Trương Phương Bắc
Từ cuối tháng 5/2007 dư luận cả nước, từ các nhà sản xuất đến quản lí nhà nước, đang xôn xao về chất lượng sản phẩm hàng hoá (CLHH) với chất 3-MCPD trong nước tương (3-MCPD là tên viết tắt của chất thuộc nhóm cloropropanol, có cấu tạo phân tử 3-cloro-1,2- propandiol, theo EU chất này có thể gây ung thư ở hàm lượng 0,02mg/l). Dư luận bung ra lần này lại từ những thông tin rất cũ!
Sự thật bị bưng bít như thế nào?
Trước năm 2005 cũng đã có những cảnh báo về chất độc 3-MCPD trong nước tương (nước chấm) được sản xuất từ khô đậu đỗ. Năm 2005 khi có thông tin từ Bỉ về chất 3-MCPD trong nước tương Chin-su thì nhà sản xuất đã có thái độ không bình thường: phủ nhận kết quả kiểm tra của Bỉ (tung tin mẫu có thể là hàng giả), giải thích về sự thách thức của các tiêu chuẩn về chất lượng (quy định về chất 3-MCPD ở mức không nhiều hơn: của EU, Ôxtraylia, New Zealand là 0,02, Việt Nam và Hoa Kì là 1mg/l, trong khi mẫu kiểm tra ở Bỉ là 86mg/l), công bố sản phẩm của cơ sở là “sạch” và vẫn đạt Hàng Việt Nam chất lượng cao.
Lúc đó cơ quan quản lí nhà nước về vệ sinh an toàn thực phẩm (ATVSTP) là Bộ Y tế, trực tiếp trong vụ việc là Sở Y tế TP. Hồ Chí Minh đã lấy mẫu kiểm tra. Mẫu được kiểm tra do Sở Y tế TP HCM và cả ở cơ quan chuyên môn thuộc Bộ Y tế. Qua kiểm nghiệm thấy có đến 20 cơ sở năm 2005 và 17 cơ sở trong 5 tháng đầu năm 2007 có mẫu không đạt: chất độc hại 3-MCPD đều vượt ngưỡng cho phép, thậm chí gấp hàng nghìn lần. Nhưng kết quả đã không được công bố chi tiết mà chỉ tung ra một nhận xét chung chung là có một số loại nước tương có chứa chất độc gây ung thư là 3-MCPD với hàm lượng rất cao.
Người tiêu dùng không thể an tâm, dư luận không thể chịu được với lối thông tin nửa vời! Không thấy doanh nghiệp nào có hoạt động cải tiến trong sản xuất nhằm giảm thiểu 3-MCPD! Sản phẩm nào có chứa độc hại để người tiêu dùng không sử dụng! Khi bị áp lực quá mạnh, từ giới tiêu dùng, dư luận báo chí đến cơ quan cấp trên, Thanh tra Sở Y tế Thành phố Hồ Chí Minh buộc lòng không thể giấu mãi đành phải công bố danh tính các doanh nghiệp có sản phẩm chứa chất độc hại sau 2 năm (thậm chí 6 năm) ém nhẹm thông tin. Bây giờ biết sự thật, bao nhiêu người và mỗi người đã đưa vào cơ thể bao nhiêu gam chất độc gây ung thư là 3-MCPD qua sử dụng nước tương? Dư luận và người tiêu dùng đang đặt bút tính, chưa biết tác hại sẽ đến mức thế nào? Bộ Y tế, UBND Thành phố HCM đã vào cuộc để xử lý vụ che dấu thông tin chất lượng sản phẩm này.Doanh nghiệp phải chủ động và trung thực về chất lượng hàng hoá
Thông tin thiếu chi tiết tưởng là vô hại nhưng đã bị lợi dụng: một công ty đã có ngay hành động có thể coi là lừa đảo bằng việc ngày từ ngày 08/9/2005 đã tổ chức “Lễ công bố sản phẩm nước tương sạch”! Tại buổi lễ họ công bố có công nghệ sản xuất nước tương sạch và sẵn sàng chuyển giao công nghệ. Trong khi sản phẩm của họ, mà chất lượng đang được bưng bít, có hàm lượng độc chất vượt quy định đến... hơn 2300 lần! Các doanh nghiệp khác có sản phẩm vi phạm cũng không hề có hành động khắc phục. Đến nay khi sự bưng bít kết quả kiểm tra chất lượng bị đưa ra ánh sáng, các doanh nghiệp đã phải nhận trách nhiệm của mình. Ban đầu là các doanh nghiệp phải công khai xin lỗi khách hàng, phải tiến hành việc thu hồi sản phẩm, phải vội vàng cải tiến công nghệ để có sản phẩm sạch đích thực. Nhưng dư luận người tiêu dùng đang tính đến đòi bồi thường, và biết đâu có chứng cứ trong mấy năm qua đã có người bị bệnh do dùng nước tương có chất độc chết người kia? Thiệt hại khôn lường còn đang ở phía trước!
Người ta nói: không thể lừa dối mọi người mãi mãi! Lẽ ra khi được phản hồi từ thị trường thì việc đầu tiên của nhà sản xuất là tiếp cận thị trường, đánh giá thực tế, có biện pháp khắc phục kịp thời...
Nhưng cơ sở đã không làm theo chân lí đó mà lại chọn kiểu liên minh ma quỷ, hành vi tiếp tục dựa trên sự thiếu trung thực. Thậm chí họ vẫn chạy tham gia để có danh hiệu Hàng Việt Nam chất lượng cao...! Cuối cùng hệ lụy đến nay phải nói chính xác là các doanh nghiệp đã có triệu chứng vi phạm điều 157 về sản xuất hàng giả là thực phẩm của Bộ Luật hình sự!
Nguyên tắc đầu tiên trong tư duy mới về quản lí chất lượng là hướng tới khách hàng đã bị các doanh nghiệp bỏ qua, để giữ tư duy cũ bảo vệ mình bằng tập tài liệu “đầy đủ hồ sơ pháp lí đã được duyệt” (có cả sự quan liêu). Tư duy trách nhiệm về CLHH hiện nay rất rõ ràng: “hồ sơ pháp lí về CLHH” có khi chỉ sử dụng cho doanh nghiệp và cơ quan chức năng giám sát sản xuất kinh doanh, còn người tiêu dùng chỉ trên hàng hoá cụ thể!
Quản lý Nhà nước phải minh bạch, công khai!
Đáng lẽ, với chức năng quản lí nhà nước, các đơn vị chức năng thuộc Bộ Y tế và Sở Y tế TP HCM phải thông báo, xử lí vi phạm, khuyến cáo người tiêu dùng... thì họ lại làm ngược lại: ém nhẹm thông tin (hoặc theo nghĩa chờ ý kiến chỉ đạo của Bộ), mặc nhà sản xuất cứ tuôn sản phẩm chứa chất độc ra thị trường và mặc người tiêu dùng cứ “tự chọn”!?
Giải thích cho việc che dấu thông tin về việc phát hiện ra nhiều doanh nghiệp có sản phẩm chứa chất độc hại 3-MCPD, Sở Y tế đã nêu lí do là không tin chắc ở kết quả kiểm nghiệm. Còn cơ sở kiểm nghiệm thuộc Bộ thì lại chờ ý kiến chỉ đạo của Bộ thì mới công bố!? Lí do này không xác thực và cũng là một “bệnh” của ngành y tế Việt Nam. Có trang web viết rằng ở Việt Nam các bác sỹ điều trị nhiều khi không tôn trọng kết quả xét nghiệm (hoá học, X-quang...). Còn ở đây họ không tin kết quả của cơ sở kiểm nghiệm chuyên nghiệp. Nhưng nếu có nghi vấn thì lẽ ra phải tuân thủ quy trình là yêu cầu làm lại, hoặc bổ sung số liệu của cơ sở khác (thậm chí nước ngoài) thì cơ quan chức năng thuộc Bộ và Sở Y tế TP HCM lại chọn phương pháp im lặng (?); để đến bây giờ ...
Trong điều kiện này, chỉ cần im lặng không công bố vi phạm về chất độc chết người trong sản phẩm thì đã là vàng với cơ sở sản xuất rồi! Vì thế có cơ sở để dư luận nghi ngờ: Liệu có thể tin cơ quan y tế “im lặng” là do không tin ở kết quả kiểm nghiệm, chứ hoàn toàn không có tiêu cực? Việc làm này của cơ quan chức năng thuộc Bộ và Sở Y tế TP HCM rất có thể đã vi phạm các điều 165 và 286 về thiếu trách nhiệm trong công tác quản lí theo Luật Hình sự.
Sự kiện này là bài học cho cơ quan quản lí nhà nước phải thực hiện công khai, minh bạch trong hoạt động của mình. Số liệu kiểm tra chất lượng phải do cơ sở thử nghiệm chịu trách nhiệm trước pháp luật. Cơ quan quản lí nhà nước phải công bố để người sản xuất và người tiêu dùng biết và tự chủ xử lí vụ việc theo nhu cầu cụ thể. Cơ quan quản lí và doanh nghiệp bình đẳng trước pháp luật về đánh giá và xử lí theo mức độ vi phạm. Vì vậy công khai và minh bạch là chìa khoá cho bình đẳng và nghiêm túc trước pháp luật!
Một bài học nữa là năng lực đánh giá chất lượng hàng hoá. Hiện nay hệ thống các phòng thử nghiệm ở Việt Nam cơ bản đã được hình thành từ thời bao cấp. Đó là mỗi ngành có một phòng thử nghiệm (quen gọi là labo, phòng phân tích, trung tâm kiểm nghiệm...) đáp ứng chỉ một phần yêu cầu quản lí của ngành. ở một tỉnh thường thì các Sở Y tế, Nông nghiệp, Xây dựng, Khoa học và công nghệ, Tài nguyên và môi trường... mỗi ngành có phòng thử nghiệm riêng. Các phòng này có trang bị tương đối giống nhau phần cơ bản và nói chung đều không đáp ứng đủ nhu cầu quản lí của ngành nên những đánh giá đầy đủ lại phải mang đến các phòng thử nghiệm ở Trung ương.
Rõ ràng hệ thống các phòng thử nghiệm của chúng ta đã bị lạc hậu, chưa được nhà nước đánh giá đúng yêu cầu và năng lực phục vụ kinh tế xã hội thời hội nhập. Quy hoạch các phòng thử nghiệm quốc gia do Bộ Khoa học và công nghệ chỉ đạo, trực tiếp là Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng phối hợp các Bộ thực hiện, đã không theo kịp tiến độ của phát triển kinh tế xã hội và tiến trình hội nhập của đất nước chúng ta. Cần xác lập tư duy về hội nhập, về thoả thuận thừa nhận lẫn nhau, về thử nghiệm theo ISO IEC 17025 thay thế tư duy mỗi ngành một lãnh địa thử nghiệm, manh mún, năng lực thấp, không có khả năng cạnh tranh, không có khả năng hỗ trợ doanh nghiệp và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, dễ bị thói quan liêu chi phối.
Các số liệu thử nghiệm, xét nghiệm phải trở thành căn cứ khoa học của quản lí nhà nước, của các hoạt động chuyên môn, được công khai, minh bạch!
TẠP CHÍ TIÊU CHUẨN - ĐO LƯỜNG - CHẤT LƯỢNG/CHUYÊN SAN CHẤT LƯỢNG VÀNG SỐ 6/2007
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét