giai đoạn 2001-2010 phát triển thành Chiến lược Quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam. Chiến lược này có 5 mục tiêu chủ yếu: 1- Thực hiện các quyền bình đẳng của phụ nữ trong lĩnh vực lao động, việc làm. 2- Thực hiện các quyền bình đẳng của phụ nữ trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo. 3- Cải thiện và nâng cao sức khỏe cho phụ nữ và trẻ em. 4- Nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của phụ nữ trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội để tăng tỷ lệ cán bộ nữ tham gia lãnh đạo. Bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp và chính đáng của phụ nữ và trẻ em gái trong gia đình và xã hội. 5- Tăng cường năng lực và hiệu quả hoạt động vì sự tiến bộ của phụ nữ.

Đối chiếu với 5 mục tiêu trên, qua 5 năm thực hiện Chiến lược Quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ, nước ta đã đạt được một số thành tựu nổi bật sau:

- Bình đẳng giới trong lao động - việc làm: Đã có nhiều chính sách, biện pháp tạo điều kiện để phụ nữ có việc làm, phát triển kinh tế, tăng thu nhập, ổn định đời sống của gia đình và bản thân. Theo đánh giá giữa kỳ kết quả việc thực hiện Chiến lược quốc gia, đến năm 2005 có trên 46% trong tổng số lao động được giải quyết việc làm là nữ. Phụ nữ tham gia ở tất cả các loại hình nghề nghiệp, song chủ yếu tập trung vào các nghề dịch vụ, giản đơn, không đòi hỏi trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao.

Tỷ lệ sử dụng thời gian lao động của phụ nữ nông thôn đã liên tục tăng trong vòng 5 năm qua, đến năm 2005 đã đạt 80%. Tỷ lệ lao động nữ thất nghiệp ở thành thị năm 2005 là 6,14%. Trên 70% phụ nữ chủ hộ trong số các hộ nghèo được vay vốn phát triển sản xuất.

Chính phủ đã ban hành Nghị định 181/2004/NĐ-CP hướng dẫn cụ thể về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có cả họ tên vợ và chồng, nhằm khắc phục những hạn chế của phụ nữ trong việc tiếp cận đất đai.

Chính sách tín dụng được đổi mới, đồng thời với chương trình quốc gia về xóa đói giảm nghèo và việc làm đã tạo điều kiện để phụ nữ ngày càng tiếp cận nhiều hơn với vay vốn mở rộng sản xuất, tăng thu nhập và xóa đói nghèo. Ngoài ra, thông qua Hội phụ nữ cũng có các hoạt động tín dụng, được đánh giá là rất hiệu quả (tỷ lệ nợ quá hạn được đánh giá là 0,7%). Đã có 1,3 triệu phụ nữ được vay với tổng số vốn trên 5.000 tỉ đồng.

- Bình đẳng giới trong giáo dục - đào tạo: Phụ nữ và trẻ em gái được tạo điều kiện bình đẳng với nam giới trong nâng cao trình độ văn hóa và trình độ học vấn. Tỷ lệ phụ nữ so với nam giới trong số người biết chữ đã tăng lên đáng kể. Chênh lệch về tỷ lệ học sinh nam - nữ trong tất cả các cấp bậc học được thu hẹp (Báo cáo Quốc gia của Việt Nam, tháng 8-2005 đã khẳng định điều này). Về cơ bản, Việt Nam có thể đạt được mục tiêu xóa bỏ cách biệt giới ở các cấp học trước năm 2015. Có 4 loại hình giáo dục không chính quy, chủ yếu dành cho người lớn, trong đó có phụ nữ, như: Chương trình xóa nạn mù chữ và giáo dục sau biết chữ; Chương trình giáo dục đáp ứng nhu cầu của người học, Chương trình đào tạo bổ sung, tu nghiệp định kỳ, bồi dưỡng nâng cao trình độ, cập nhật kiến thức, kỹ năng và Chương trình giáo dục để lấy văn bằng, v.v... Các chương trình này đã tạo nhiều cơ hội học tập đối với phụ nữ hơn rất nhiều so với trước.

- Tăng cường sự tham gia của phụ nữ vào công tác lãnh đạo, quản lý: Tỷ lệ nữ trong các cơ quan dân cử (Hội đồng nhân dân các cấp) ngày càng tăng, nhiệm kỳ 2004-2009 cao hơn so với nhiệm kỳ trước. Cấp tỉnh, thành đạt 23,8%; cấp huyện đạt 23,2% và cấp xã, phường đạt 20,1%. Tuyên Quang là một tỉnh miền núi còn nghèo, với 22 dân tộc thiểu số, nhưng có tỷ lệ đại biểu nữ cao nhất 33,3%. Điều đó cho thấy điều kiện kinh tế không phải là yếu tố quyết định tới khả năng tham gia lãnh đạo của phụ nữ, mà điều cốt yếu nhất là quyết tâm chính trị, sự chỉ đạo và quan tâm của các cấp, các ngành chức năng trong công tác quy hoạch và đào tạo phụ nữ.

Toàn quốc có 3 Chủ tịch, 32 Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh là nữ, tăng gấp rưỡi so với nhiệm kỳ 1999-2004. Tỷ lệ nữ trong Uỷ ban nhân dân các cấp cũng tăng so với nhiệm kỳ trước: cấp tỉnh tăng từ 6,4% lên 23,9%; cấp huyện từ 4,9% lên 23% và cấp xã từ 4,5% lên 19,5%. Việt Nam tiếp tục dẫn đầu các nước trong khu vực châu Á về tỷ lệ nữ tham gia Quốc hội với 27,3% khóa 2002-2007. Cùng với sự gia tăng về số lượng, chất lượng tham gia của các đại biểu Quốc hội là nữ cũng nâng lên (tỷ lệ đại biểu nữ có học vấn từ đại học trở lên tăng từ 30,3% khóa 1992-1997 lên 44,9% khóa 1997-2002 và đạt 50,2% vào khóa 2002-2007).

Tỷ lệ nữ bộ trưởng và tương đương đạt 12,7%; thứ trưởng và tương đương là 9,1%; tỷ lệ nữ là chủ doanh nghiệp hiện nay là 20%; nữ thẩm phán của Tòa án nhân dân tối cao là 33%; v.v...

- Bình đẳng giới trong chăm sóc sức khỏe: Đã có các hoạt động tập trung nâng cao nhận thức về giới, thay đổi hành vi trong chăm sóc sức khỏe phụ nữ và kế hoạch hóa gia đình. Đổi mới và phát triển mạng lưới tư vấn sức khỏe, nhất là sức khỏe sinh sản; giáo dục giới tính và tình dục an toàn vị thành niên; vận động nam, nữ áp dụng các biện pháp tránh thai; tuyên truyền, hướng dẫn phụ nữ biết cách chăm sóc sức khỏe bản thân và gia đình; phòng trừ bệnh dịch. Đồng thời, phát triển cơ sở cung cấp dịch vụ bảo vệ chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, nhất là chăm sóc sức khỏe sinh sản cho phụ nữ. Đến nay, các tỉnh đều có Trung tâm chăm sóc sức khỏe sinh sản. Các trạm y tế xã, phường từng bước được cung cấp trang thiết bị cơ bản, quĩ thuốc thiết yếu và phương tiện chăm sóc sức khỏe sinh sản và kế hoạch hóa gia đình (trong đó 37% trạm đạt tiêu chuẩn quốc gia); có nhân viên chăm sóc sức khỏe sinh sản và kế hoạch hóa gia đình. Cán bộ y tế xã, phường được phụ cấp hoặc hưởng lương.

Theo Bộ Y tế, đến nay ở 76% thôn, bản có y tế cơ sở, đã thực hiện chăm sóc sức khỏe bà mẹ trẻ em và kế hoạch hóa gia đình đến tận hộ gia đình, có những nơi đạt tỷ lệ trên 90% như: Tây Nguyên, Duyên hải Miền Trung. Tại vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo sử dụng tốt mô hình kết hợp quân - dân y trong chăm sóc bảo vệ sức khỏe nhân dân. Y tế dự phòng được thực hiện có hiệu quả, nhiều bệnh dịch nguy hiểm được khống chế và đẩy lùi; trình độ chuyên môn kỹ thuật của ngành y tế có bước phát triển đáng kể. Công tác truyền thông được tăng cường để nâng cao nhận thức về bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ, thay đổi hành vi và thói quen của người dân, đặc biệt là phụ nữ về chăm sóc sức khỏe, nhất là sức khỏe sinh sản, an toàn thực phẩm, hướng dẫn vai trò giới trong kế hoạch hóa gia đình... Do thực hiện các chương trình: Chăm sóc sản khoa thiết yếu, Làm mẹ an toàn, phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em..., nên công tác bảo vệ sức khoẻ bà mẹ trẻ em có nhiều chuyển biến. Trên 90% phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ được tiêm phòng uốn ván, riêng phụ nữ có thai đạt trên 80%. Tỷ suất chết sơ sinh ở các vùng Đông Nam bộ, đồng bằng sông Hồng, Duyên hải Nam Trung bộ và vùng đồng bằng sông Cửu Long giảm rõ rệt.

- Tăng cường năng lực của hệ thống cơ quan hoạt động vì sự tiến bộ của phụ nữ: Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 92/2001/QĐ-TTg về kiện toàn bộ máy Uỷ ban Quốc gia. Các bộ, ngành ở trung ương và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, (thành phố) đã kiện toàn tổ chức Ban Vì sự tiến bộ của Phụ nữ tương đối đồng đều, thường xuyên bám sát những mục tiêu chung và có sự chỉ đạo phù hợp, sát với điều kiện thực tiễn nên đạt kết quả tương đối tốt.

Mặc dù đạt được kết quả bước đầu, song việc thực hiện bình đẳng giới nói chung và vì sự tiến bộ của phụ nữ nói riêng là một sự nghiệp lớn đã và đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Đây là cuộc đấu tranh rất lâu dài và gian khổ. Việt Nam là một nước thuộc khu vực Đông Nam Á còn nghèo, lại chịu ảnh hưởng của nhiều tư tưởng phong kiến, lạc hậu nên không thể tránh khỏi những hạn chế. Đó là: những định kiến giới và tư tưởng trọng nam hơn phụ nữ ở mọi tầng lớp xã hội. Các biểu hiện có thể thấy được là thích đẻ con trai hơn con gái; coi nội trợ, chăm sóc con cái là công việc của phụ nữ; khi chia tài sản thừa kế, thường cho con trai nhiều hơn; nam giới được coi là trụ cột, quyết định chính trong gia đình, v.v... Thời gian làm việc của phụ nữ thường kéo dài hơn nam giới trung bình khoảng 4 giờ/ngày, chủ yếu là do phụ nữ ngoài công việc ở cơ quan, còn phải chăm sóc con cái, nội trợ. Họ có ít thời gian nghỉ ngơi, học tập nâng cao trình độ hơn so với nam giới, nhất là ở những vùng nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa. Đây thực sự là gánh nặng đè lên vai phụ nữ, ảnh hưởng xấu đến tình trạng sức khỏe của họ. Trong giáo dục, trẻ em gái và phụ nữ dân tộc ít người còn nhiều khó khăn và trở ngại hơn so với các trẻ em trai và nam giới. Tỷ lệ nữ có học hàm, học vị còn quá thấp so với nam giới.

Mặc dù, tỷ lệ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý trong những năm gần đây đã tăng đáng kể, nhưng vẫn còn thấp và không đồng đều ở các cấp, các lĩnh vực và chưa tương xứng với lực lượng phụ nữ trong xã hội. Trong lao động việc làm, mặc dù chênh lệch về tỷ lệ tham gia các hoạt động kinh tế không lớn, nhưng thu nhập trung bình thực tế của nam giới vẫn cao hơn nữ giới. Tỷ lệ lao động nữ qua đào tạo vẫn thấp hơn nam. Tình trạng ngược đãi phụ nữ trong gia đình vẫn tồn tại ở cả nông thôn và thành thị, trong tất cả các nhóm xã hội và vẫn còn cho rằng đó là riêng tư, thuộc nội bộ gia đình, nên những nỗ lực của các cơ quan chức năng, đoàn thể chưa mang lại hiệu quả cao.

Thách thức hiện nay đối với phụ nữ là điều kiện sống, môi trường làm việc của nữ thanh niên tại các khu công nghiệp, khu chế xuất; định hướng đi xuất khẩu đối với lao động nữ còn nhiều bất cập, lao động không nghề, thu nhập thấp, điều kiện sinh sống không đảm bảo. Hiện tượng buôn bán phụ nữ, trẻ em ra nước ngoài làm mại dâm diễn biến ngày càng phức tạp (thông thường phụ nữ bị buôn bán là những chị em có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, sống ở vùng sâu, vùng xa, ít hiểu biết, thiếu thông tin, trình độ văn hóa thấp,...). Có những tiêu cực trong dịch vụ môi giới phụ nữ lấy chồng người nước ngoài; tình hình lây nhiễm HIV/AIDS tiếp tục gia tăng trong phụ nữ và trẻ em,...

3. Định hướng Phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006-2010 có vai trò quan trọng đặc biệt tới việc thực hiện thành công Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X.

Đây là giai đoạn cuối trong quá trình thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001-2010 cũng là giai đoạn 2 của việc thực hiện Chiến lược Quốc gia Vì sự tiến bộ của Phụ nữ. Để đạt được các mục tiêu về bình đẳng giới, Chính phủ Việt Nam đang nỗ lực triển khai giai đoạn 2 của Chiến lược quốc gia Vì sự tiến bộ của Phụ nữ Việt Nam, thông qua Kế hoạch Hành động giai đoạn 2006-2010. Cùng với 5 mục tiêu quan trọng đã nói ở trên, được cụ thể hơn qua hệ thống các chỉ tiêu và các giải pháp sau:

Thứ nhất, chú trọng đến các giải pháp phối hợp liên ngành, thực hiện đồng bộ các chỉ tiêu. Có sự phân công trách nhiệm rõ ràng đối với các cơ quan. Tập trung xây dựng và thi hành luật pháp; tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện các mục tiêu bình đẳng giới;

Thứ hai, đẩy mạnh hơn nữa việc lồng ghép giới vào quá trình hoạch định chiến lược, kế hoạch phát triển và thực thi chính sách ở tất cả các cấp, các ngành; lồng ghép giới vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo và tạo việc làm. Tăng cường đầu tư cho công tác giáo dục, dạy nghề, khuyến nông và đào tạo nâng cao trình độ mọi mặt cho phụ nữ.

Thứ ba, tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục truyền thông, nâng cao nhận thức về bình đẳng giới. Chú trọng các thông tin mang tính cảnh báo về tệ mại dâm, buôn bán phụ nữ và phát triển các hoạt động trợ giúp pháp lý, phòng ngừa, hạn chế tối đa các tổn hại có thể xảy ra đối với phụ nữ.

Thứ tư, tăng cường năng lực và hiệu quả hoạt động của Uỷ ban Quốc gia Vì sự tiến bộ của Phụ nữ và hệ thống các ban Vì sự tiến bộ của Phụ nữ và năng lực của Hội Phụ nữ các cấp. Đổi mới về cơ chế cấp kinh phí hoạt động cho tiến bộ phụ nữ và bình đẳng giới. Mở rộng hợp tác quốc tế và tranh thủ sự giúp đỡ của các nước, các tổ chức quốc tế về công tác này.

**********************************************************************************

NGUYỄN THỊ BÌNH

TẠP CHÍ CỘNG SẢN SỐ 4 (124) NĂM 2007


Thứ Hai, 27 tháng 8, 2007

BƯỚC TIẾN MỚI BẢO ĐẢM QUYỀN CƯ TRÚ CỦA CÔNG DÂN VIỆT NAM

“Có an cư mới lạc nghiệp”, Luật Cư trú của Việt Nam mới ban hành đã đáp ứng được nguyện vọng chính đáng của nhân dân; đồng thời là luật thông thoáng, tiến bộ nhất của nước ta hiện nay bảo đảm quyền cư trú của nhân dân và quản lý cư trú của Nhà nước.

Luật Cư trú được Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ mười thông qua ngày 29-11-2006, có hiệu lực kể từ ngày 1-7-2007. Việc ban hành Luật này là một bước tiến quan trọng trong công tác lập pháp của Nhà nước ta, tạo cơ sở pháp lý cho công dân thực hiện quyền tự do cư trú, lựa chọn nơi cư trú được Hiến pháp năm 1992 ghi nhận.

I. Luật Cư trú bảo đảm được những quan điểm chính của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta; đồng thời, bảo đảm sự thông thoáng về quyền cư trú cho người dân

Luật cư trú bao gồm 6 chương, 42 điều đã bảo đảm được những quan điểm chính của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta:

1- Quán triệt và cụ thể hóa quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng về xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật về cư trú, phù hợp với chủ trương cải cách hành chính; phù hợp với tiến trình hội nhập, mở rộng giao lưu và hợp tác quốc tế; phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và xu hướng hội nhập quốc tế hiện nay.

2- Tạo khuôn khổ pháp lý hữu hiệu để bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân, tạo thuận lợi tối đa cho công dân Việt Nam, người Việt Nam định cư ở nước ngoài vẫn còn quốc tịch Việt Nam trở về Việt Nam sinh sống, làm ăn; trình tự đăng ký cư trú đơn giản, thuận tiện, kịp thời, chính sách, công khai, minh bạch, không gây phiền hà, tiêu cực; đồng thời, bảo đảm cho công tác quản lý cư trú có hiệu quả trong giai đoạn hiện nay và các năm tiếp theo.

3- Là cơ sở để củng cố, hoàn thiện tổ chức bộ máy, cán bộ làm công tác đăng ký, quản lý cư trú; đổi mới phương pháp, ứng dụng có hiệu quả thành tựu khoa học, công nghệ trong quản lý cư trú, bảo đảm tính khoa học, dân chủ, công khai, minh bạch và thuận tiện cho đăng ký, quản lý cư trú.

4- Kế thừa những quy định hợp lý và đang phát huy có tác dụng tốt trong công tác đăng ký, quản lý cư trú; đồng thời tiếp thu có chọn lọc pháp luật và kinh nghiệm quản lý cư trú của nước ngoài để vận dụng phù hợp với đặc điểm, điều kiện của Việt Nam.

5- Quy định cụ thể các vấn đề liên quan đến cư trú, hạn chế đến mức thấp nhất việc phải ban hành văn bản hướng dẫn thi hành Luật, để các cơ quan nhà nước và mọi tổ chức, cá nhân chấp hành Luật nghiêm chỉnh, thống nhất, kịp thời.

Đối với quyền tự do cư trú của người dân, Luật Cư trú bảo đảm sự thông thoáng nhất từ trước đến nay, đáp ứng được nhiều nguyện vọng mong mỏi chính đáng của người dân.

Tự do cư trú là một trong những quyền cơ bản của công dân được ghi nhận trong tất cả các Hiến pháp của Nhà nước ta. Mặc dù Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản quy định về cư trú, quản lý cư trú để đáp ứng yêu cầu, phù hợp với thực tiễn của từng giai đoạn. Nhưng cho đến nay, các quy định này còn tản mạn trong nhiều văn bản, chủ yếu được ban hành dưới hình thức Nghị định của Chính phủ. Mặt khác, sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nhất là yêu cầu hội nhập, mở rộng giao lưu và hợp tác quốc tế, nhiều quy định của pháp luật hiện hành không còn phù hợp nữa; quản lý nhà nước về cư trú còn mang nặng cơ chế xin - cho; trình tự, thủ tục đăng ký hộ khẩu rườm rà, phức tạp, chưa thực sự dân chủ, thống nhất, vận dụng tùy tiện; tình trạng gắn kết tùy tiện vấn đề hộ khẩu với việc thực hiện các chính sách, pháp luật khác của Nhà nước đã làm hạn chế, gây khó khăn, phiền hà cho việc thực hiện các quyền cơ bản của công dân. Bên cạnh đó, một bộ phận nhân dân chưa thực hiện tốt quy định của pháp luật về đăng ký thường trú, tạm trú, khai báo tạm trú, vắng mặt. Những hạn chế này đã làm cho hiệu quả của công tác quản lý nhà nước về cư trú chưa cao, gây ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước; đặc biệt, trong nhiều trường hợp đã tạo ra kẽ hở để các phần tử xấu lợi dụng gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội; ảnh hưởng không tốt đến quyền tự do cư trú của công dân.

Luật Cư trú được ban hành có tính xã hội hóa rất cao, tác động trực tiếp tới mọi công dân ở trong nước và người Việt Nam định cư ở nước ngoài vẫn còn quốc tịch Việt Nam trở về Việt Nam sinh sống. Các quy định của Luật bảo đảm tạo điều kiện thuận lợi cho công dân thực hiện quyền tự do cư trú, lựa chọn nơi cư trú với những trình tự, thủ tục đăng ký đơn giản, thuận tiện, kịp thời, chính xác, không gây phiền hà cho nhân dân; đáp ứng yêu cầu đăng ký, quản lý cư trú trong tình hình mới, yêu cầu hội nhập, mở rộng giao lưu và hợp tác quốc tế. Đó cũng là yêu cầu của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, phục vụ công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; đồng thời, cũng là những cam kết của Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là gia nhập WTO.

II. Một số nội dung cơ bản tiến bộ của Luật Cư trú

1- Bảo đảm quyền tự do cư trú của công dân

Tự do cư trú là một trong những quyền cơ bản của công dân, ngay sau khi thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, quyền này đã được ghi nhận trong Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước ta và các Hiến pháp tiếp theo; đồng thời, được cụ thể hóa trong Bộ Luật Dân sự và các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước ta. Quyền này, theo quy định của Luật Cư trú được thể hiện bằng việc công dân lựa chọn, quyết định nơi thường trú, nơi tạm trú theo quy định của pháp luật. Cùng đó, công dân còn được yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký thường trú, tạm trú cho họ.

Để bảo đảm cho công dân thực hiện quyền tự do cư trú, Điều 4 của Luật đã khẳng định nguyên tắc về cư trú là: tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; bảo đảm hài hòa quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, lợi ích của Nhà nước, cộng đồng và xã hội; kết hợp giữa việc bảo đảm quyền tự do cư trú, các quyền cơ bản khác của công dân và trách nhiệm của Nhà nước với nhiệm vụ xây dựng, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội. Thông qua công tác đăng ký, quản lý cư trú, cũng như đòi hỏi của quá trình thi hành Luật này để phục vụ tốt cho công dân thực hiện quyền tự do cư trú của mình... Theo đó, việc đăng ký, quản lý cư trú phải đáp ứng mạnh mẽ yêu cầu cải cách hành chính trong quản lý cư trú, bảo đảm trình tự, thủ tục đăng ký thường trú, tạm trú đơn giản, thuận tiện, kịp thời, chính xác, công khai, minh bạch, không gây phiền hà cho nhân dân trên tinh thần trách nhiệm cao của những người được Nhà nước giao cho thực hiện nhiệm vụ quản lý cư trú. Mọi thay đổi về cư trú phải được đăng ký; mỗi người chỉ được đăng ký thường trú, tạm trú tại một nơi nhất định. Đồng thời, Luật cũng quy định các điều kiện bảo đảm thực hiện quyền tự do cư trú của công dân và hoạt động quản lý cư trú. Việc quan tâm về nguồn lực cũng như về vật chất của Nhà nước cho hoạt động quản lý cư trú, cũng có nghĩa là phục vụ tốt cho việc thực hiện quyền tự do cư trú của công dân.

Một trong những quy định khác để bảo đảm quyền tự do cư trú của công dân được quy định tại Điều 8 là các hành vi bị nghiêm cấm. Điều 8 quy định cụ thể 9 nhóm hành vi bị nghiêm cấm, để áp dụng đối với cơ quan, tổ chức và cá nhân; trong đó chủ yếu là các hành vi bị nghiêm cấm để áp dụng đối với cơ quan, tổ chức và những người làm công tác đăng ký, quản lý cư trú.

Có một thực tế là việc quy định về hộ khẩu đang bị lạm dụng, gây nên những bức xúc trong nhân dân, từ đó có những đánh giá, hiểu sai lệch về hộ khẩu. Có những trường hợp quy định về hộ khẩu bị sử dụng sai mục đích, làm hạn chế quyền và lợi ích hợp pháp của công dân như lĩnh vực nhà ở, điện, nước sinh hoạt... Nhưng cũng có nhiều trường hợp phải căn cứ vào hộ khẩu của công dân để thực hiện một số quyền khác như quyền bầu cử, ứng cử, thực hiện chế độ bảo hiểm, giao đất để sản xuất theo hộ gia đình, ưu tiên đi học... Do đó, không thể cấm sử dụng hộ khẩu ngoài mục đích quản lý cư trú được. Còn về hành vi lạm dụng quy định về hộ khẩu để hạn chế quyền và lợi ích hợp pháp của công dân thì rất khác nhau, lại diễn ra ở các ngành, lĩnh vực nên trong Luật khó có thể liệt kê hết được để loại bỏ các hạn chế này.

Thực hiện Điều 41 của Luật, Chỉ thị số 7/2007/CT-TTg, ngày 29-3-2007 của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức triển khai thi hành Luật, các cơ quan, tổ chức hữu quan đang tiến hành rà soát các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến quy định về hộ khẩu để kiến nghị, chỉ đạo cơ quan có thẩm quyền sửa đổi hoặc bãi bỏ những quy định lạm dụng hộ khẩu. Bộ Công an cũng đã trình Chính phủ Dự thảo Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật, trong đó đã quy định cụ thể hơn hành vi “lạm dụng quy định về sổ hộ khẩu để hạn chế quyền và lợi ích hợp pháp của công dân”; trách nhiệm của các bộ, ngành, ủy ban nhân dân các cấp về việc rà soát văn bản hoặc khi ban hành văn bản qui phạm pháp luật, văn bản khác liên quan đến hộ khẩu, kiểm tra, giám sát, xử lý kịp thời cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc thẩm quyền trong việc thực hiện văn bản qui phạm pháp luật, văn bản khác có liên quan đến hộ khẩu mà làm hạn chế quyền, lợi ích hợp pháp của công dân.

Điều 9 quy định: lựa chọn, quyết định nơi thường trú, tạm trú của mình phù hợp với quy định của Luật và các quy định của pháp luật khác có liên quan; được cấp, cấp lại, đổi sổ hộ khẩu, sổ tạm trú, giấy tờ khác có liên quan đến cư trú; được cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến việc thực hiện quyền cư trú; yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện biện pháp bảo vệ quyền cư trú của mình; khiếu nại, tố cáo, khởi kiện đối với hành vi vi phạm pháp luật về cư trú theo quy định của pháp luật.

Luật cũng xác định các trường hợp công dân bị hạn chế quyền tự do cư trú và quy định rõ trách nhiệm của công dân về cư trú. Một vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng mà Luật đã quy định là nơi cư trú của công dân (Điều 12). Theo đó, nơi cư trú của công dân được quy định là chỗ ở hợp pháp mà người đó thường xuyên sinh sống. Nơi cư trú của công dân là nơi thường trú hoặc nơi tạm trú.

Chỗ ở hợp pháp là nhà ở, phương tiện hoặc nhà khác mà công dân sử dụng để cư trú. Chỗ ở hợp pháp có thể thuộc quyền sở hữu của công dân hoặc được cơ quan, tổ chức, cá nhân cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ theo quy định của pháp luật.

Chỗ ở hợp pháp là một trong những điều kiện cần thiết để công dân đăng ký thường trú. So với quy định của Nghị định số 51/CP đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 108/2005/NĐ-CP, ngày 14-8-2005 và Thông tư số 11/2005/TT-BCA-C11, ngày 7-10-2005 của Bộ Công an hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 51/CP và Nghị định số 108/2005/NĐ-CP, Luật Cư trú có một số điểm mới là: 1- Quy định chỗ ở hợp pháp theo hướng rộng hơn, bao gồm “nhà ở, phương tiện hoặc nhà khác mà công dân sử dụng để cư trú”. 2- Nhà ở được gọi là chỗ ở hợp pháp cũng được quy định rộng hơn, có thể là nhà thuộc quyền sở hữu của công dân hoặc được cơ quan, tổ chức, cá nhân cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ theo quy định của pháp luật.

Thực tế có nhiều trường hợp người đi thuê hoặc ở nhờ lại có hành vi gây tranh chấp dân sự với chủ nhà như đòi hỏi được chia nhà..., làm thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của chủ nhà gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự. Để khắc phục tình trạng này, Điều 19, và Điều 20 quy định: Đối với các trường hợp chỗ ở hợp pháp cho thuê, mượn, ở nhờ nhà của cá nhân thì phải được người cho thuê, cho mượn, cho ở đồng ý bằng văn bản. Điều đó có nghĩa là, nếu chủ nhà không đồng ý cho ở nhờ, thuê nhà, mượn nhà được đăng ký thường trú thì không được cơ quan có thẩm quyền giải quyết đăng ký thường trú.

Đối với trường hợp chỗ ở hợp pháp do thuê, mượn ở nhờ nhà của Nhà nước, hoặc của các tổ chức chuyên kinh doanh nhà thì không cần phải có sự đồng ý của chủ nhà; bởi vì, theo quy định của Bộ Luật Dân sự thì Nhà nước, các tổ chức chuyên kinh doanh nhà, khi đã cho người khác mượn, thuê, cho ở nhờ nhà phải làm hợp đồng. Nội dung của hợp đồng này đã thể hiện sự đồng ý cho đăng ký thường trú ở ngôi nhà đó. Quy định nói trên của Luật là nhằm bảo đảm quyền tự do cư trú của công dân và đơn giản hóa thủ tục đăng ký thường trú.

2- Bảo đảm quyền đăng ký thường trú, tạm trú, lưu trú và khai báo tạm vắng

Việc đăng ký thường trú được quy định tại Chương III từ Điều 18 đến Điều 29. Theo quy định tại Điều 18, đăng ký thường trú là việc công dân đăng ký nơi thường trú của mình với cơ quan nhà nước có thẩm quyền và được cơ quan này làm thủ tục đăng ký thường trú, cấp sổ hộ khẩu. Điều kiện đăng ký thường trú tại thành phố trực thuộc Trung ương, ngoài điều kiện có chỗ ở hợp pháp còn phải có thêm một điều kiện khác, đó là tạm trú liên tục tại thành phố đó từ 1 năm trở lên (giảm 2 năm so với quy định hiện hành) và thuộc trong những trường hợp sau đây:

1- Được người có hộ khẩu đồng ý cho nhập vào sổ hộ khẩu của mình nếu đó là: vợ, chồng về ở với nhau; con cái về ở với cha, mẹ; cha, mẹ về ở với con cái; người hết tuổi lao động, nghỉ hưu, mất sức, nghỉ thôi việc; người tàn tật, mất khả năng lao động, người tâm thần, hoặc bệnh tật mất khả năng nhận thức, khả năng điều khiển hành vi; người chưa thành niên không còn cha, mẹ, hoặc cha, mẹ không có khả năng nuôi dưỡng về ở với người ruột thịt, người giám hộ.

2- Được điều động, tuyển dụng đến làm việc tại cơ quan, tổ chức hưởng lương từ ngân sách nhà nước hoặc theo chế độ hợp đồng không xác định thời hạn và có chỗ ở hợp pháp. Trường hợp chỗ ở hợp pháp cho thuê, mượn, ở nhờ của cá nhân thì phải được người đó đồng ý bằng văn bản.

3- Trước đây đã đăng ký thường trú ở thành phố trực thuộc Trung ương, nay trở đó, tại chỗ ở hợp pháp của mình. Trường hợp chỗ ở hợp pháp cho thuê, mượn, ở nhà của cá nhân thì phải được người đó đồng ý bằng văn bản. Về thủ tục đăng ký thường trú, so với các qui định của pháp luật hiện hành, Luật đã quy định rõ nơi nộp hồ sơ, những giấy tờ cần thiết để đăng ký thường trú.

Vấn đề khá quan trọng của Luật là mô hình quản lý cư trú. Trước khi Luật được Quốc hội thông qua đã có khá nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề này, trong đó không ít ý kiến đề nghị việc bỏ quản lý cư trú bằng sổ hộ khẩu, sổ tạm trú và thay vào đó là thẻ công dân. Tuy nhiên nhiều ý kiến cho rằng, việc giữ mô hình quản lý cư trú bằng việc cấp sổ hộ khẩu, sổ tạm trú cho công dân vẫn cần thiết và Luật đã được thông qua theo hướng này.

Quản lý cư trú bằng việc cấp sổ hộ khẩu, sổ tạm trú nhằm góp phần bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự, an toàn xã hội; đồng thời, còn phục vụ cho các chính sách quan trọng khác của Nhà nước như: thống kê, điều tra dân số; qui hoạch, bố trí dân cư; tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp; đăng ký nghĩa vụ quân sự; thực hiện bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, trả lương hưu trí; thực hiện ưu tiên tuyển sinh vào các trường đại học, cao đẳng đối với một số đối tượng nhất định thuộc miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng dân tộc thiểu số; giải quyết tình trạng trẻ em lang thang; quản lý vốn cho vay, kể cả vốn cho vay của Quỹ quốc gia giải quyết việc làm; thi hành một số hình phạt và các biện pháp xử lý hành chính tại địa phương; lập, quản lý hồ sơ địa chính; quản lý người nghiện ma túy và cơ sở cai nghiện ma tuý. Mặt khác, trong điều kiện cơ sở vật chất, kỹ thuật, bộ máy quản lý thiếu về nhân lực và yếu về chất lượng, chưa thể đáp ứng yêu cầu quản lý bằng phương pháp mới thì vẫn cần phải duy trì quản lý cư trú bằng hình thức cấp sổ hộ khẩu đối với trường hợp đăng ký thường trú, cấp sổ tạm trú đối với trường hợp đăng ký tạm trú. Việc giữ mô hình quản lý cư trú này với những quy định về trình tự, thủ tục, điều kiện đơn giản, thuận lợi hơn, cùng với việc chấn chỉnh khâu tổ chức thực hiện sẽ góp phần bảo đảm cho công dân thực hiện quyền tự do cư trú, đồng thời vẫn giúp cho công tác quản lý của Nhà nước về cư trú được hiệu quả.

Việc đăng ký tạm trú, lưu trú và khai báo tạm vắng được quy định tại các Điều 30, 31, 32 một cách rõ ràng.

Đăng ký tạm trú, là việc công dân đăng ký nơi tạm trú của mình với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và được cơ quan này làm thủ tục đăng ký tạm trú và cấp sổ tạm trú cho họ. Cụ thể là, người đang sinh sống, làm việc, lao động, học tập tại một địa điểm nào đó của địa phương nhưng không thuộc trường hợp được đăng ký thường trú tại địa phương đó, thì trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày đến phải đăng ký tạm trú tại công an địa phương đó. Người đến đăng ký tạm trú phải xuất trình giấy chứng minh nhân dân, hoặc các giấy tờ hợp lệ khác; giấy chứng minh quyền sở hữu hoặc sử dụng nhà ở; phiếu báo thay đổi hộ khẩu, nhân khẩu. Trường hợp chỗ ở hợp pháp là nhà do thuê, mượn của cá nhân thì phải được chủ nhà đồng ý bằng văn bản. Trong thời hạn 3 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ giấy tờ nói trên, trưởng công an địa phương phải cấp sổ tạm trú theo quy định. Sổ tạm trú có giá trị xác định nơi tạm trú của công dân và không xác định thời hạn. Như vậy, về mặt pháp lý, sổ tạm trú được coi gần giống như sổ hộ khẩu. Tuy nhiên, người đăng ký tạm trú nhưng không sinh sống, làm việc ở đó từ 6 tháng trở lên, sẽ bị xóa tên.

Lưu trú, theo quy định của Luật, là việc công dân ở lại trong một thời gian nhất định tại địa phương ngoài nơi cư trú của mình và không thuộc trường hợp phải đăng ký tạm trú. Khái niệm “tạm trú vãng lai” trước đây được thay bằng khái niệm “lưu trú”. Quy định này nhằm dơn giản hóa thủ tục đối với việc quản lý khách vãng lai. Theo đó, khách vãng lai không phải làm thủ tục đăng ký quá chặt chẽ như đăng ký thường trú, tạm trú, mà chỉ cần thông báo cho công an địa phương là được.

Về khai báo tạm vắng, trước đây, tất cả mọi công dân từ 15 tuổi trở lên có việc phải vắng mặt qua đêm tại chỗ ở đều phải khai báo tạm vắng. Nay chỉ có một số đối tượng mới phải khai báo tạm vắng như: bị can, bị cáo; những người đang bị quản chế; những người trong độ tuổi làm nghĩa vụ quân sự, dự bị động viên...

Với những nội dung tiến bộ của Luật Cư trú và việc ban hành nó vào thời điểm hiện nay đã đáp ứng được đông đảo nguyện vọng của nhân dân từ nhiều năm nay.

XÃ HỘI DÂN SỰ: TỪ KINH ĐIỂN MÁC – LÊ-NIN ĐẾN THỰC TIỄN VIỆT NAM HIỆN NAY


Ở Việt Nam, cho đến nay, mặc dù các văn kiện Đảng và Nhà nước chưa trực tiếp nêu khái niệm “xã hội dân sự” hay “xã hội công dân”, song trên thực tế, ở mức độ nhất định, Đảng và Nhà nước đã bước đầu chú ý đến việc xây dựng các thể chế và cơ sở pháp lý của xã hội dân sự.

Nghiên cứu quan điểm của các nhà kinh điển Mác - Lê-nin về xã hội dân sự có tác dụng thiết thực đối với việc xây dựng cơ sở lý luận nhằm giải đáp những vấn đề thực tiễn xây dựng xã hội dân sự ở Việt Nam.

1. Quan điểm của các nhà kinh điển Mác - Lê-nin về xã hội dân sự

Ở Việt Nam liên quan đến khái niệm “xã hội dân sự” còn có các thuật ngữ “xã hội công dân”, “xã hội thị dân”. Về mặt từ nguyên, khái niệm “civil society”, từ tiếng Anh được dịch sang tiếng Việt, đúng nghĩa là “xã hội dân sự”. Còn thuật ngữ tiếng Việt “xã hội công dân”, nếu được dịch sang tiếng Anh là “citizen society”. Trong các tài liệu khoa học Anh, Mỹ, không thấy dùng thuật ngữ “citizen society” như một khái niệm phổ biến. Mặc dù cách dịch ra tiếng Việt không hoàn toàn giống nhau, nhưng nội hàm của hai khái niệm mà tác giả trình bày trong bài viết này là một.

Ở Việt Nam, thuật ngữ “xã hội công dân” có xuất xứ từ kinh điển Mác - Lê-nin. Trong các tác phẩm của C. Mác và Ph.Ăng-ghen, thuật ngữ “Die bürgerliche Gesellschaft”, tiếng Đức, được hiểu là “xã hội công dân” và có chỗ là “xã hội thị dân”. Quan niệm như vậy có căn nguyên lịch sử.

Ở phương Tây, tư tưởng về xã hội dân sự đã được A-ri-xtốt (384-322 tr.CN) đề cập trong tác phẩm Chính trị, thông qua quan niệm về thành bang hay Nhà nước thành bang hoặc Nhà nước thị dân; (tiếng Hy Lạp là Akropolis). Nhưng việc định nghĩa khái niệm này, có lẽ được thực hiện lần đầu tiên vào đầu thế kỷ XVIII, khi người ta chú thích cho cuốn sách Kinh tế chính trị của A-ri-xtốt(1). Đến năm 1767, A. Fe-gu-son (1723-1861), người Anh, lần đầu tiên trực tiếp bàn về chủ đề xã hội dân sự trong Chuyên khảo về lịch sử xã hội dân sự, xuất bản tại Ê-đin-buốc. Từ đó có nhiều cách thức tiếp cận xã hội dân sự.

C.Mác và Ph.Ăng-ghen, bàn về xã hội dân sự trong những tác phẩm thuộc thời kỳ đầu hình thành chủ nghĩa Mác, cụ thể là trong các tác phẩm phê phán chủ nghĩa duy tâm của Hê-ghen và các quan niệm duy tâm của Pru-đông... về nhà nước, pháp luật, sở hữu... Sau này, các ông ít dùng và đi đến chỗ không sử dụng khái niệm xã hội công dân. Vì thế, tần số xuất hiện của thuật ngữ này trong C.Mác và Ph.Ăng-ghen Toàn tập là không lớn.

V.I.Lê-nin (1870-1924), nhìn chung không sử dụng thuật ngữ xã hội công dân và nhà nước pháp quyền. V.I.Lê-nin cũng như C.Mác và Ph.Ăng-ghen đều cho rằng, việc giải phóng nhân loại cuối cùng, sẽ thủ tiêu những khác biệt giai cấp, và tiếp đó là bãi bỏ việc phân chia giữa xã hội công dân và nhà nước trong “xã hội loài người, hay loài người xã hội hóa” (C.Mác), để tạo nên sự thống nhất giữa tồn tại pháp nhân và tồn tại tư nhân của con người, nhằm phát triển toàn diện con người thông qua các “cộng đồng lao động tự do”.

Hồ Chí Minh cũng không sử dụng thuật ngữ xã hội dân sự. Nhưng các quan điểm của Người về “Nước lấy dân làm gốc”, “Nhà nước dân chủ”, “trăm điều phải lấy thần linh pháp quyền”, “Dân có quyền kiểm soát, giám sát và bãi miễn đại biểu Quốc hội”, “Đảng gắn bó máu thịt với nhân dân” và là một bộ phận của xã hội, đại đoàn kết toàn dân v.v... phản ánh nội dung cơ bản mối quan hệ giữa Nhà nước pháp quyền và xã hội dân sự.

Ngày nay, việc kế thừa, vận dụng, phát triển sáng tạo quan điểm của kinh điển Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và di sản tư tưởng dân tộc (tự quản làng, xã), và quan điểm tiến bộ của thế giới đương đại, sẽ hình thành được cơ sở lý luận để giải đáp những vấn đề thực tiễn xây dựng xã hội dân sự ở nước ta.

2. Một số vấn đề xây dựng xã hội dân sự ở nước ta hiện nay

Trong điều kiện xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, các tổ chức xã hội và cơ sở pháp lý của xã hội dân sự đã từng bước được thiết lập, kể cả việc khôi phục truyền thống tự quản của làng như hương ước, và các loại quỹ, hội tương thân tương ái. Hiện nay có 6 loại tổ chức xã hội đăng ký chính thức để hoạt động đó là:

- Các tổ chức chính trị - xã hội: gồm 5 tổ chức quần chúng: công đoàn, nông dân, phụ nữ, thanh niên, cựu chiến binh với hơn 31 triệu hội viên và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với 29 tổ chức thành viên.

- Các hiệp hội nghề nghiệp - xã hội trung ương: Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam (VUSTA), Liên hiệp Văn học và nghệ thuật Việt Nam (VWAA) và Liên hiệp các Hiệp hội Hoà bình, Hữu nghị và Đoàn kết Việt Nam (VUFO), Hội Chữ thập đỏ, Hội người cao tuổi, Hội kinh doanh v.v... gồm hàng trăm hội thành viên với hàng chục triệu hội viên.

- Các hiệp hội địa phương chỉ hoạt động trong một địa phương: năm 2005, có khoảng 2150 hội với hàng triệu hội viên.

- Các hiệp hội nghiên cứu và phát triển khoa học, công nghệ, bảo tồn di sản văn hoá truyền thống và môi trường thiên nhiên gồm hơn trăm tổ chức với hàng chục nghìn thành viên.

- Các tổ chức dân lập, tự quản gồm hàng chục nghìn quỹ, hội tín dụng, tiết kiệm, hỗ trợ người nghèo, tàn tật..., và các tổ, đội, câu lạc bộ văn hoá - nghệ thuật, thể dục - thể thao v.v... với sự tham gia của hàng triệu người.

- Các tổ chức tôn giáo, tín ngưỡng (Đạo Phật, Thiên Chúa giáo, Tin Lành, Hoà Hảo, Cao Đài) với khoảng 18 triệu tín đồ.

Ngoài ra, ở Việt Nam còn có nhiều tổ chức không đăng ký chính thức, như tổ chức tín ngưỡng mê tín dị đoan, xã hội đen v.v...

Tại Việt Nam cũng có 530 tổ chức phi chính phủ (NGO) của các nước đang hoạt động. Các tổ chức này hiện có 150 văn phòng trên cả nước, và thu hút sự tham gia của nhiều tổ chức và công dân Việt Nam(2).

Cho đến nay, trong tổng số 84 triệu dân, ước tính có khoảng 60 triệu người tham gia từ một đến nhiều tổ chức xã hội. Các tổ chức xã hội (cả chính thức và không chính thức) tạo thành lực lượng xã hội dân sự thực sự rộng lớn.

Trước tình hình ấy, Đảng và Nhà nước đã chú ý xây dựng cơ sở pháp lý để lãnh đạo và quản lý các tổ chức xã hội như: Luật Hợp tác xã mới (được ban hành năm 1996 và sửa đổi năm 2001 các Nghị định 29/CP và 79/CP, về quy chế dân chủ ở cơ sở và doanh nghiệp trong năm 1998 và đầu năm 1999; sửa đổi Bộ luật dân sự vào năm 2005, ban hành Luật về Khoa học và Công nghệ vào năm 2000, và một số quy chế hoạt động của các tổ chức nghề nghiệp, quỹ xã hội, từ thiện v.v...

Từ thực tế trên đây, đặc biệt trong quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội X của Đảng (4-2006) đang phát sinh các yêu cầu thực tiễn - lý luận sau đây về xây dựng xã hội dân sự:

Thứ nhất, nghiên cứu xây dựng cơ chế xã hội để kiểm tra, giám sát tham nhũng, lãng phí, kinh tế ngầm nhằm thực hiện đồng bộ, kiên quyết các giải pháp phòng chống tham nhũng, lãng phí trong bộ máy nhà nước, từng bước xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Nguyên nhân của tình trạng tham nhũng, lãng phí ở Việt Nam không đơn thuần chỉ là vấn đề suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống, mà cơ bản do vấn đề cấu trúc của cơ chế hoặc thể chế quản lý nhà nước và xã hội chưa hoàn thiện. Cho nên, cùng với việc thực hiện nghiêm minh luật pháp của Nhà nước và triển khai có hiệu quả hoạt động của Ban chỉ đạo phòng chống tham nhũng ở Trung ương, thì việc xây dựng và thực hiện cơ chế kiểm tra, giám sát của nhân dân trên cơ sở thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở đóng vai trò rất quan trọng.

Thứ hai, nghiên cứu “xây dựng, hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong các hoạt động và quyết định của các cơ quan công quyền”(3), để thúc đẩy quá trình tiếp tục xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đồng thời xây dựng mối quan hệ phân công, phối hợp giữa nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và xã hội dân sự ở nước ta trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật.

Cho đến nay, chúng ta đã bước đầu xây dựng được khung pháp lý để Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật; nhưng lại chưa xây dựng, phát triển được các thể chế luật pháp và xã hội, để bảo đảm cho các tầng lớp nhân dân và các cơ quan công quyền cùng thực hiện nghiêm minh pháp luật. Do đó, năng lực cũng như cơ chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong hoạt động và quyết định của các cơ quan công quyền còn yếu kém và còn tồn tại không ít khoảng trống. Chính vì vậy, việc xây dựng cơ chế kiểm tra, giám sát của người dân đối với các cơ quan nhà nước là hết sức cần thiết. Đây cũng là một yêu cầu hết sức quan trọng, nhằm nâng cao năng lực thực hành dân chủ, thu hút người dân tham gia vào công việc chung của Nhà nước và xã hội.

Việt Nam có truyền thống luôn giữ vững và bảo đảm vị trí, vai trò của một Nhà nước mạnh đồng thời duy trì sự tự quản của làng (xã). Ngày nay cần phải phát huy truyền thống này, để xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mạnh; đồng thời, xây dựng xã hội dân sự lành mạnh, có khả năng kiểm tra, giám sát, phối hợp với Nhà nước trong việc thực hiện dân chủ, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.

Thứ ba, cần tiến hành nghiên cứu việc phát triển và “phát huy sự đa dạng về tổ chức và đổi mới phương thức hoạt động của các tổ chức đoàn thể, các tổ chức phi chính phủ... khắc phục tình trạng hành chính hoá các tổ chức quần chúng; phát triển nhiều hình thức tự quản của dân hoạt động theo pháp luật”(4), để thúc đẩy xã hội hoá các cá nhân và xã hội các hoạt động xã hội, văn hoá, nhằm bồi dưỡng, phát triển các nguồn lực và tiềm lực xã hội - văn hoá cho mối quan hệ hài hoà giữa các lĩnh vực của đời sống xã hội.

Để mở rộng và thực thi dân chủ, đặc biệt dân chủ trực tiếp ở cơ sở, củng cố, bảo vệ lợi ích cộng đồng; phản biện, giám sát và phối hợp với Nhà nước trong việc bảo đảm và cân bằng dân chủ trong các lĩnh vực chính trị - xã hội, đòi hỏi phải đa dạng hoá các hình thức dân chủ thông qua việc đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của các tổ chức đoàn thể. Trong công cuộc đổi mới, quá trình dân chủ hoá kinh tế, xã hội đã đạt được bước tiến quan trọng, song dân chủ vẫn còn hình thức, các tổ chức chính trị - xã hội, chính trị - xã hội - nghề nghiệp v.v.. hoạt động chưa hiệu quả và nhiều khi mang tính hành chính, chưa đi vào thực chất. Không ít tổ chức dân lập, tự quản phát triển tự phát...

Vì thế, khi nghiên cứu xây dựng hệ thống thể chế, tổ chức đa dạng của xã hội dân sự không thể không xử lý vấn đề này. Đồng thời, cần nghiên cứu nhằm hướng các tổ chức, thể chế dân sự vào quá trình bồi dưỡng văn hoá dân chủ, thực hành dân chủ, đặc biệt dân chủ trực tiếp ở cơ sở. Song việc bồi dưỡng văn hoá dân chủ chỉ thu được kết quả khi có nguồn lực, tiềm lực xã hội - văn hoá đóng vai trò là nền tảng và môi trường của dân chủ. Thành thử phải thúc đẩy xã hội hoá các cá nhân một cách lành mạnh, nhằm xây dựng ý thức và lối sống công dân, củng cố, bảo vệ quyền con người và lợi ích cộng đồng. Về nguyên tắc, việc thúc đẩy xã hội hoá cá nhân, luôn gắn liền với việc thúc đẩy xã hội hoá các hoạt động xã hội, văn hoá. Bởi lẽ, cơ sở và môi trường để thúc đẩy xã hội hoá cá nhân một cách lành mạnh là thúc đẩy xã hội hoá các hoạt động xã hội, văn hoá. Thông qua đó, sẽ lôi cuốn các cá nhân và tập thể tham gia vào các hoạt động xã hội, văn hoá bằng nhiều hình thức khác nhau (sáng kiến, công sức, tiền của v.v...).

Thứ tư, cần tiến hành nghiên cứu xây dựng hệ thống giám sát, phản biện xã hội trong điều kiện một Đảng Cộng sản cầm quyền và thể chế Đảng lãnh đạo đối với xã hội dân sự.

Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế đã, đang thúc đẩy sự hình thành, phát triển nhiều ý kiến, thậm chí luồng tư tưởng khác nhau trong xã hội về vai trò của các tổ chức dân sự trong mối quan hệ với Đảng Cộng sản và Nhà nước pháp quyền. Vấn đề đặt ra là phải nghiên cứu cơ chế điều tiết và định hướng được các ý kiến, luồng tư tưởng khác nhau trong xã hội thành hệ thống giám sát trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Trên cơ sở đó, xây dựng cơ chế phản biện xã hội đối với đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, nhằm đảm bảo thực hiện thắng lợi mục tiêu của công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Việc thực hiện cơ chế phản biện này là cơ sở để nghiên cứu xây dựng thực hiện thể chế Đảng lãnh đạo đối với xã hội dân sự, mà mấu chốt là thể chế hoá cách thức hoạt động độc lập của các hiệp hội, và thể chế hoá các quan hệ phân công, phối hợp công tác giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với bộ máy tổ chức Đảng, Nhà nước.

Những vấn đề đặt ra từ thực tiễn triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội X của Đảng phản ánh nhận thức lý luận của chúng ta về xã hội dân sự còn bất cập, yếu kém. Vì thế cần tiếp tục làm rõ những vấn đề sau:

- Nhận thức về khái niệm, đặc điểm, vai trò của xã hội dân sự trong mối quan hệ với gia đình, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, kiến trúc thượng tầng tư tưởng và một Đảng Cộng sản cầm quyền.

- Nhận thức lại, vận dụng, phát triển sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác về xã hội dân sự, có chú ý kế thừa tư tưởng truyền thống dân tộc về tự quản và tham khảo quan điểm tiến bộ của nhân loại, về xã hội dân sự.

- Nhận thức vận dụng, phát triển sáng tạo kinh nghiệm và không lặp lại bài học thất bại khi xây dựng xã hội dân sự của một số nước trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trường.

Kinh nghiệm của Trung Quốc trong việc tiếp tục xây dựng các “tổ chức trung gian”, tức các tổ chức xã hội, nhằm xây dựng xã hội hài hoà - có thể là một kinh nghiệm tốt đối với Việt Nam trong quá trình xây dựng xã hội dân sự. Bài học “đa nguyên, đa đảng”, đến mức “xã hội dân sự”, đặc biệt là việc các tổ chức phi chính phủ chi phối quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền còn non yếu bằng thực tế và nguy cơ các cuộc “cách mạng sắc mầu” tại các nước SNG - luôn luôn cảnh tỉnh chúng ta phải xây dựng mối quan hệ phân công, hợp tác giữa Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và xã hội dân sự trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật.

Để kết luận có thể quan niệm: Xã hội dân sự là lĩnh vực thuộc đời sống xã hội; bao gồm các tổ chức đoàn thể, hiệp hội với quy chế dân lập, hoạt động tự quản trên cơ sở Hiến pháp và pháp luật, để phản biện, giám sát và phối hợp với Nhà nước, nhằm đảm bảo và thực hiện dân chủ, quyền con người, lợi ích cộng đồng và bồi dưỡng cơ sở xã hội - văn hoá cho công cuộc đổi mới đất nước, trong mối quan hệ hài hoà với các lĩnh vực khác của đời sống xã hội.

Xã hội dân sự nước ta được xây dựng tương ứng với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cùng với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xã hội dân sự là cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và sự cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam cùng toàn bộ kiến trúc thượng tầng tư tưởng. Nó không phải là xã hội của những cá nhân vị kỷ, nô lệ cho kinh tế thị trường, cho nhu cầu hám lợi của mình và của người khác. Nó là xã hội của những cá nhân tự chủ, giàu tính người, gồm những tổ chức và quy chế dân lập, hoạt động độc lập, tự quản trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật nhằm thực hành dân chủ, củng cố và bảo vệ quyền con người, lợi ích cộng đồng; phản biện, giám sát, phối hợp với Nhà nước trong việc bảo đảm và cân bằng dân chủ; thực hiện đại đoàn kết toàn dân và là cơ sở xã hội - văn hoá cho sự cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam và sự hài hoà của đời sống xã hội.


(1) Xem Đôminie: Xã hội công dân, trong Từ điển tư duy mới, Nxb. Tiến bộ, M. 1989.
(2)
Thư mục các tổ chức phi chính phủ quốc tế tại Việt Nam 2004-2005, Trung tâm nguồn lực VUFO - NGO, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004.
(3)
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 126.
(4) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Sđd, tr. 255.

*********************************************************************************************************

Nguyễn Thanh Tuấn

PGS, TS. Viện phó Viện Kinh điển Mác - Lê-nin

TẠP CHÍ CỘNG SẢN SỐ 12 (132) NĂM 2007



LUẬT CƯ TRÚ VÀ THỊ TRƯỜNG BẤT ĐỘNG SẢN VIỆT NAM

Việc mở rộng các đối tượng và trường hợp được đăng ký hộ khẩu thường trú, được phép đứng tên chủ sở hữu các bất động sản đắt giá, người dân và các nhà đầu tư trên cả nước sẽ có thêm cơ hội và động lực, cũng như sự bảo hộ của pháp luật để thực hiện các hợp đồng mua – bán, chuyển nhượng nhà đất một cách hợp pháp trên cả nước. Vậy, Luật Cư trú sẽ tác động như thế nào đối với thị trường bất động sản trong thời gian tới...?

Luật Cư trú đã được Quốc hội Khóa XI, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 29-11-2006 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01-07-2007. Chính phủ cũng đã có Nghị định số 107/2007/NĐ-CP, ngày 25-06-2007, quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Cư trú. Và, theo ước tính ban đầu của Bộ Công an, ít nhất có khoảng 2 triệu người dân trên cả nước, mà đông nhất là ở Thành phố Hồ Chí Minh và Thành phố Hà Nội sẽ đủ tiêu chuẩn đăng ký hộ khẩu thường trú tại nơi sinh sống ổn định lâu nay của mình, thoát được cảnh “hộ khẩu treo”- người ở một tỉnh, đăng ký hộ khẩu ở tỉnh khác (mà đã và đang kéo theo nó là những hệ lụy về một loạt vấn đề như: đăng ký xe máy, xin học, khám chữa bệnh, nhà ở…). Vậy, liệu Luật Cư trú hết sức thông thoáng và nhân văn này sẽ tác động như thế nào đối với tình hình thị trường bất động sản nước ta trong thời gian tới...?

Cả về lý thuyết, lẫn cảm nhận thực tiễn, có thể dự báo sự tác động của Luật Cư trú đang và sẽ diễn ra theo các khía cạnh nổi bật sau đây:

Thứ nhất, Luật Cư trú sẽ góp phần làm minh bạch và lành mạnh hóa thị trường bất động sản.

Tác động nổi bật, chủ đạo và tích cực nhất của Luật Cư trú là việc “trả lại tên cho em” – tức là đưa các bất động sản trở về mang tên người chủ đích thực của mình. Kể từ nay, tất cả những người dân nào đã sinh sống từ 1 năm trở lên, có việc làm ổn định và đã có nhà ở thì được phép đăng ký hộ khẩu thường trú, và do đó, được chính thức đăng ký chính danh chủ sở hữu các bất động sản mà mình thực có trên thực tế, ở địa phương đó (mà trước đây, chúng phải ẩn danh dưới tên người khác đã có hộ khẩu thường trú).

Khi các chủ sở hữu bất động sản được công khai và đứng tên hợp pháp các bất động sản thì cũng tức là những khoảng tối tương ứng về chủ sở hữu bất động sản sẽ được xóa đi, tình trạng “đi đêm” với các hiện tượng tiêu cực như: lừa đảo, gian dối, trốn thuế và tội phạm, cũng như những tiêu cực khác trong mua bán, giao dịch bất động sản sẽ được thu hẹp và do đó, sự minh bạch và lành mạnh hóa của thị trường bất động sản sẽ được cải thiện một bước đáng kể.

Thứ hai, Luật Cư trú sẽ góp phần hâm nóng và duy trì nhiệt cho thị trường bất động sản.

Điều 5, Nghị định 107/2007/NĐ-CP, ngày 26-06-2007 nêu rõ: Những giấy tờ chứng minh chỗ ở hợp pháp để đăng ký thường trú là một trong các giấy tờ sau đây:

- Giấy tờ chứng minh chỗ ở hợp pháp thuộc quyền sở hữu của công dân là một trong các giấy tờ sau:

§ Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở hoặc giấy tờ về quyền sở hữu nhà ở do cơ quan có thẩm quyền cấp qua các thời kỳ;

§ Giấy tờ về quyền sử dụng đất ở theo quy định của pháp luật về đất đai (đã có nhà ở trên đất đó);

§ Giấy phép xây dựng theo quy định của pháp luật về xây dựng (đối với trường hợp phải cấp giấy phép);

§ Hợp đồng mua bán nhà ở thuộc sở hữu nhà nước, hoặc giấy tờ về hóa giá thanh lý nhà ở thuộc sở hữu nhà nước;

§ Hợp đồng mua nhà ở hoặc giấy chứng minh việc đã bàn giao nhà ở, đã nhận nhà ở của doanh nghiệp có chức năng kinh doanh nhà ở đầu tư xây dựng để bán;

§ Giấy tờ về mua, bán, tặng, cho, đổi, nhận thừa kế nhà ở có công chứng hoặc chứng thực của Ủy ban Nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi tắt là Ủy ban Nhân dân cấp xã);

§ Giấy tờ về trao tặng nhà tình nghĩa, nhà tình thương, nhà đại đoàn kết, cấp nhà ở, đất ở cho cá nhân, hộ gia đình di dân theo kế hoạch của nhà nước, hoặc các đối tượng khác;

§ Giấy tờ của tòa án hoặc cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền giải quyết cho được sở hữu nhà ở đã có hiệu lực pháp luật;

§ Giấy tờ có xác nhận của Ủy ban Nhân dân cấp xã về nhà ở, đất ở không có tranh chấp quyền sở hữu nhà ở, quyền sử dụng đất ở nếu không có một trong các giấy tờ nêu trên;

§ Giấy tờ chứng minh về đăng ký tàu, thuyền, phương tiện khác thuộc quyền sở hữu và địa chỉ bến gốc của phương tiện sử dụng để ở. Trường hợp không có giấy đăng ký thì cần có xác nhận của Ủy ban Nhân dân cấp xã về việc có tàu, thuyền, phương tiện khác sử dụng để ở thuộc quyền sở hữu hoặc xác nhận việc mua bán, tặng, cho, đổi, thừa kế tàu, thuyền, phương tiện khác và địa chỉ bến gốc của phương tiện đó.

- Giấy tờ chứng minh việc cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ chỗ ở hợp pháp là các loại hợp đồng, cam kết cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ nhà ở, nhà khác của cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân (trường hợp hợp đồng, cam kết cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ nhà của cá nhân phải có công chứng hoặc xác nhận của UBND cấp xã);

- Giấy tờ của cơ quan, tổ chức, cơ sở tôn giáo về việc công dân có chỗ ở thuộc trường hợp quy định tại điểm C, điểm D, khoản 1, Điều 26 của Luật Cư trú.

- Giấy tờ của cơ quan, tổ chức do Thủ trưởng cơ quan, tổ chức ký tên, đóng dấu chứng minh về việc được cấp, sử dụng nhà ở, chuyển nhượng nhà ở, có nhà ở tạo lập trên đất do cơ quan, tổ chức giao đất để làm nhà ở (đối với nhà ở, đất thuộc thẩm quyền quản lý của cơ quan, tổ chức), hoặc xác nhận của Ủy ban Nhân dân cấp xã là nhà ở đó không có tranh chấp về quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng.

Như vậy, với sự mở rộng các đối tượng và trường hợp được đăng ký hộ khẩu thường trú nêu trên, nhất là do được phép đứng tên chủ sở hữu các bất động sản đắt giá, người dân và các nhà đầu tư trên cả nước, kể cả các nhà đầu tư tiềm năng là người Việt Nam định cư ở nước ngoài nhưng vẫn còn giữ được quốc tịch Việt Nam, sẽ có thêm cơ hội và động lực, cũng như sự bảo hộ của pháp luật để thực hiện các hợp đồng mua – bán, chuyển nhượng nhà đất một cách đàng hoàng, “danh chính ngôn thuận”, hợp pháp tại bất kỳ địa phương nào trên cả nước mà họ có nhu cầu đầu tư, đăng ký sở hữu bất động sản, nhất là ở các thành phố lớn (tất nhiên trừ một số trường hợp không được phép hoặc hạn chế theo quy định của Luật Cư trú). Điều này là hiện thực, vì để có một việc làm ổn định và đăng ký tạm trú trong 1 năm như là điều kiện ban đầu cho việc đăng ký hộ khẩu, thì không là quá khó đối với bất kỳ cá nhân nào, dù là ở Thủ đô Hà Nội hay Thành phố Hồ Chí Minh (thậm chí, không loại trừ khả năng, chỉ bằng một hợp đồng danh nghĩa của một công ty trách nhiệm hữu hạn bất kỳ cũng có thể lách được qua điều kiện này). Khi đó, một nhà đầu tư bất động sản sẽ đủ điều kiện để xin đứng tên ngôi nhà hay bất động sản mà mình đã hoặc sẽ đầu tư.

Như vậy, dù muốn hay không, Luật Cư trú đang và sẽ trực tiếp tạo thuận lợi cho việc gia tăng dòng dân di cư vào đô thị hoặc hợp thức hóa những người dân đã sinh sống ổn định ở đây, và do đó, gián tiếp thúc đẩy các hoạt động đầu tư, mua bán, chuyển nhượng và các giao dịch bất động sản khác, tức góp phần hâm nóng và duy trì nhiệt cho thị trường bất động sản vốn trầm lắng mấy năm nay, nhất là thị trường nhà ở hạng trung tại các đô thị lớn, như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh…

Thứ ba, Luật Cư trú góp phần vào việc quản lý quy hoạch, quản lý đất đai và thị trường bất động sản theo mục tiêu quản lý nhà nước định ra.

Điều 4 của Nghị định 107/2007/NĐ-CP, ngày 25-06-2007, quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Cư trú đã xác định rõ: không đăng ký thường trú khi công dân chuyển đến chỗ ở mới thuộc một trong các trường hợp sau đây:

- Chỗ ở nằm trong địa điểm cấm, khu vực cấm xây dựng hoặc lấn chiếm mốc giới bảo vệ công trình hạ tầng kỹ thuật, di tích lịch sử, văn hóa đã được xếp hạng;

- Chỗ ở mà toàn bộ diện tích nhà ở nằm trên đất lấn chiếm trái phép;

- Chỗ ở đã có quyết định thu hồi đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và chỗ ở là nhà ở mà một phần hoặc toàn bộ diện tích đang có tranh chấp, khiếu nại liên quan đến quyền sở hữu, sử dụng nhưng chưa được giải quyết theo quy định của pháp luật (trừ trường hợp những người có quan hệ là ông, bà nội, ngoại, cha, mẹ, vợ, chồng, con chuyển đến ở với nhau);

- Chỗ ở bị kê biên, tịch thu để thi hành án, trưng mua theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền;

- Chỗ ở là nhà ở đã có quyết định phá dỡ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Như vậy, các quy định trên đã trực tiếp từ chối, ngăn chặn các vụ đăng ký hộ khẩu thường trú liên quan đến mua bán, chuyển nhượng và các giao dịch bất động sản khác có vi phạm các quy định về quy hoạch, di dời, phá dỡ hoặc thu hồi bất động sản của nhà nước, từ đó trực tiếp góp phần vào tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với thị trường bất động sản, cũng như góp phần ngăn chặn các hệ lụy tiêu cực xã hội khác từ các vi phạm này. Hơn nữa, điều này cũng đồng nghĩa và cộng hưởng với tác dụng làm tăng tính minh bạch và lành mạnh hóa thị trường bất động sản đã nêu trên.

Thứ tư, bên cạnh những tác động tích cực trên, Luật Cư trú sẽ có thể làm phát sinh một số tình huống phức tạp mới về tranh chấp bất động sản cho thuê, mượn…

Luật Cư trú đã quy định đối với các nhà cho thuê, mượn, ở nhờ thuộc sở hữu tư nhân, thì người ở nhờ, thuê, mượn… muốn đăng ký hộ khẩu thường trú tại các nhà ở nêu trên phải có giấy xác nhận đồng ý của chủ sở hữu; còn đối với nhà thuộc quyền sở hữu nhà nước thì không cần giấy xác nhận này. Tuy nhiên, Luật Cư trú và cả Nghị định hướng dẫn cũng chưa có những quy định chi tiết và cụ thể nhằm ngăn chặn các tình huống lạm dụng hoặc gian dối trong khi xử lý những hiện tượng này. Cụ thể, có thể sẽ xuất hiện tình huống “lạm phát” số hộ đăng ký hộ khẩu thường trú vào cùng một địa chỉ là nhà ở thuê, mượn, ở nhờ của Nhà nước. Thậm chí, có thể sẽ xuất hiện cả hiện tượng làm giả giấy tờ xác nhận của chủ nhà để đăng ký thường trú vào nhà ở thuê, mượn thuộc sở hữu tư nhân… Khi đó, nếu các quy định luật pháp khác có liên quan đến hợp đồng thuê, mượn, ở nhờ nhà và bất động sản khác không chặt chẽ và không có tính pháp chế cao, thì dễ nảy sinh các khiếu kiện rất phức tạp về đòi nhà hoặc tranh chấp quyền sử dụng, thậm chí quyền sở hữu đối với các bất động sản này. Thực tiễn này đã từng diễn ra khá phổ biến trong quá khứ và di hại vẫn còn kéo dài đến ngày nay…

Như vậy, về tổng thể, có thể dự cảm thấy sự tác động cả hai chiều, trong đó tác động tích cực sẽ nhiều và mạnh hơn tác động tiêu cực của Luật Cư trú đến động thái thị trường bất động sản Việt Nam hiện tại và tới đây. Luật Cư trú đang và sẽ trở thành một động lực mới góp phần trực tiếp và gián tiếp, trước mắt và lâu dài làm gia tăng tinh thần cởi mở, cải thiện môi trường đầu tư, môi trường xã hội và quyền lợi của người dân nói chung, thúc đẩy sự phát triển thị trường bất động sản Việt Nam nói riêng trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế.

******************************************************

NGUYỄN MINH

TẠP CHÍ CỘNG SẢN SỐ 14 (134) NĂM 2007

Bài đăng phổ biến